← Quay lại trang sách

- VII - HOÀNG ĐẠO (1907 - 1948)

Tiểu sử:

Tên thật: Nguyễn Tường Long

Đạo hiệu: Phúc Vân

Các bút hiệu khác: Tứ Ly, Tường Minh, v.v...

.

Nguyên quán làng Cẩm Phô, nay thuộc xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ông nội làm tri huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (Bắc phần) và khi về hưu đã lưu cư tại đây, ông thân sinh là một nhà Nho không thành đạt và mất sớm, bà thân mẫu tần tảo buôn bán nuôi bảy người con, sáu trai một gái. Đến khi tất cả đều trưởng thành, bà cụ đi tu Đạo Phật, hiện trụ trì tại một ngôi chùa kế cận Sài Gòn.

Trong bảy anh chị em, ông là người thứ tư: 1) Nguyễn Tường Thụy, 2) Nguyễn Tường Cẩm, 3) Nguyễn Tường Tam tức Nhất Linh, 4) Nguyễn Tường Long, 5) Nguyễn Thị Thế, 6) Nguyễn Tường Lân tức Thạch Lam, 7) Nguyễn Tường Bách.

Ông sinh tại làng Hàn Giang, huyện lỵ huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (trên đường xe lửa Hà Nội - Hải Dương) ngày 11 tháng 10 năm Đinh Mùi tức ngày 16 tháng 11 năm 1907. Thuở nhỏ học ở trường huyện, ông tên là Nguyễn Tường Tư nhưng sau không đủ tuổi để đi thi nên gia đình khai tăng lên bốn tuổi, đổi tên là Nguyễn Tường Long và đổi ngày sinh là 3 tháng 4 năm 1903. Qua bậc tiểu học ông bị ốm nên tự học ở nhà. Năm 1924 thi đậu bằng Cao đẳng Tiểu học Pháp và liền đó đậu vào trường Luật Đông Dương tại Hà Nội. Tốt nghiệp năm 1927 ông vào làm Tham tá ngân khố Hà Nội. Tiếp tục học thêm, ông đậu Tú tài Pháp và chuyển sang ngạch Tư pháp, làm Tham tá lục sự năm 1929. Với chức vụ này, ông đã ngồi ghế lục sự khắp các tòa “Tây án” và vì thế đã có dịp sống ở khắp các tỉnh và thành phố từ Nam chí Bắc. Trong khi ở ngạch Tư pháp, đã có lần Chánh phủ Pháp bổ ông sang ngạch quan lại và bổ nhiệm tri huyện nhưng ông nhất thiết từ chối hành động mua chuộc này. Sau hơn mười năm ở ngạch Tư pháp, ông từ chức để chuyên tâm vào các hoạt động văn hóa và cách mạng.

Lập gia đình năm 1933, ông được bốn người con, ba gái một trai. Ông mất ngày 16 tháng 6 năm Mậu Tý tức 23 tháng 7 năm 1948 trên chuyến xe lửa từ Hương Cảng về Quảng Châu, thi hài được đưa xuống an táng tại trấn Thạch Long. Thời gian này, ông lưu trú trên đất Trung Hoa sau khi lực lượng quan sự của hàng ngũ cách mạng dân tộc bị Việt Minh cộng sản tiêu diệt trong cuộc nội chiến kéo dài suốt từ 1945 sang đến cuối năm 1946.

Sự nghiệp văn hóa

Năm 1932, sau khi đã hoàn toàn dẹp xong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng, thống trị Pháp mở một cuộc thuyên chuyển lớn trong hàng ngũ viên chức bổn xứ, nhắm giai đoạn liên lạc giữa những người trí thức Việt Nam yêu nước. Nhưng đối với Nguyễn Tường Long việc đổi từ Sài Gòn ra Hà Nội lại là một dịp may để ông cùng với anh em hoạt động. Nghiên cứu những kinh nghiệm mang lại do cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học và tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, ông cùng anh ruột là Nguyễn Tường Tam và một người bạn là ông Trần Khánh Giư tức Khái Hưng tự vạch ra một con đường chiến đấu trường kỳ đi tới giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.

Đó là con đường huấn luyện quần chúng bằng báo chí. Năm 1933 bộ ba này nhận lại một tờ báo đang sắp chết là tờ Phong Hóa của một người bạn là Phạm Hữu Ninh. Bằng một kỹ thuật học được của báo chí tiến bộ châu Âu, bằng một lối hành văn mới và nhất là bằng giọng hài hước, họ đã làm cho tờ Phong Hóa sống lại và truyền bá rất mau. Chủ trương của bộ ba này lúc đầu là dùng nghệ thuật, văn chương để thu hút quần chúng, dùng cái cười làm khí giới để chen vào cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng “theo mới” và “tồn cổ” mà họ đứng hẳn vào khuynh hướng triệt để theo mới. Khi đã thu hút được quần chúng rồi, họ bắt đầu chuyển sang việc truyền bá những tư tưởng cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội, nhịp theo trào lưu tiến hóa của thế giới. Thanh thế của tờ báo càng lớn thì những người có tâm huyết có tài năng tìm đến hợp tác mỗi ngày một đông, và nổi bật nhất là Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ tức Nguyễn Thế Lữ.

Trong báo Phong Hóa, Nguyễn Tường Long lấy bút hiệu là Tứ Ly. Sở dĩ ông chọn bút hiệu này là vì muốn đả phá thói mê tín bốc phệ, ông đã chọn giờ xấu nhất trong ngày là giớ Tứ Ly là tên hiệu. Thời kỳ này Tứ Ly rất ít khi viết những bài nghị luận chính trị, kinh tế hoặc xã hội mà chỉ chuyên về mặt đả kích. Bằng một lối văn hài hước, khi thì nhẹ nhàng thâm thuý kiểu nhà Nho, khi thì sâu cay độc địa kiểu những cây bút đả kích Tây phương, Tứ Ly đả kích tất cả những người và những việc mà ông cho là tiêu cực, là hủ bại, là cản đường tiến của xã hội. Bất cứ một chuyện nhỏ hay chuyện lớn ảnh hưởng quan trọng hay thoảng qua, tất cả đều có thể là những đầu đề cho Tứ Ly đả kích để đưa chủ trương “theo mới” những tư tưởng tiến bộ của mình ra: một vụ kiện tranh ngôi thứ, một biện pháp hành chính mới của thống trị Pháp, một thay đổi chức vụ trong Triều đình Huế, một viên quan bị tố cáo ăn hối lộ, một câu văn viết không rõ ý của một tờ báo khác, một tư tưởng nhai lại, thậm chí một nét mặt, một kiểu phục sức như cái mũi đỏ của Tản Đả Nguyễn Khắc Hiếu, cái búi tóc củ hành của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố... tất cả đều bị Tứ Ly đưa lên mặt báo, mổ xẻ để đả kích bằng cả lý luận lẫn giọng cười.

Báo Phong Hóa càng ngày có ảnh hưởng càng lớn. Mật thám Pháp dò biết Tứ Ly là linh hồn của cơ quan này nên đã ra lịnh đổi viên Tham tá lục sự Nguyễn Tường Long từ Hà Nội vào Đà Nằng nhằm tách rời ông khỏi bộ tham mưu. Nhưng trở lại miền Trung là Tứ Ly lại có thêm một dịp để đả kích chế độ cai trị cực kỳ khắc nghiệt của thực dân với những tay sai đắc lực của chúng trong hàng ngũ quan lại Nam triều. Vì thế, thực dân Pháp không còn cách nào khác là hạ lệnh đóng cửa tuần báo Phong Hóa. Lúc đó vào năm 1937.

Nhưng báo Phong Hóa chết, nhóm của ông đã có sằn nhà xuất bản Đời Nay để làm cầu liên lạc với người đọc qua những tác phẩm văn nghệ đã đăng trong báo đó. Thời kỳ này, Tứ Ly không có một văn phẩm nào để xuất bản. Ít lâu sau người anh thứ hai của ông là Nguyễn Tường Cẩm xin được ra một tờ báo khác là tuần báo Ngày Nay. Trong 18 số đầu, tờ Ngày Nay chuyên về hình ảnh và phóng sự với mục đích là tránh sự rình rập của thực dân Pháp. Từ số 19, tờ Ngày Nay bắt đầu đổi thể tài, chuyên về văn nghệ và Tứ Ly đổi là Hoàng Đạo để thỉnh thoảng viết một vài bài đả kích nhẹ nhàng. Ngược lại với bút hiệu chọn lần trước, với tờ Ngày Nay, Nguyễn Tường Long lấy giờ Hoàng Đạo là giờ tốt nhất trong ngày để thay cho tên Tứ Ly. Chính trong thời gian bắt đầu xây dựng tờ Ngày Nay, tác giả đã ghi chép một số những vụ xử án điển hình tại Tòa tiểu hình Hà Nội trong khi ông ngồi ghế Lục sự tại tòa này và đăng trong mục “TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA”. Dụng ý của ông khi viết mục này là vẽ lại cảnh sống cơ cực, trình độ thấp kém của người dân Việt Nam dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp qua sự xét định của tòa án Pháp, theo luật lệ của Pháp, thứ luật lệ mà người Pháp vẫn tự hào là nhất thế giới.

Qua nhiều lần thay đổi thể tài, phần văn nghệ dần dần được giới hạn và đưa từ trang đầu vào trang giữa rồi chuyển về những trang cuối của tờ báo, phần nghị luận chính trị kinh tế xã hội được tăng cường tùy theo tình hình chính trị và sự canh chừng của thực dân lúc đó. Cây bút nghị luận Hoàng Đạo càng ngày viết càng nhiều và không ngừng đưa ra những tư tưởng tiến bộ, giới thiệu những khuynh hướng chính trị và cách mạng trên thế giới, khảo cứu thực trạng của xã hội Việt Nam để dẫn dắt người đọc đi tới con đường cách mạng. Ông đã viết từng loạt bài nối tiếp, từ “Mười Điều Tâm Niệm” mà ông coi như kim chỉ nam cho thanh niên thời ấy..., đến Công dân Giáo dục để giới thiệu các chế độ chính trị, khuynh hướng dân chủ ở nước ngoài, cùng các chủ nghĩa chính trị, các đảng phái, từ chủ nghĩa Vô chính phủ đến chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Cộng sản. Các vấn đề trong nước được ông khảo xét một cách minh bạch, từ đời sống nông dân sau lũy tre xanh đến những cảnh vật lộn cực khổ của lao động thợ thuyền ở thành thị, với những loạt bài “Bùn lầy nước đọng” và “Vấn đề cần lao”. Trong thời kỳ Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp, ông đã có hoàn cảnh lên án cực kỳ nghiêm khắc chủ nghĩa thực dân xâm chiếm thuộc địa với loạt bài khảo cứu nhan đề: “Thuộc địa Ký ước”.

Trong báo Ngày Nay, ông cũng có viết một chuyện dài nhan đề Con Đường Sáng và một số truyện ngắn, nhưng ông chưa tìm ra được một lối viết truyện thích hợp. Sau này ông có để riêng một thời gian để nghiên cứu kỹ thuật về tiểu thuyết và ông đã xây dựng một số tác phẩm lớn nhưng đều phải bỏ dở vì những hoạt động cách mạng.

Có thể nói rằng, sự nghiệp văn chương của Hoàng Đạo ngừng lại cùng lúc với tuần báo Ngày Nay bị đóng cửa năm 1940, sau khi nước Pháp bị Đức chiếm đóng. Và từ đó ông chuyên về những hoạt động cách mạng. Cuối năm 1940, vì tổ chức Đảng Đại Việt Dân Chính chủ trương xây dựng lực lượng lợi dụng các biến cố quốc tế để đánh đuổi thực dân Pháp, lật đổ triều đình Huế, xây dựng một nước Việt Nam Độc lập và Dân chủ mà ông cùng các đồng chí bị Pháp bắt giam và đưa đi đày tại trại an trí Vụ Bản thuộc châu Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Năm 1943 thực dân Pháp giải ông về quản thúc tại Hà Nội. Tháng 6 năm 1946, sau khi lực lượng cách mạng dân tộc bị kiệt quệ trong cuộc nội chiến chống Việt Minh Cộng sản, ông cùng các chiến sĩ Quốc Dân Quân rút sang Trung Quốc. Trú ở Côn Minh rồi sang Quảng Châu, ông bị bệnh đau tim và mất tại đó.

(Bản của Nhà xuất bản Tự Do).

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

(Những đoạn trích căn cứ vào bản của Nhà xuất bản Tự Do - 1958)

1. Điều tâm niệm thứ nhất

Theo mới

Hoàn toàn mới, không chút do dự

A. Sơ lược nội dung:

Thoạt tác giả ghi nhận sự sực tỉnh của người dân Việt, sực tỉnh một giấc ngủ cổ hủ tự ngàn năm. Tỉnh giấc như vậy là điều đáng mừng. Trước khi đề cập đến nội dung và phương pháp của vấn đề theo mới, tác giả thoạt cực lực đả kích thái độ bảo thủ cũng như thái độ trung dung:

- Phải bảo thủ muốn duy trì nếp sống cũ giản dị, chất phác, nên thơ: trai đọc sách ngâm thơ, gái ra vào canh cửi. Nhưng trong cuộc đời cũ bề ngoài nên thơ đó ngấm ngầm biết bao đau khổ. Nào trong gia đình thì cảnh khổ làm dâu, làm con, nào ngoài xã hội thì cảnh khổ của lũ người cùng đinh khố rách áo ôm chịu đủ thứ thiệt thòi.

- Phái trung dung muốn dung hòa cũ mới. Nhưng phái này tất nhiên thất bại vì không thể dung hòa được:

“Hai cái văn hóa như hai dòng nước chảy trên một trái núi xuống, nhưng một dòng chảy về phía Đông, một dòng chảy về phía Tây, không sao hợp lại làm một được” (tr.20).

Sau khi đả kích hai phái thủ cựu và trung dung, tác giả đưa đến quyết định: phải theo mới, theo một cách quả quyết.

Theo mới đây là Âu hóa. Cứ cho du nhập văn hóa Âu Mỹ vào đất nước, rồi người dân Việt sẽ biết cách dung hòa mà chọn lấy những cái thích hợp hoặc bỏ những cái không thích hợp.

Mỗi hành động của ta phải là hành động của người có óc tân tiến. Sau khi hành động phải tự kiểm thảo ngay xem tư tưởng của ta có còn rớt cặn bã của óc thủ cựu hay không để liệu mà khu trừ ngay.

Ngoài ra ta còn phải luôn luôn nỗ lực giảng giải, dẫn dụ cho người xung quanh ta cùng theo mới.

Và sau hết tác giả kết luận, giọng nhiệt thành, đanh thép: “Nào những ai thành thực muốn cho nước ta, dân ta sống một đời sống... đứng cả dậy”.

B. Phê bình

Chúng ta đồng ý với Hoàng Đạo ở điểm ông đả kích những cổ hủ của phái cũ. Và cũng chỉ riêng những cổ hủ của phái cũ thôi, bởi có phải đâu tất cả cái cũ đều dở.

Chúng ta cũng đồng ý với Hoàng Đạo ở điểm ông đả kích thái độ lưỡng lự, rụt rè của phái trung dung. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên lầm nội dung của thuyết trung dung với thái độ rụt rè của những người theo thuyết trung dung.

Nếu trung dung là “tùy cảnh tùy thời mà xử sự, mỗi lúc một khác nhưng bao giờ cũng hợp với thiên lý, hợp với lẽ phải, không thái quá mà cũng không bất cập”, thì sao chúng ta có thể chê được?

Sau khi hô hào là phải hoàn toàn theo mới và theo mới không chút do dự, tác giả viết:

“Văn hóa Âu Mỹ đem sang trồng ở đất ta tự nhiên sẽ biến những điều hợp với tinh thần An Nam sẽ còn và nảy nở ra, những điều không thích hợp sẽ tự nhiên bị đào thải. Không nên lo, ta sẽ hóa ra người Pháp nửa mùa, nói tiếng Pháp lai căng. Dân tộc ta hàng ngàn năm bị văn hóa Tàu đàn áp mà vẫn giữ được tính cách riêng không đến nỗi hóa ra người Tàu cả. Vậy bây giờ ta đem văn hóa Tây áp dụng vào cuộc đời, mũi ta không đến nỗi lõ và ta không đến nỗi mất tinh thần riêng của ta”. (tr.22)

Cái gì đã khiến dân tộc ta hàng ngàn năm bị văn hóa Tàu đàn áp mà không bị “Tàu hóa”, cái gì khiến tác giả tin tưởng rằng văn hóa Âu Mỹ đem trồng xứ ta sẽ biến tính đi cho thích hợp? Phải chăng đó chính là năng lực đồng hóa làm nên cá tính của dân tộc nhà.

Giữ được cá tính dân tộc phải chăng là giữ được căn bản tinh hoa cái cũ?

Thu nhận văn hóa ngoại lai mà vẫn không bị ngoại lai đồng hóa, phải chăng vì chúng ta đã khéo biết giữ tinh hoa của cái cũ, làm chiếc đũa thần đồng hóa những cái mới? Và như vậy há chẳng là một hình thức của dung hòa?

2. Điều tâm niệm thứ hai

Tin ở sự tiến bộ

Một ngày có thể một hơn

A. Sơ lược nội dung

Có tin ở sự tiến bộ, ta mới có thể lo hành động để đi tới sự tiến bộ được. Tin ở sự tiến bộ của người về phương diện luân lý cũng như về phương diện tinh thần và vật chất.

Tin ở sự tiến bộ của người vì người có lương tri:

“Ta cần phải tin rằng hết thảy mọi đẳng cấp trong xã hội không khác nhau vê lương tri, vê tinh thần, chỉ khác nhau về học thức. Từ người phu xe cho chí ông tiến sĩ, ai ai cũng vậy, đêu có thê thay đôi một ngày một hơn” (tr.29)

về mặt luân lý, tác giả tin rằng luân lý hiện giờ nhân đạo hơn nền luân lý xưa nhiều lắm, mà rồi về sau đây quan niệm của ta về phương diện ấy chắc chắn là sẽ hợp với nhân đạo hơn quan niệm của ta hiện giờ.

về mặt tinh thần và vật chất, tác giả nói điều cốt yếu là ta phải tin ở sự tiến bộ của khoa học. Theo ý tác giả, đời sống khoa học có nghĩa là đời sống cương cường, tác giả viết:

“Đời ta đương sống hiện thời là một đời khoa học: có cương cường mới sinh tồn được, còn nhu nhược ắt phải lần hôi đào thải” (tr.28).

Phê bình

Xưa Mạnh Tử tin ở tính thiện của con người, ở đây Hoàng Đạo tin ở sự tiến bộ tất nhiên của con người. Tự huấn luyện cho có lòng tin ở đó, cố thực hiện lòng tin đó để nhân loại cùng tiến bước trên con đường văn minh, còn gì đáng quý cho bằng?

Điều tâm niệm thứ nhất hô hào theo mới, điều thứ hai tin ở sự tiến bộ, hai điều một và hai như bổ khuyết cho nhau ở cùng một quan niệm: tin ở văn minh khoa học hiếu động của Tây phương, đả kích văn minh chủ tĩnh của Đông phương:

“Văn hóa Tây phương hiếu động, cốt ở chỗ luôn luôn thay đôi, không lúc nào ngừng, còn văn hóa Viễn Đông cũ chủ tĩnh, luôn đứng dừng lại ở một nơi”.

(Điều tâm niệm thứ nhất - tr.21)

“Vê mặt tinh thần và vật chất, điêu cốt yếu là ta tin ở sự tiến bộ của khoa học. Đời ta đương sống hiện thời là đời khoa học”.

(Điều tâm niệm thứ hai - tr.28).

Hai điều tâm niệm thứ nhất và thứ hai này hợp với điều tâm niệm thứ bảy (Luyện lấy bộ óc khoa học) và điều tâm niệm thứ mười (Cần có trí xếp đặt) thành một “bộ bốn” để ca ngợi khoa học như một chiếc đũa vạn năng đã và đương xây dựng văn minh, hạnh phúc cho những dân tộc nào biết đến nó.

Hô hào cổ động đem ánh sáng khoa học đến đả phá những lề lối làm việc luộm thuộm lạc hậu, những mê tín dị đoan hủ lậu là điều khẩn cấp hợp lý của Hoàng Đạo vào thời ấy. Tuy nhiên dầu sao chúng ta ngày nay cũng phải nhìn vào vấn đều cho thấu triệt và ghi thêm rằng: khoa học không phải là vạn năng, khoa học không thể giải quyết được những vấn đề con người. Einstein đã ưu tư khổ não bao nhiêu sau khi hai trái bom nguyên tử đầu tiên hủy diệt ngót một triệu sinh mạng ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Ông há chẳng đã tuyên bố: kiếp sau thà đi bán bánh mì kiếm ăn còn hơn làm nhà bác học.

Câu nói cửa miệng của người Tây phương: “Khoa học không lương tâm chỉ là bại hoại của tâm hồn” (Science sans conscience n’est que ruine de l’âme). Nhà bác học vừa ra khỏi phòng thí nghiệm với bộ mặt chiến thắng thì liền bị ám ảnh bởi những hậu quả vô kể mà sự phát minh của ông có thể mang lại hạnh phúc hay đau thương cho nhân loại.

Hẳn cũng là thông cảm điều trên mà ông Phạm Thế Ngũ có đoạn viết về Hoàng Đạo như sau:

“Bởi vì con người khao khát tuyệt đối lại sống trong cõi thế đầy sự bất toàn này có quyền nhìn lên một lý tưởng toàn thiện toàn chân, thể hiện ở một tôn giáo để tìm một hướng đi cao siêu cho cuộc đời, một niềm an ủi tuyệt vời cho những nỗi đau khổ. Sự tín ngưỡng ấy không có chi là phản khoa học, trái lại được rất nhiều nhà khoa học chia theo. Mà chẳng nói ở phạm vi cá nhân về phương diện lý tưởng, nói ngay ra xã hội về phương diện thực tiễn nếu những mê tín nhảm nhí là có hại thì lòng tin vào một đấng chí công vô tư thưởng thiện phạt ác không phải là vô ích cho tinh thần đạo đức của dân chúng, cho phong hóa, cho trật tự xã hội. Ở đại hạt này, chúng ta không dám nói là Hoàng Đạo chủ trương vô thần, nhưng lời lẽ cực đoan của ông khiến người ta có thể hiểu rằng ông đã loại bỏ tôn giáo, đã không công nhận cho tôn giáo một lợi ích gì trong đời sống cá nhân hay xã hội”.

(Phạm Thế Ngũ - Bài Việt văn kỳ thi Tú tài, quyển III Quốc học Tùng Thư - trang 273).

Điều tâm niệm thứ ba

Sống theo một lý tưởng

Sơ lược nội dung

Tác giả đả kích nếp sống các cụ đồ Nho xưa quá nô lệ cho những tư tưởng trong Tứ thư - Ngũ kinh:

“Các cụ Nho ta ngày xưa: hết đời này sang đời khác cứ bình tĩnh lần theo đường ấy, như con ngựa thấy cương cứ thẳng lối mà đi không lệch sang lối khác” (tr.31)

Rồi tiếng súng thần công của Tây phương đến phá đổ tòa lâu đài kiên cố của các nhà Nho, và các bạn trẻ sống vào buổi giao thời bị giằng co giữa hai lực lượng văn hóa cũ và mới:

“Giáo dục ở nhà trường đưa họ đi một nơi, giáo dục trong gia đình kéo họ về một nẻo, bao nhiêu nỗi băn khoăn, đau khổ đều vì sự tương phản ấy mà ra” (tr.33).

Trong tình trạng đó một số thanh niên không đủ can đảm chịu đựng được lòng băn khoăn bèn tìm quên lãng trong hoan lạc vật chất; một số khác không đủ can đảm tìm tòi nghĩa lý đời người cho đến cùng; chung cục cũng đành theo hoàn cảnh mà sống một đời vô vị.

Sau khi nhận định hai hạng người trên tác giả viết:

“Thanh niên ta không thể sống mãi như vậy được. Ta muốn đời ta có nghĩa lý, muốn cho dân ta một ngày một mới, một ngày một hơn, ta phải tìm một lý tưởng mà theo” (tr.33).

Đời có giá trị là đời có lý tưởng. Lý tưởng phải dựa vào những năng lực những tính chất cao quý của loài người. Có lý tưởng ta sẽ vui mà sống, tự hào mà sống.

Điều tâm niệm thứ tư

Làm việc xã hội

Sơ lược nội dung

Thời xưa, dưới trình độ nhà Nho, trí óc bo bo nhỏ hẹp trong gia đình, tầm mắt không vượt lũy tre xanh. Song thời đại văn minh cá nhân cần được giải phóng khỏi chế độ chật hẹp đó để gia nhập vào đoàn thể xã hội, đem hết tài trí ra làm việc cho xã hội, nâng đỡ những người yếu hèn khổ sở.

Phải đoàn kết để lập nên một sức mạnh mà bênh vực giúp nhau cùng tiến. Lập hội học để mở mang trí thức; lập hội thể dục để gây tinh thần bằng hữu, vừa để luyện tập cho than thể cường tráng; lập hội cứu tế để giúp đỡ những người khác, nuôi lấy một tinh thần nghĩa hiệp.

Điều tâm niệm thứ năm

Luyện tính khí

A. Sơ lược nội dung

Luyện trí não để mình thành người có học thức. Nhưng có học mà không có hạnh thì cái học đó cũng chẳng ích lợi gì hoặc có học nhưng đem áp dụng tài mình vào những dịp lừa bịp, bợ đỡ thì lại càng tệ hại hơn nữa.

Luyện tính khí để mình trở thành con người cương cường quả quyết, những khuynh hướng xả kỷ, nhân ái đè bẹp những khuynh hướng vị kỷ, đê hèn; luyện cho mình và cho người xung quanh mình có được tâm hồn cao thượng.

Luyện tính khí để can đảm chủ động, giữ gìn nhân phẩm chứ không nhẫn nhục ủy mị, hèn yếu: cương phải thắng nhu.

Luyện cho thân thể cường tráng để linh hồn minh mẫn, không sợ, không ninh, không ghét, vui vẻ và quyết đoán, luyện được tính khí như vậy là giữ được giá trị của con người.

B. Phê bình

Chủ trương của Hoàng Đạo ở đây là “cương” nhất định phải thắng “nhu” cũng nhiễm tính cực đoan, một chiều. Gandhi chủ trương bất bạo động đã được cả thế giới tôn sùng là bậc thánh, Krishna Chaitanya, một bậc thánh khác khuyên: “Hãy biết tự hạ hơn ngọn cỏ tầm thường, kiên nhẫn hơn một khúc gô, không đòi hỏi ai kính trọng mình mà mình thì kính trọng hết thảy chúng sinh”.

Phải có một sức mạnh tinh thần phi thường mới thực hiện được cái dũng dưới hình thức nhân nhục đó của thánh nhân.

Điều tâm niệm thứ sáu

Phụ nữ ra ngoài xã hội

Sơ lược nội dung

Ở đây tác giả tán thưởng vẻ kiều diễn của cô gái tân thời nhưng tác giả nhấn mạnh răng như vậy chưa đủ. Phụ nữ Au Mỹ họ đòi bình đẳng không những về quyền lợi mà còn về nghĩa vụ nữa, họ có mặt trong hầu hết các nghề nghiệp: cảnh sát, thượng thư, dân biểu, lãnh sự... Tác giả hô hào chị em phụ nữ nước nhà “cần phải mạnh bạo hơn nữa gom tài, gom sức để lập hội học, hội thể dục, hội cứu tế, đoàn hướng đạo... và những công cuộc khác bọn nam giới đương theo đuôi” (tr.51).

Như vậy xã hội sẽ được hưởng thêm những tấm lòng từ thiện xả kỷ bấy lâu ẩn núp trong gia đình.

Điều tâm niệm thứ bảy

Luyện lấy bộ óc khoa học

A. Sơ lược nội dung

Trong bài này tác giả cực lực đả kích óc mê tín dị đoan xưa và hô hào thanh niên phải luyện lấy bộ óc khoa học, tin ở sự mầu nhiệm của khoa học:

“vẫn hay khoa học hiện giờ không phải có phân giải được hết thiên tướng. Nhiều điều huyền bí vẫn còn nguyên là huyền bí. Nhiều luật thiên nhiên vẫn còn trong vòng mờ ám, chưa phát minh ra được. Song những người có óc khoa học đều tin rằng những điều còn huyền bí kia sẽ có ngày phán giải được, vì những điều ấy là sự phát dương của một luật thiên nhiên chưa minh hiển...” (tr.55).

Tác giả hô hào chúng ta chỉ nên tín phục chân lý của khoa học, chỉ nên tin là thật những điều mà khoa học đã chứng minh là thật.

Sau khi nêu những tỉ dụ tức cười về mê tín dị đoan, tác giả kết luận bằng lời hô hào khích lệ:

“Vậy bổn phận của thanh niên ta, không những là luyện lấy bộ óc khoa học mà còn phải luyện trí thức người khác cho trở nên có tính cách khoa học nữa.

Ta phải luôn nhớ rằng thiếu bộ óc khoa học, không thể có tiến bộ được” (tr.56).

B. Phê bình

(Xin xem phần phê bình Điều tâm niệm thứ hai ở trên)

Điều tâm niệm thứ tám

Cần sự nghiệp không cần công danh

A. Sơ lược nội dung

Tác giả đả kích thói chuộng công danh của người mình. Xưa kia đi học mong đỗ ông Nghè ông Cống để võng lọng nghênh ngang, nay thì đi học mong kiếm được chức quan tham, quan Huyện. Câu châm ngôn “Phi cao đẳng bất thành phu phụ” của nhiều thiếu nữ thực đáng cho ta ngao ngán không biết ngần nào.

Sau khi nêu gương sự nghiệp về cai trị của Nguyễn Công Trứ, sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát (những vị này hoặc coi thường công danh hoặc không có công danh) tác giả khuyên bạn trẻ:

“Ta phải lúc nào cũng tự nhủ rằng công danh không đáng kể duy có sự nghiệp thôi” (tr.59)

“Ta phải chăm nom vun xới cho sự nghiệp của ta, ta sẽ được hưởng cái lạc thú vô song của một đời sống đầy đủ, của một đời có ích cho người chung quanh” (tr.60)

B. Phê bình

Ông Lê Hữu Mục có viết về Hoàng Đạo trong cuốn Luận đề Hoàng Đạo của ông như sau:

““Xuất thân trường Cao đẳng Pháp Chính, ông nhất định không ra làm quan như các bạn đồng liêu và đã dùng tất cả thời giờ của một ông Tham tá Lục sự để tranh đấu cho dân quê thoát khỏi sự bóc lột tàn nhẫn của quan trường, cởi bỏ những tập tục hủ lậu, những điều mê tín dị đoan để tự do sống trong một tổ chức hành chính và chính trị hợp lý”

Chúng ta thấy gương sáng của tác giả ““Mười điều tâm niệm” chính là ở chỗ lời nói với việc làm là một.

Điều tâm niệm thứ chín

Luyện thân thể cường tráng

Sơ lược nội dung

Các cụ đồ Nho ta trước đây thường trọng văn khinh võ, yên trí rằng sức mạnh thân thể sẽ lấp mất sự sáng suốt của trí khôn. Có biết đâu câu châm ngôn xác đáng của Hy Lạp xưa đã nói: “Một linh hồn cường tráng trong một thân thể cường tráng”.

Luyện tập thể thao còn có ảnh hưởng lớn đến tính khí của ta nữa, nhiều đức tính của ta nhờ đó mà tăng tiến, lòng dũng cảm, trí kiên nhẫn, lòng tự tin, và sự biết phục theo kỷ luật. Vậy bổn phận của thanh niên là phải kết đoàn lại lập hội thể thao, luyện lấy thân thể cho cường tráng mà đạt tới những thành tích vẻ vang như người Đức, người Mỹ, người Nhật.

Điều tâm niệm thứ mười

Cần phải có trí xếp đặt

Dân ta sống hồn nhiên không biết giá trị của thời gian mà cũng không chịu vào khuôn vào phép, vào kỷ luật để mưu tồn những công cuộc to lớn lâu dài. Hãy noi gương người Âu Mỹ trong một công cuộc chung phải có tổ chức, xếp đặt để những phần tử đều có quyền hạn rõ ràng, có trách nhiệm phân minh, những phần tử ấy đều cùng hoạt động nhịp nhàng để mưu đạt mục đích chung. Hãy thay cái tinh thần luộm thuộm, cẩu thả của các cụ xưa, bằng phương pháp xếp đặt của người Tây để các công cuộc chung của chúng ta đạt được kết quả rực rỡ.

Tổng luận về Mười Điều Tâm Niệm

A. Phân loại

Căn cứ vào nội dung của từng bài chúng ta có thể xếp loại Mười Điều Tâm Niệm như sau:

1. Đề cao và khuyến khích tinh thần khoa học:

- Theo mới (điều 1)

- Tin ở sự tiến bộ (điều 2)

- Luyện lấy bộ óc Khoa học (điều 7)

- Cần có trí xếp đặt (điều 10)

2. Luyện tính khí và luyện thân thể:

- Luyện tính khí (điều 5)

- Luyện thân thể cường tráng (điều 9)

3. Lý tưởng sống:

- Sống theo một lý tưởng (điều 3)

- Cần sự nghiệp không cần công danh (điều 8)

4. Cùng làm việc cho xã hội:

- Làm việc xã hội (điều 4)

- Phụ nữ ra ngoài xã hội (điều 6)

Ở đây chúng tôi ghi nhận thêm một cách phân loại nữa của ông Phạm Thế Ngũ để học sinh tiên bề tra cứu:

- Thân thể: cường tráng (điều 9)

Con người - Trí não: óc khoa học (điều 7)

Óc xếp đặt (điều 10)

Tư tưởng - Tin vào sự tiến bộ (điều 2)

- Có một lý tưởng (điều 3)

- Xây dựng sự nghiệp (điều 8)

Hành động - Làm việc xã hội (điều 4)

- (cả giới phụ nữ) (điều 6)

Và ta có thể tóm tắt những cái cũ tệ hại thành một bảng đối chiếu như sau:

Con người cũ

- Thân thể: yếu đuối nhu nhược

- Trí não: óc mê tín dị đoan, cẩu thả, luộm thuộm

- Tâm hồn: mềm yếu, nhút nhát

Tư tưởng cũ:

- Không tin vào tiến bộ, đặt sự tân thiện mỹ ở quá khứ

- Không có lý tưởng tranh đấu. Xưa kia nhà Nho nhắm mắt tòng cổ, giờ đây nhiều người sống bơ vơ, vô lý tưởng

- Mưu công danh (địa vị, quan chức, bổng lộc)

Hành động cũ

- Chỉ làm việc cho bản thân hay cho gia đình

- Nhất là phụ nữ sống trói buộc hèn yếu.

(Xem quyển III, trang 270 – 271)

B. Tổng bình nội dung

Hầu hết những điều tâm niệm đều đả kích xã hội cũ mà đại diện là nhà Nho thủ cựu. Chúng ta đồng ý với tác giả ở thái độ sống phải có một lý tưởng, cần sự nghiệp, không cần công danh, cần làm việc với tinh thần khoa học... Nhưng về thái độ tác giả hoàn toàn đả kích những cái cũ và đề cao đến tuyệt đích khoa học thì chúng ta nên nghĩ rằng đó là thái độ hợp lý cho riêng thời tác giả. Vào thời đó tác giả cần phóng đại khía cạnh khoa học để đánh đổ những tập tục hủ lậu cũ, chúng ngăn cản bước tiến của dân tộc. Sự thực vấn đề cũ mới, vấn đề quá tôn sùng khoa học cần được nhận định lại cho sâu sắc và toàn diện hơn.