CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH 1-Barcelona, tháng Mười hai, 1957
Năm ấy vào mùa Giáng sinh, mỗi buổi sớm mai được bao phủ trong làn sương giá dưới bầu trời xám xịt. Sắc xanh nhạt bao phủ lên thành phố và người ta đi qua đi lại, quấn kín đến tận tai và vẽ nên những đường hơi nước bằng hơi thở của họ trong tiết trời giá lạnh. Chẳng mấy ai nán lại để nhìn vào hiệu sách 'Sempere & Con trai', lại càng ít người đánh bạo bước vào để hỏi cuốn sách đã chờ đợi họ suốt cuộc đời mà việc nó bán được, ngoài đem lại niềm vui thi ca, sẽ góp phần làm vơi nhẹ tình trạng tài chính đang khốn khó của cửa hàng.
“Con nghĩ hôm nay sẽ là ngày đó. Hôm nay vận may của chúng ta sẽ thay đổi,” tôi tuyên bố khi đang nhâm nhi ly cà phê đầu tiên trong ngày, với một niềm lạc quan thuần khiết ở trạng thái lỏng.
Cha tôi, người đã chiến đấu với cuốn sổ cái từ tám giờ sáng, xoay xoay cây bút chì và cục tẩy, ngước lên từ quầy và theo dõi đám khách hàng khó với đang mất hút vào con phố.
“Chúa nghe được lời con, Daniel, vì cứ thế này, nếu chúng ta không bù được lỗ trong mùa Giáng sinh, ta sẽ không đủ sức trả hóa đơn tiền điện tháng Giêng đâu. Chúng ta sẽ phải làm gì đó.”
“Hôm qua Fermín có một ý,” tôi ướm thử. “Anh ta nghĩ đó là một kế hoạch thông minh và sẽ cứu hiệu sách này khỏi vụ phá sản sắp xảy ra.”
“Chúa phù hộ chúng ta.”
Tôi dẫn lại lời Fermín, từng chữ một:
“Nếu nhỡ tình cờ người ta bắt gặp tôi đang mặc quần lót chỉnh lại mấy tấm kính của cửa hàng, một số quý cô đang cần những cảm xúc văn chương mạnh mẽ sẽ bị hút vào và bị xui khiến phải chia tay với một mớ tiền mặt. Theo ý kiến chuyên gia, tương lai của văn chương phụ thuộc vào phụ nữ, và Chúa chứng giám, chỉ có phụ nữ chưa sinh ra mới có thể cưỡng lại sức cám dỗ nguyên sơ của cái vóc dáng kỳ diệu này,” tôi thuật lại.
Nghe sau lưng mình cây bút chì của cha rơi xuống sàn, tôi liền quay lại.
“Fermín đã nói vậy đấy,” tôi thêm vào.
Tôi nghĩ cha sẽ mỉm cười trước đề nghị của Fermín, nhưng nhận thấy ông vẫn yên lặng, tôi lén nhìn ông. Chẳng những Sempere Bố không thấy gợi ý này có chút gì hài hước, mà ông còn mang cái vẻ suy tư, cơ hồ đang cân nhắc điều đó thật nghiêm túc.
“Chà, chà... có lẽ Fermín đã vô tình chạm đúng nguyên nhân rồi,” ông lẩm nhẩm.
Tôi nhìn ông mà không tin nổi. Có lẽ tình trạng hiếm khách diễn ra mấy tuần vừa rồi cuối cùng đã ảnh hưởng đến óc xét đoán đáng tin của cha tôi.
“Bố đừng nói là sẽ cho phép anh ta mặc quần chẽn* đi quanh hiệu sách đấy nhé.”
•
Nguyên văn: Y-fronts, quần chẽn của đàn ông với đường may nổi và mở ra ở phía trước, may theo hình chữ Y lộn ngược.
“Không, dĩ nhiên là không. Là về mấy tấm kính hiệu sách. Con nhắc đến làm bố nghĩ ra một ý... Có lẽ rốt cuộc vẫn còn cơ hội để chúng ta cứu mùa Giáng sinh này.”
Ông biến mất vào phòng sau, rồi xuất hiện trở lại, vận bộ trang phục mùa đông quen thuộc: chiếc áo khoác, chiếc khăn, và chiếc mũ mà tôi nhớ ông đã mang từ hồi tôi còn bé. Bea ngờ rằng kể từ năm 1942 cha tôi chẳng hề mua quần áo mới và mọi thứ dường như chứng minh vợ tôi đúng. Khi xỏ găng tay, cha bất giác mỉm cười, mắt ông hấp háy niềm phấn khích như trẻ nhỏ, dáng vẻ mà chỉ những công việc trọng đại mới gợi lên được ở ông.
“Bố để mình con trông hiệu sách một lát,” ông tuyên bố. “Bố định làm một việc vặt.”
“Con có thể hỏi bố định đi đâu được không ạ?”
Cha nháy mắt với tôi.
“Một điều bất ngờ. Rồi con sẽ thấy.”
Tôi theo ông ra cửa, và thấy ông rảo bước về phía Puerta del Ángel, lại thêm một dáng người nữa trong làn sóng xám xịt những khách bộ hành đang băng qua một mùa đông dài khác của bóng tối và tro bụi.
2Tranh thủ tối đa việc được ở một mình, tôi quyết định mở radio và hưởng thụ chút nhạc trong lúc sắp xếp lại sách trên giá theo cách mình yêu thích. Cha tôi lý luận rằng mở radio khi cửa hiệu có khách là thiếu tế nhị và nếu tôi mở trong lúc Fermín đang ở đây, anh ta sẽ bắt đầu lẩm nhẩm theo bất cứ điệu nhạc nào, hoặc tệ hơn, nếu có cơ hội anh ta sẽ bắt đầu lắc lư theo cái anh ta gọi là “điệu Caribe nhục cảm” và chỉ sau vài phút anh ta sẽ làm tôi phát điên. Tính đến những khó khăn thực tế ấy, tôi đi đến kết luận rằng tôi sẽ giới hạn niềm vui thú nghe sóng radio vào những khoảnh khắc hiếm hoi khi cửa hiệu chẳng còn ai ngoài tôi với hàng ngàn cuốn sách.
Sáng hôm ấy, Radio Barcelona đang phát một bản thu âm hiếm hoi buổi hòa nhạc của Louis Armstrong trác tuyệt - được thu hồi người nghệ sĩ trumpet ấy và ban nhạc của ông chơi ở khách sạn Windsor Palace trên đại lộ Diagonal, ba mùa Giáng sinh trước. Trong giờ nghỉ giữa chương trình, người dẫn chương trình một mực gắn mác cho thứ nhạc đó là chass, với lời cảnh báo rằng những âm nhấn lệch khơi gợi của thứ nhạc này hẳn sẽ không phù hợp với những thính giả Tây Ban Nha ngoan đạo lớn lên theo những điệu tonadilla và bolero phổ biến từng thống trị sóng phát thanh.
Fermín thường nói nếu ông Isaac Albéniz* sinh ra là người da đen, thì nhạc jazz hẳn sẽ được sáng tạo tại làng Camprodón, gần Pyrenees. Cái âm thanh rực rỡ ấy, anh ta nói, là một trong số ít những thành tựu đích thực của thế kỷ hai mươi cùng với chiếc áo ngực nhọn cô đào Kim Novak anh ta tôn sùng mặc trong những bộ phim chúng tôi xem suất chiếu ban ngày ở rạp Fémina. Tôi sẽ không tranh cãi vụ đó. Tôi để cho phần còn lại của buổi sáng lơ lửng giữa ma thuật của âm nhạc và hương thơm của những cuốn sách, nhấm nháp niềm thỏa mãn từ việc làm tròn một nhiệm vụ đơn giản.
•
Isaac Albeniz (1860-1909): một nghệ sĩ piano người Tây Ban Nha, đồng thời cũng là một nhà soạn nhạc nổi tiếng với chất liệu chủ đạo là nhạc dân gian.
Fermín nghỉ buổi sáng để hoàn tất việc chuẩn bị cho đám cưới của anh ta với chị Bernarda, sẽ tổ chức vào đầu tháng Hai, hay ít nhất là vậy theo lời anh ta. Lần đầu tiên anh ta nêu ra chủ đề này, tức là chưa đầy hai tuần trước, chúng tôi bảo anh ta vội vã quá và cứ hấp tấp như vậy sẽ chẳng đi đến đâu cả. Cha tôi cố thuyết phục anh ta hoãn lễ cưới lại ít nhất hai hoặc ba tháng nữa, bảo hay nhất là cưới vào hè khi thời tiết đang đẹp. Nhưng Fermín khăng khăng giữ ngày anh ta định, viện cớ rằng, là giống người đã can qua thời tiết khắc nghiệt và khô hạn của những ngọn đồi ở Extremadura, anh ta có thiên hướng vã mồ hôi như tắm trong mùa hè Địa Trung Hải, theo nhận định của anh ta đó là một vấn đề cận nhiệt đới, và sẽ chẳng phù hợp nếu trong lúc ăn mừng ngày cưới mà anh ta lại đổ mồ hôi đến mức tạo thành một vệt to như chiếc bánh kếp dưới nách đâu.
Tôi bắt đầu nghĩ rằng hẳn đã có chuyện bất thường xảy ra với Fermín Romero de Torres - người tiên phong kiêu hãnh trong cuộc phản kháng dân sự đối với nhà thờ Đức Mẹ, các ngân hàng và những cung cách cao đẹp của đất nước Tây Ban Nha ngoan đạo những năm 1950, nơi dành trọn mình cho những buổi lễ tôn giáo và các phim thời sự tuyên truyền - thế nên anh ta mới thể hiện sự gấp gáp như vậy với chuyện cưới xin. Trong cơn sốt sắng tiền hôn nhân, anh ta thậm chí kết bạn cả với cha Jacobo, cha xứ mới ở nhà thờ Santa Ana, người được phú cho tư tưởng thoải mái và cái cung cách của một tay đấu vật về vườn. Fermín đã tiêm nhiễm cho ông ta niềm đam mê vô hạn với những quân cờ domino và cùng nhau họ đã có những cuộc đấu vĩ đại ở quán bar Admiral vào các chiều Chủ nhật sau lễ Misa. Cha Jacobo sẽ cười ngặt cười nghẽo khi bạn tôi hỏi ông ta, sau những ly rượu ngon, rằng từ nguồn tin mật, ông ta có thể tìm hiểu xem các bà xơ có thực sự có đùi không, và nếu là có, thì chúng có mềm và dễ cắn như anh ta vẫn tưởng từ thuở dậy thì hay không?
“Anh sẽ làm cho ông cha xứ mất phép thông công đấy,” cha tôi quở mắng anh ta. “Không được nhìn vào hay đụng vào các bà xơ đâu.”
“Nhưng cái bậc tôn kính kia còn xỏ lá hơn cả tôi,” Fermín phản đối. “Nếu không phải vì bộ trang phục ấy...”
Tôi đang nhớ lại cuộc trò chuyện ấy và lẩm nhẩm theo tiếng kèn trumpet của ngài Armstrong thì nghe thấy có tiếng chuông cửa khe khẽ, bèn ngước lên, tưởng sẽ thấy cha tôi trở về sau nhiệm vụ bí mật, hay Fermín đã sẵn sàng bắt đầu ca chiều.
“Xin chào,” một giọng trầm và thô ráp cất lên ở ngưỡng cửa.
3In lên trên vùng sáng ở ngoài đường, bóng người ấy giống như một thân cây bị gió quật. Vị khách mặc chiếc áo vét lỗi thời, sẫm màu và tư thế đứng dựa vào chiếc gậy để lộ dáng vẻ dữ dằn. Ông ta tiến thêm một bước, thấy rõ cái dáng đi tập tễnh. Ánh sáng từ chiếc đèn nhỏ trên bàn chiếu vào một khuôn mặt nhăn nheo vì tuổi tác, và cái dấu vết không thể nhầm lẫn được của sự bất hạnh. Người đàn ông ấy nhìn chằm chằm tôi một lát, và thư thả đánh giá tôi. Ông ta có cặp mắt lạnh lùng của một con chim săn mồi, kiên nhẫn và toan tính.
“Có phải ông Sempere đây không?”
“Tôi là Daniel. Ông Sempere là bố tôi, lúc này bố tôi không ở đây. Tôi có thể giúp gì ông không?”
Vị khách lờ câu hỏi của tôi và bắt đầu dạo quanh hiệu sách xem xét mọi thứ thật tỉ mỉ với vẻ thích thú gần như thèm thuồng. Dáng khập khiễng nơi ông ta cho thấy vết thương giấu dưới lớp quần áo kia hẳn phải rất nghiêm trọng.
“Món quà của chiến tranh,” người lạ nói như đọc được ý nghĩ của tôi.
Tôi cứ nhìn ông ta, dõi theo cuộc thăm dò của ông ta ở hiệu sách, đoán xem ông ta sẽ thả neo ở đâu. Đúng như tôi tưởng tượng, ông ta dừng ở trước cái tủ kính khung gỗ mun, một di vật có từ thời cửa hàng mới mở năm 1888, khi cụ cố Sempere, lúc bấy giờ còn là chàng thanh niên mới trở về sau cuộc phiêu lưu tìm kiếm vận may ở châu Mỹ, đã vay được chút tiền để mua một cửa hàng bán găng tay cũ, và biến nó thành hiệu sách. Cái tủ ấy, báu vật của cửa hiệu, được dành cho những món giá trị nhất.
Vị khách ghé sát tủ đến mức hơi thở lưu dấu lên mặt kính. Ông ta lôi ra cặp kính mắt, đeo vào đặng tiếp tục nghiên cứu những thứ bên trong, vẻ mặt của ông ta làm tôi nghĩ đến một con chồn đang quan sát ổ trứng mới trong chuồng gà.
“Món này đẹp đấy,” ông ta lẩm nhẩm. “Trông hơi bị đắt tiền.”
“Một vật gia bảo. Giá trị của nó chủ yếu là về mặt tinh thần,” tôi đáp, cảm thấy khó chịu trước cách đánh giá của vị khách hàng khác thường có kiểu nhìn chòng chọc như quyết tâm định giá đến cả không khí chúng tôi đang hít thở.
Sau một lát, ông ta cất cặp kính, đoạn nói với giọng cân nhắc.
“Tôi hiểu rằng có một quý ông, nổi tiếng vì trí thông minh, đang làm việc cho cậu.”
Thấy tôi không đáp lời ngay, ông ta quay lại ném cho tôi cái nhìn khinh khỉnh.
“Như ông có thể thấy, tôi chỉ có một mình. Có lẽ, thưa ông, nếu ông vui lòng cho tôi biết ông đang tìm cuốn sách nào, tôi có thể tìm giúp ông một bản.”
Người lạ ban cho tôi một nụ cười chẳng lấy gì làm thân thiện, đoạn gật đầu.
“Tôi thấy trong tủ kia cậu có một cuốn Bá tước Monte Cristo.”
Ông ta không phải khách hàng đầu tiên để ý cuốn sách ấy. Tôi tuôn ra một tràng những lời quảng cáo vốn được dành cho những dịp như vậy.
“Quý ông đây quả có con mắt tinh đời. Đó là một ấn bản cực đỉnh, được đánh số và do Arthur Rackham minh họa. Nó thuộc về thư viện tư nhân của một nhà sưu tầm có uy thế ở Madrid. Một bản độc nhất, và đã được xếp danh mục.”
Vị khách nghe nhưng chẳng mấy để tâm, chú ý vào sự kiên định của cái giá sách gỗ mun, và tỏ rõ rằng những lời của tôi làm ông ta chán.
“Sách nào tôi thấy cũng như nhau cả thôi, nhưng tôi thích màu xanh trên bìa kia,” ông ta đáp lại, giọng khinh miệt. “Tôi sẽ lấy nó.”
Trong những tình huống khác, tôi sẽ nhảy cẫng lên vui sướng trước ý nghĩ có thể bán được cuốn sách hẳn là đắt nhất trong hiệu, nhưng ý nghĩ rằng nó rốt cuộc lại vào tay của nhân vật kia làm tôi tức cả bụng. Điều gì đó mách bảo tôi rằng nếu cuốn sách kia rời khỏi hiệu, hẳn sẽ không ai thèm đọc dù chỉ là đoạn đầu tiên.
“Đây là một ấn bản rất đắt tiền. Nếu ông thích, thưa ông, tôi có thể cho ông xem các ấn bản khác của tác phẩm này, trong tình trạng hoàn hảo, và với giá hợp lý hơn nhiều.”
Những người có linh hồn cằn cỗi luôn cố làm cho người khác cảm thấy nhỏ bé, và người lạ kia, kẻ có thể che giấu linh hồn mình trong chiếc đầu kim, ném cho tôi cái nhìn khinh khỉnh nhất của ông ta.
“Và bìa cũng màu xanh,” tôi nói thêm.
Ông ta lờ đi sự xấc xược trong cái giọng châm biếm của tôi.
“Không, cảm ơn cậu. Đây là cuốn tôi muốn. Tôi không quan tâm giá cả.”
Tôi miễn cưỡng đồng ý, đoạn bước đến tủ. Khi lấy chìa khóa và mở tủ kính, tôi có thể cảm thấy ánh mắt người lạ như xuyên vào lưng tôi.
“Hàng giá trị thì luôn đằng sau ổ khóa và chìa,” ông ta lẩm nhẩm trong cổ họng.
Tôi lấy cuốn sách và thở dài.
“Quý ông đây có phải một nhà sưu tầm không?”
“Tôi cho là cậu có thể gọi tôi như thế. Nhưng không phải sưu tầm sách.”
Tôi quay lại với cuốn sách trong tay.
“Vậy ông sưu tầm gì, thưa ông?”
Một lần nữa, người lạ lờ câu hỏi của tôi và đưa tay ra lấy cuốn sách. Tôi phải cưỡng lại nỗi thôi thúc bỏ cuốn sách ấy vào tủ rồi vặn chìa khóa. Cha tôi sẽ không bao giờ tha thứ nếu tôi để lỡ một cuộc mua bán như vậy khi kinh doanh đang đi xuống.
“Giá là ba trăm năm mươi đồng peseta,” tôi nói trước khi giao sách cho ông ta, hy vọng con số ấy sẽ khiến ông ta đổi ý.
Ông ta gật đầu mà mi mắt không buồn động, đoạn rút ra tờ một ngàn peseta từ chiếc áo vét hẳn không đáng giá một đồng xu. Tôi tự hỏi tờ tiền ấy có phải tiền giả không.
“Tôi e không đủ tiền thối lại đâu, thưa ông.”
Tôi tính đề nghị ông ta chờ một lát trong khi tôi chạy ra ngân hàng gần nhất để đổi tiền, và nhân thể xem luôn có phải tiền giả không, nhưng tôi không muốn bỏ ông ta một mình trong hiệu sách.
“Đừng lo. Tiền thật đấy. Cậu biết làm thế nào để nhận ra không?”
Người lạ giơ tờ tiền lên đèn.
“Hãy nhìn hình in mờ này. Và những dòng này. Cái họa tiết này...”
“Quý ông đây có phải chuyên gia tiền giả không?”
“Trên đời này, mọi thứ đều là giả, chàng trai ạ. Mọi thứ, ngoại trừ tiền.”
Ông ta đặt tờ tiền vào tay tôi và khép nắm tay tôi lại, vỗ nhẹ lên những đốt tay tôi.
“Cứ giữ tiền thừa cho lần tới tôi ghé mua sách,” ông ta nói. “Coi như là trả trước.”
“Như thế nhiều quá, thưa ông. Sáu trăm năm mươi peseta...”
‘”Chút xu lẻ ấy mà.”
“Vậy tôi sẽ làm biên nhận cho ông.”
“Tôi tin cậu.”
Người lạ xem xét cuốn sách mà chẳng hề có sự thích thú.
“Tiện thể thì, đây là một món quà. Tôi phải nhờ đích thân cậu giao giùm.”
Trong một lát, tôi dè dặt.
“Chúng tôi thường không nhận giao sách, nhưng trong trường hợp này chúng tôi sẵn lòng xử lý gói hàng của ông, miễn phí. Liệu tôi có thể hỏi địa chỉ giao hàng ở Barcelona này hay...?”
“Ngay tại đây,” ông ta nói.
Cái nhìn lạnh băng dường như hé lộ nhiều năm căm hờn và oán giận.
“Ông có muốn viết lời đề tặng, hoặc lời nhắn riêng trước khi tôi bọc sách không, thưa ông?”
Vị khách mở trang bìa lót với vẻ khó khăn. Lúc này tôi mới nhận thấy tay trái của ông ta là tay giả, được làm từ sứ sơn màu. Ông ta lấy ra cây bút máy và viết mấy chữ. Rồi ông ta đưa cuốn sách cho tôi đoạn quay lưng đi. Tôi nhìn ông ta tập tễnh bước ra cửa.
“Xin ông vui lòng cho tôi tên và địa chỉ ông muốn gửi cuốn sách, thưa ông?” tôi hỏi.
“Tất cả trong đó,” ông ta nói, không quay đầu lại.
Tôi mở cuốn sách ra và nhìn vào trang có dòng chữ người lạ đã viết lên.
Gửi Fermín Romero de Torres,
người từ cõi chết trở về
và giữ chìa khóa đến tương lai.
Mười Ba
Lúc ấy tôi nghe thấy tiếng chuông cửa leng keng, khi tôi ngước lên, người lạ đã đi mất.
Tôi lao đến cửa và nhìn ra phố. Vị khách đang tập tễnh đi, hòa vào những chiếc bóng đang chuyển động xuyên qua màn sương xanh đang cuốn lấy phố Santa Ana. Tôi toan gọi ông ta, nhưng tôi câm lặng... Điều dễ dàng nhất là cứ để ông ta đi, và coi như xong chuyện, nhưng bản năng cùng cái tính thiếu thận trọng đã chiến thắng tôi.
4Tôi treo biển ĐÓNG CỬA lên và khóa cửa lại, quyết tâm đi theo người lạ kia, xuyên qua đám đông. Tôi biết nếu cha về và phát hiện ra tôi bỏ vị trí - ngay đúng dịp ông để tôi trông hiệu sách một mình và tất tả lo việc trong mùa buôn bán ế ẩm - thì tôi sẽ gặp rắc rối to. Nhưng tôi sẽ nghĩ ra một lý do thích hợp nào đó trên đường đi. Thà đối mặt với cơn giận dữ của cha tôi, còn hơn là chịu giày vò bởi nỗi lo lắng do nhân vật hiểm độc ấy đã để lại, và không biết ý định thực sự của ông ta với Fermín.
Một người bán sách chuyên nghiệp có ít cơ hội đạt được cái nghệ thuật tinh tế trong việc theo dõi kẻ tình nghi ngoài thực địa mà không bị phát hiện. Trừ phi một số lượng đáng kể khách hàng của anh ta là những kẻ quỵt nợ nổi tiếng, bằng không thì cơ hội như vậy chỉ được trao cho anh ta nhờ những tuyển tập các câu chuyện tội phạm và mấy thứ truyện ba xu trên giá sách. Cái áo không làm nên thầy tu, nhưng một tội ác, hay một tội ác giả định, làm nên thám tử, nhất là những tay mơ.
Khi theo dõi người lạ mặt đi về phố Ramblas, tôi nhớ lại những điểm trọng yếu, trước tiên là giữ khoảng cách năm chục mét, ẩn sau ai đó cao lớn hơn và luôn nhanh chóng thủ sẵn một chỗ nấp - một ngưỡng cửa hoặc một cửa hàng - phòng khi đối tượng dừng lại và quay ra sau mà không báo trước. Khi đến phố Ramblas, người lạ băng qua đường để vào đại lộ trung tâm và bắt đầu bước về phía cảng. Đại lộ được bài trí những đồ trang hoàng Giáng sinh truyền thống, và có nhiều hơn một cửa hàng đã tô điểm ngoài cửa sổ bằng đèn, những hình ngôi sao và thiên thần báo hiệu một mùa phồn thịnh. Nếu kênh truyền thanh của chế độ nói rằng thời kỳ tươi đẹp đang ở phía trước, thì ắt hẳn đúng thế thật.
Vào thời ấy, Giáng sinh vẫn giữ được không khí kỳ diệu và bí ẩn. Cái ánh sáng như bột trắng của mùa đông, những vẻ mặt sáng lên hy vọng của những người sống giữa bóng tối và sự im lặng, tạo cho bối cảnh ấy một không khí hứa hẹn mỏng manh, mà ít nhất trẻ con và những người đã học được nghệ thuật lãng quên vẫn có thể còn thấy tin tưởng.
Có lẽ vì vậy mà tôi càng lúc càng thấy rõ rằng dường như không có ai lạc lõng giữa Giáng sinh bằng đối tượng kỳ dị mà tôi đang điều tra. Ông ta tập tễnh đi chầm chậm, thường dừng lại bên một cửa hàng chim cảnh, hay một hàng hoa để chiêm ngưỡng chú vẹt đuôi dài hay đóa hồng, cơ hồ chưa bao giờ ông ta được nhìn thấy chúng. Có đôi lần ông ta bước đến một quầy báo, thứ chốc chốc lại xuất hiện ở Ramblas và thích thú liếc nhìn trang bìa những tờ báo hay tạp chí và lơ đãng xoay giá bán bưu thiếp. Ông ta xử sự như thể trong đời chưa bao giờ được đến đây, như một đứa trẻ hay một du khách lần đầu tiên đi dạo trên phố Ramblas - nhưng đứa trẻ và du khách thường thể hiện một vẻ ngây thơ vì không biết mình ở đâu, trong khi đó người đàn ông của chúng ta không thể bớt ngây thơ đi dù được ban phước bởi Chúa hài đồng, bức tượng ông ta mới đi ngang qua khi tới nhà thờ Belén.
Rồi ông ta dừng lại, chừng như bị mê hoặc bởi một con vẹt mào đang căng mắt nhìn ông ta từ một trong những quầy bán thú đối diện lối vào phố Puertaferrisa. Ông ta tiến đến chuồng chim với cùng cái cung cách như khi tiến lại chiếc tủ kính trong hiệu sách, và bắt đầu lẩm bẩm gì đấy với chú vẹt mào. Chú chim, sinh vật có cái đầu lớn, mình như con gà trống thiến, và bộ lông lộng lẫy, sống sót trước hơi thở mùi sulphuric của người lạ kia và tỏ vẻ thích thú lẫn tập trung cao độ vào điều vị khách đang ngâm nga. Để cho chắc chắn, chú ta còn gật đầu lia lịa và giương cái mào hồng mượt lên, phấn khích thấy rõ.
Sau vài phút, người lạ, đã hài lòng sau cuộc trao đổi với chú chim, lại tiếp tục hành trình. Chưa đầy ba mươi giây sau, khi bước qua quầy bán chim, tôi nhận ra rằng một cuộc huyên náo nho nhỏ đã nổ ra. Nhân viên bán hàng, rõ ràng là xấu hổ, vội vàng lấy khăn trùm che lồng chim lại, vì chú chim cứ nhắc đi nhắc lại đoạn điệp khúc sau với chất giọng ngâm thơ mẫu mực, Franco, cái đồ ngu, cu không ngỏng. Tôi không mảy may nghi vấn nguồn gốc của câu vè ấy. Người lạ mặt ít nhất cũng có khiếu hài hước táo bạo, và thiên hướng chính trị liều lĩnh, mà trong thời ấy thật hiếm hoi như chiếc váy ngắn trên gối.
Bị phân tâm bởi biến cố này, tôi nghĩ mình đã mất dấu ông ta, nhưng lập tức tôi thấy hình dáng lù khù của ông ta đang đứng trước cửa sổ của hiệu trang sức Bagués. Tôi nép vào một quầy viết thuê nằm sát cổng vào Điện La Virreina và thận trọng quan sát ông ta. Mắt ông ta sáng lên như hồng ngọc và việc nhìn thấy vàng và đá quý đằng sau những ô cửa kính chống đạn ấy dường như đã đánh thức một nỗi thèm khát trong ông ta mà đến cả một dàn vũ nữ ở La Criolla vào những năm vàng son cũng không thể nào gợi lên được.
“Một bức thư tình, một lá đơn, một thư kiến nghị gửi đến một quan chức lỗi lạc tùy anh chọn, một dòng bốc đồng ‘mong thư này đến tận tay anh, chị’ cho họ hàng trong nước, sao hả chàng trai trẻ?”
Chú thợ viết thuê ở quầy mà tôi chọn làm chỗ ẩn nấp đang hé mắt nhìn ra như một cha xứ nghe xưng tội, đoạn nhìn tôi như mong mỏi, hy vọng tôi sẽ sử dụng dịch vụ của chú ta. Tấm áp phích trên bàn có chữ:
OSWALDO DARÍO DE MORTENSSEN
NHÀ VĂN VÀ NHÀ TƯ TƯỞNG TỰ DO
Viết những bức thư tình, kiến nghị, di chúc, thơ, lời tán dương, thư chào, lời biện hộ, điếu văn, lời hát ca, diễn văn, đơn từ và mọi loại văn tự theo phong cách kinh điển và vần luật. Mỗi câu mười xu (vân vân tính phụ phí). Giá ưu đãi cho các góa phụ, thương binh và trẻ nhỏ.
“Thế nào, chàng trai? Một bức thư tình đúng kiểu khiến các thiếu nữ tuổi cập kê ướt đẫm váy lót vì thèm khát thì sao? Tôi sẽ giảm giá đặc biệt cho cậu.”
Tôi cho chú ta xem nhẫn cưới. Oswaldo, chú thợ viết, nhún vai không hề nao núng.
“Giờ là thời hiện đại rồi,” chú ta lý luận. “Giá mà cậu biết số đàn ông phụ nữ đã có gia đình đến gian hàng của tôi...”
Tôi đọc dòng quảng cáo. Có gì đó quen thuộc mà tôi không thể gọi ra được.
“Tên của chú gọi lên điều gì đó...”
“Tôi đã qua thời hoàng kim rồi. Có lẽ cậu thấy tên tôi từ ngày xưa.”
“Đây có phải tên thật của chú không?”
“Bút danh. Tên của một nghệ sĩ cần phù hợp với sứ mệnh của anh ta. Trên giấy khai sinh tôi là Jenaro Rebollo, nhưng với một cái tên như vậy, ai sẽ tin tưởng nhờ tôi viết thư tình đây...? Cậu nghĩ sao với lời đề nghị giảm giá? Chúng ta sẽ biên một bức thư đầy đam mê và khao khát chứ?”
“Để lúc khác.”
Chú thợ viết thuê gật đầu cam chịu. Chú ta dõi theo ánh mắt tôi, đoạn nhíu mày vì tò mò.
“Đang theo dõi tên què kia, phải không?” chú ta nhận xét bâng quơ.
“Chú biết ông ta không?” tôi hỏi.
“Độ một tuần nay, ngày nào tôi cũng thấy ông ta đi qua đây, và dừng lại ở ngay đó, chỗ cửa hàng trang sức, ông ta cứ nhìn chằm chằm vào, miệng há hốc, như thể vật được bày biện không phải những chiếc nhẫn hay vòng cổ, mà là cặp mông trần của Dorita xinh đẹp,” chú ta giải thích.
“Đã bao giờ chú nói chuyện với ông ta chưa?”
“Hôm kia một đồng nghiệp của tôi đã chép cho ông ta một bức thư; ông ta mất mấy ngón tay, cậu thấy đấy...”
“Đồng nghiệp nào thế?” tôi hỏi.
Chú thợ chữ nhìn tôi ngờ vực, e sợ khả năng mất đi một khách hàng nếu chú ta đáp lời.
“Luisito, ở đằng kia, cạnh cửa hàng nhạc, người trông như học sinh trường dòng ấy.”
Tôi gửi chú ta mấy đồng xu gọi là cảm ơn, nhưng chú ta từ chối.
“Tôi kiếm sống nhờ ngòi bút, không phải bằng nước bọt. Ở khu vực này có rất nhiều người sống bằng nước bọt. Nếu cậu thấy cần cứu giúp văn phạm, cậu sẽ tìm thấy tôi ở đây.”
Chú ta đưa tôi tấm danh thiếp, lời lẽ y như trên tờ áp phích.
“Thứ Hai đến thứ Bảy, từ tám giờ sáng tới tám giờ tối,” chú ta nói rõ. “Oswaldo, chiến binh văn tự, phục vụ cậu khi cậu có nhu cầu về giấy má thư từ.”
Tôi cất tấm danh thiếp đi và cảm ơn chú ta đã giúp đỡ.
“Con chim của cậu đang bay kìa.”
Tôi quay lại và có thể thấy người lạ mặt lại đang di chuyển. Tôi vội vã đuổi theo ông ta, bám ông ta theo dọc phố Ramblas đến tận cổng chợ Boquería, ở đó ông ta dừng lại để nhìn những quầy hàng cùng những người đến rồi đi, nâng lên và dỡ xuống những món đặc sản. Tôi thấy ông ta tập tễnh bước đến quán Pinocho và leo lên một chiếc ghế, dù khó khăn nhưng tự tin. Nửa tiếng sau đó, người lạ cố vét sạch những đồ ăn thức uống mà người trẻ nhất trong quầy bar, Juanito, cứ phục vụ ông ta, nhưng tôi có cảm giác ông ta chẳng đủ sức để chiến tiếp. Ông ta dường như ăn bằng mắt nhiều hơn, như khi yêu cầu món tapas*mà ông ta hầu như chẳng nếm, ông ta hẳn đang nhớ lại những ngày còn ăn khỏe. Đôi khi vòm miệng không dùng để nếm náp mà để cố gắng nhớ lại. Cuối cùng, đành phải hưởng thú vui phái sinh ấy là nhìn những người khác ăn uống liếm mép, người lạ mặt trả tiền và tiếp tục hành trình cho tới khi đến lối vào đường Hospital, tại đây cách sắp xếp kỳ quái của các con phố Barcelona đã thẳng tay đặt một trong những nhà hát opera tuyệt vời của cựu thế giới cạnh một trong những phố đèn đỏ dơ dáy nhất của Bắc bán cầu.
•
Món ăn nhanh mặn thường dùng cùng với rượu như món khai vị có nguồn gốc từ Tây Ban Nha.
5Vào giờ này trong ngày các thủy thủ đoàn của một số các tàu quân sự và tàu buôn cập cảng sẽ phiêu lưu đến tận phố Ramblas để thỏa mãn nhiều nỗi thèm khát. Trước nhu cầu đó, nguồn cung đã xuất hiện nơi góc phố: một dàn những quý cô bán hoa xếp hàng dài đến cả vài dặm và sẵn sàng chào mức giá tối thiểu có thể chấp nhận được. Tôi co rúm trước cảnh tượng những chiếc váy ôm lấy những tĩnh mạch bị dãn ra và vết bầm tím mà chỉ nhìn thôi cũng thấy đau, những khuôn mặt nhăn nheo có cùng cái nét làm-cuốc-cuối-trước-khi-về-vườn có thể kích thích được bất cứ điều gì trừ ham muốn. Một thủy thủ hẳn phải ở nhiều tháng ngoài biển khơi thì mới dính mồi, tôi nghĩ, nhưng ngạc nhiên thay, người lạ dừng lại để chòng ghẹo mấy cô gái mà tuổi xuân đã xa rời từ lâu ấy như thể ông ta đang đùa cợt với những hương sắc tươi mới trong dàn ca múa tinh túy bậc nhất.
“Nào, tình yêu của em, hãy để em làm anh trẻ hơn hai chục tuổi bằng tài xoa bóp đặc biệt của em,” tôi nghe một bà nói. Bà ta dễ đáng tuổi bà ngoại của chú thợ chữ Oswaldo.
Bà sẽ giết ông ta bằng trò mát xa thôi, tôi nghĩ. Người lạ, với động tác thận trọng, từ chối lời mời ấy.
“Để hôm khác, em yêu ạ,” ông ta đáp khi bước vào khu phố Raval.
Tôi theo ông ta thêm vài trăm mét nữa, cho tới khi thấy ông ta dừng lại trước một ngưỡng cửa hẹp, tối đen, gần đối diện khách sạn Europa. Ông ta biến mất vào tòa nhà và tôi đợi nửa phút mới vào trong theo ông ta.
Phía bên trong, một cầu thang tối tưởng như mất hút vào lòng của tòa nhà. Bản thân tòa nhà cơ hồ nghiêng về phía cảng, hay thậm chí có lẽ đang gần như chìm vào hầm mộ của quận Raval, nếu xét đến mùi hôi thối của hệ thống cống rãnh ẩm ướt và hỏng hóc. Ở phía bên kia lối đi có cái gì đó giống như là phòng bảo vệ, một nhân vật trông nhầy nhụa trong chiếc áo cộc tay, ngậm tăm trên môi và cầm chiếc đài bán dẫn, ném cho tôi ánh nhìn nằm đâu đó giữa tò mò và thù nghịch.
“Cậu đi một mình sao?” ông ta hỏi.
Chẳng phải thiên tài cũng nhận ra là tôi đang ở trong sảnh của một nơi cho thuê phòng theo giờ và nét lạc điệu duy nhất trong cuộc viếng thăm của tôi ấy là cái việc tôi không cầm tay một trong những Thần Vệ Nữ giảm giá đang tuần tra nơi góc phố kia.
“Nếu cậu muốn, tôi sẽ kiếm cho cậu một cô ngon lành,” ông ta đề nghị, vừa chuẩn bị một gói gồm khăn, miếng xà phòng và cái tôi đoán hẳn là bao cao su hoặc dụng cụ tránh thai, phương kế cuối cùng.
“Thực ra, tôi chỉ muốn hỏi ông một câu,” tôi bắt đầu.
Người gác cổng đảo mắt.
“Nửa giờ giá hai mươi peseta và tiền gái cậu chịu.”
“Hấp dẫn đấy. Có lẽ để hôm khác. Điều tôi muốn hỏi ông là cách đây vài phút có một quý ông kia vừa lên cầu thang phải không. Một người đứng tuổi. Không còn sung sức nữa. Đi một mình. Không có gái đi kèm.”
Người gác cổng nhíu mày. Từ vẻ mặt ông ta tôi nhận ra rằng ông ta ngay lập tức hạ cấp tôi từ một khách hàng tiềm năng xuống một con ruồi phiền phức.
“Tôi chẳng thấy ai hết. Thôi cậu lượn đi, biến ngay đi trước khi tôi gọi Tonet.”
Tôi đồ rằng Tonet không thể nào là một nhân vật dễ mến được. Tôi để mấy đồng xu còn lại lên bàn và trao cho lão gác cổng một nụ cười cầu tài. Thoắt một cái, món tiền biến mất như thể ấy là con côn trùng, còn đôi bàn tay người gác cổng - với những cái đê nhựa - là cái lưỡi nhanh như cắt của con tắc kè hoa.
“Cậu muốn biết gì?”
“Người đàn ông mà tôi vừa tả có sống ở đây không?”
“Ông ta thuê phòng đã một tuần nay.”
“Ông biết tên ông ta không?”
“Ông ta trả tiền trước một tháng, nên tôi không hỏi.”
“Ông biết ông ta người vùng nào không, ông ta làm gì để kiếm sống...?
“Đây không phải chương trình hộp thư bạn nghe đài. Người ta đến đây để chơi gái, và tôi không hỏi han gì cả. Và gã này thậm chí còn không chơi gái. Nên cậu tự mà nghĩ đi.”
Tôi suy xét lại chuyện này.
“Tất cả những gì tôi biết là thỉnh thoảng ông ta ra khỏi phòng rồi quay về. Đôi khi ông ta bảo tôi mang lên một chai rượu, bánh mì và một ít mật ong. Ông ta trả rất hậu hĩnh và không nói một lời.”
“Ông có chắc là không nhớ cái tên nào không?”
Ông ta lắc đầu.
“Được rồi. Cảm ơn ông, và xin lỗi vì làm phiền ông.”
Tôi toan đi thì bị ông bảo vệ gọi lại.
“Romero,” ông ta nói.
“Gì cơ?”
“Tôi nghĩ tên ông ta là Romero hay đại loại thế...”
“Romero de Torres?”
“Đúng vậy.”
“Fermín Romero de Torres?” tôi nhắc lại, ngờ vực.
“Đúng cái tên đấy. Chẳng phải trước chiến tranh có một võ sĩ đấu bò tên như vậy sao?” người bảo vệ hỏi. “Tôi nghĩ cái tên đó quen lắm...”
6Tôi quay về hiệu sách, còn bối rối hơn cả lúc đi. Khi bước qua Điện La Virreina, Oswaldo, chú thợ chữ, đưa tay lên chào.
“Gặp may không?” chú ta hỏi.
Tôi lầm bầm câu trả lời phủ định.
“Thử hỏi Luisito xem, cậu ta chắc sẽ nhớ được gì đó.”
Tôi gật đầu với Oswaldo, đoạn bước đến quầy của Luisito. Luisito đang làm sạch bộ ngòi bút. Khi thấy tôi, anh ta mỉm cười mời tôi ngồi.
“Chuyện gì đây? Là niềm vui hay công việc?”
“Đồng nghiệp của anh, Oswaldo, bảo tôi đến.”
“Người thầy và là người dẫn dắt chúng tôi,” Luisito tuyên bố. “Một học giả vĩ đại, con người không được thể chế thối nát này thừa nhận. Và ông ấy ở đó, trên phố, làm công việc chữ nghĩa để phục vụ những người dốt nát.”
“Oswaldo bảo rằng hôm trước anh viết thuê cho một ông đứng tuổi, hơi tiều tụy, mất một bàn tay, còn bàn tay kia thiếu mấy ngón...”
“Tôi nhớ ông ta. Tôi luôn nhớ những người chỉ có một tay. Nhờ Cervantes đấy - ông ấy mất một tay trong trận Lepanto, cậu biết không?”
“Tôi biết. Và anh có thể cho biết sự vụ gì đã đưa người đàn ông này đến với anh?”
Luisito khẽ cựa người trên ghế, không thoải mái trước hướng rẽ của cuộc trò chuyện.
“Này, chuyện này gần giống như một lời thú tội đấy. Bí mật nghề nghiệp là điều tối thượng.”
“Tôi hiểu. Vấn đề là, chuyện này rất nghiêm trọng.”
“Nghiêm trọng thế nào?”
“Đủ nghiêm trọng để đe dọa đến an nguy của một người thân thương với tôi.”
“Tôi hiểu, nhưng...”
Luisito rướn cổ ra và đoán định ánh mắt Oswaldo phía bên kia sân. Tôi thấy Oswaldo gật đầu, và lúc ấy Luisito mới thả lỏng người.
“Quý ông kia mang đến một bức thư ông ta viết. Ông ta muốn nó được sao lại cho chữ đẹp hơn, vì tay ông ta...”
“Thư nói về cái gì...?”
“Tôi cũng chẳng nhớ, mỗi ngày chúng tôi viết rất nhiều thư...”
“Anh thử cố xem, Luisito. Vì Cervantes.”
“Ồ, dù tôi có thể nhầm với một bức thư khác viết cho một khách hàng nào đó, tôi tin rằng nó liên quan đến một số tiền rất lớn mà quý ông cụt tay kia hy vọng nhận được hoặc thu hồi hoặc cái gì đó đại loại vậy. Và gì đó về chìa khóa.”
“Chìa khóa.”
“Đúng. Ông ta không nói rõ là chìa khóa Allen*, hay phím đàn piano hay khóa cửa*.”
•
Chìa khóa Allen: một loại cờ lê.
•
Trong tiếng Anh, chìa khóa và phím đàn đều dùng chung một từ là key.
Luisito mỉm cười với tôi, tỏ ra hài lòng về trí khôn của mình.
“Anh còn nhớ được gì khác không?”
Luisito liếm mép trầm ngâm.
“Ông ta bảo thấy thành phố đã thay đổi nhiều.”
“Thay đổi ư, theo hướng nào?”
“Tôi không biết. Thay đổi. Không có xác người trên phố.”
“Xác người trên phố? Ông ta nói thế sao?”
“Nếu tôi nhớ không lầm...”
7Tôi cảm ơn Luisito vì thông tin rồi vội vã quay về, hy vọng sẽ đến cửa hiệu trước khi cha tôi xong việc trở về và phát hiện ra sự vắng mặt của tôi. Bảng ĐÓNG CỬA vẫn treo. Tôi mở cửa, gỡ bảng báo xuống và về chỗ phía sau bàn, tin rằng chưa một khách hàng nào ghé qua trong thời gian gần bốn lăm phút tôi đi vắng.
Vì chẳng bận gì, tôi bắt đầu nghĩ xem phải làm gì với cuốn Bá tước Monte Cristo này và làm thế nào khơi chủ đề này với Fermín khi anh ta đến. Tôi không muốn làm anh ta sợ một cách không cần thiết, nhưng chuyến thăm của người lạ mặt và nỗ lực nghèo nàn của tôi để khám phá ra ông ta đang có ý gì đã làm tôi cảm thấy không yên. Chính ra, tôi chỉ cần kể cho Fermín chuyện đã xảy ra, và không dính dáng gì đến nữa, nhưng tôi biết rằng trong trường hợp này, tôi phải khéo léo. Dạo gần đây Fermín tỏ ra chán nản và tâm trạng cáu bẳn. Tôi đang cố làm cho anh ta vui lên, nhưng những nỗ lực kém cỏi của tôi không tài nào làm anh ta mỉm cười cho được.
“Không cần phải lau sách kỹ thế đâu, Fermín,” tôi sẽ nói. “Tôi vừa nghe được rằng chẳng bao lâu nữa chỉ có đọc sách noir* mới là hợp mốt đấy.” Tôi đang bóng gió cách báo chí bắt đầu mô tả các tiểu thuyết mới về tội ác và hình phạt, một thứ mới chỉ xuất hiện nhỏ giọt và thông qua những bản dịch chán ngắt.
•
Một thể loại gần với trinh thám, nhưng nhân vật chính thường không phải là thám tử mà hoặc là nạn nhân, hoặc là nghi phạm, hoặc là kẻ gây án, với không khí chủ đạo là sự u ám, yếm thế.
Đã không mỉm cười thích thú với câu đùa của tôi thì chớ, Fermín còn chộp lấy bất cứ cơ hội nào để lao vào đả kích nhằm bày tỏ sự ủng hộ cho mấy thứ u ám và tuyệt vọng.
“Dù sao thì toàn bộ tương lai cũng đang sực mùi noir,” anh ta tuyên bố. “Nếu có một cái hương vị nào đó trở nên thời thượng trong thời đại giết chóc này, nó sẽ là mùi của sự giả dối và tội ác núp bóng dưới hàng ngàn uyển ngữ.”
Ôi đây rồi, tôi nghĩ. Cuốn sách Khải huyền theo thánh Fermín Romero de Torres.
“Đừng làm quá, Fermín. Anh nên nạp thêm nhiều ánh mặt trời và không khí trong lành. Hôm trước tôi đọc trên báo rằng vitamin D làm tăng niềm tin của chúng ta vào đồng loại.”
“Ồ, tôi cũng đọc được trên báo rằng thuốc lá nhập khẩu giúp chúng ta cao lớn hơn, và các ngân hàng trên thế giới đang tận tâm cam kết diệt tận gốc sự nghèo đói và bệnh tật trên hành tinh trong chưa đầy mười năm nữa,” anh ta đáp. “Tin vào báo thế nào được.”
Khi Fermín bi quan có hệ thống như vậy, lựa chọn tốt nhất là đừng tranh luận với anh ta.
“Cậu biết không, Daniel? Đôi khi tôi nghĩ là Darwin đã phạm sai lầm và rằng kỳ thực con người tiến hóa từ lợn, vì cứ mười tên trong chủng người thì có tám tên thuộc giống ủn ỉn, và vòng vo lươn lẹo như cái đuôi heo.”
“Fermín, tôi thích hơn khi anh có cách nhìn tích cực và nhân văn về mọi chuyện, như hôm trước anh bảo là trong sâu thẳm con người không ai buồn cả, chỉ sợ hãi thôi.”
“Hẳn là hôm ấy lượng đường thấp trong máu tôi đã lên tiếng đấy. Thật rác rưởi.”
Dạo gần đây, gã Fermín mà tôi muốn nhớ đến dường như đã e dè rút lui và thay vào đó là con người héo hon bởi những lo âu cùng tâm trạng bão bùng mà anh ta không muốn chia sẻ. Có lúc, khi nghĩ không ai để ý đến mình, anh ta sẽ co vào một góc, cơn đau gặm nhấm tâm can. Anh ta sút cân, và vốn dĩ những lúc đỉnh cao anh ta cũng đã gầy như cây cào và cơ thể anh ta dường như chỉ được hợp thành từ xương sụn và điệu bộ, thế nên diện mạo của anh ta hiện tại thật đáng lo ngại. Tôi đã một đôi lần nhắc đến điều đó, nhưng anh ta chối rằng chẳng có chuyện gì hết, và né tránh vấn đề bằng những cái cớ kiểu nhà nước Byzance*.
•
Ý nói như chính trị ở Byzance, tức là phức tạp, hay giấu giếm và khó thay đổi.
“Không có gì đâu, Daniel. Chỉ là độ này tôi theo dõi giải vô địch bóng đá và mỗi khi Barca thua huyết áp tôi lại tụt. Tất cả những gì tôi cần là một miếng pho mát Manchego và tôi sẽ lại khỏe như một con bò thôi.”
“Thật ư? Nhưng cả đời anh đã bao giờ xem trận bóng nào đâu.”
“Cậu nghĩ thế thôi. Khi còn bé mọi người bảo tôi có đôi chân để làm vũ công hoặc cầu thủ bóng đá đấy.”
“Ồ, tôi lại thấy anh nhàu nhĩ toàn tập, chân cho đến thân. Hoặc là anh đang ốm, hoặc anh đang không chăm lo cho bản thân.”
Để trả lời, anh ta cho tôi xem mấy búi cơ to bằng quả hạnh tẩm đường đoạn nhe răng cười như thể anh ta là người bán dạo kem đánh răng.
“Có thấy không! Thép đấy, như thanh gươm của Cid!”
Cha tôi lại cho cái vẻ xuống cấp của anh ta là vì lo lắng cho đám cưới và những chuyện liên quan, từ việc phải kết thân với giới tăng lữ đến việc tìm nhà hàng hay quán cà phê phù hợp cho bữa tiệc cưới, nhưng tôi ngờ rằng nỗi sầu muộn này có nguồn gốc sâu xa hơn. Tôi đang cân nhắc có cho Fermín hay chuyện xảy ra lúc sáng và cho anh ta xem cuốn sách hay không, hay là sẽ đợi vào thời điểm tốt hơn, thì trông thấy anh ta lê thân ra cửa với vẻ mặt hẳn sẽ giành được vị trí danh dự nhất tại một đám tang. Khi thấy tôi, anh ta mỉm cười yếu ớt và chào theo kiểu quân nhân.
“Thật vui được gặp anh, Fermín. Tôi đang nghĩ rằng hôm nay anh sẽ không đến đấy.”
“Tôi thà chết còn hơn là ăn không ngồi rồi. Tôi bị bác thợ đồng hồ Federico giữ lại. Khi tôi đi ngang qua cửa hàng, bác ta nhồi cho tôi mấy lời đồn rằng có người đã thấy ông cụ Sempere đi trên phố Puertaferrisa sáng nay, trông rất là bảnh bao và đang trên đường tới một nơi bí ẩn. Bác ta Federico và Merceditas nông nổi muốn biết có phải ông ấy có bồ không - dường như, dạo gần đây chuyện này giúp người ta có được sự tín nhiệm nhất định giữa những người bán hàng trong quận và nếu cô gái ấy là một ca sĩ trong đoàn ca múa, thì lại càng hay ho hơn.”
“Thế anh trả lời sao?”
“Rằng bố cậu, một ông góa kiểu mẫu, đã quay về trạng thái trinh nguyên căn bản, thứ khiến cả cộng đồng khoa học bối rối nhưng lại giúp ông ấy có được một đề cử cấp tốc vào hàng thánh ở văn phòng của tổng giám mục. Tôi không bàn luận về đời tư của ông Sempere với cả bạn hay thù vì đó không phải là chuyện của ai khác ngoài ông ấy. Và bất kỳ ai tiếp cận tôi với thứ rác rưởi như vậy sẽ nhận được của tôi không gì khác ngoài một cái tát. Thế đấy.”
“Anh là một quý ông truyền thống, Fermín ạ.”
“Chính cha cậu mới là người truyền thống, Daniel. Chỉ tôi với cậu biết thôi nhé, và chuyện không được lọt ra khỏi bốn bức tường này, tôi nghĩ cũng chẳng phải là cái gì tồi tệ nếu lúc này hay lúc khác cha cậu sống thoáng hơn một tí. Kể từ khi chúng ta bắt đầu vượt cơn hoang mạc tài chính này ông ấy đã dành toàn bộ thời gian để chôn chặt mình trong nhà kho cùng cuốn Tử thư Ai Cập đấy.”
“Đó là cuốn sổ kế toán,” tôi chỉnh lại anh ta.
“Sao cũng được. Thực ra, dạo gần đây tôi đã nghĩ đến việc đưa ông ấy đi nghe nhạc ở El Molino rồi đi chơi đêm. Mà kể cả trong chuyện đó người hùng của chúng ta có nhàm chán như món cơm thập cẩm làm từ bắp cải, tôi dám chắc rằng cuộc đụng độ mặt đối mặt với một thiếu nữ đẫy đà, căng mọng và quyết đoán sẽ làm lay động ông ấy đến xương tủy,” Fermín nói.
“Xem ai nói kìa. Cuộc đời và linh hồn của cả bữa tiệc. Nói thật nhé, anh mới là người làm tôi lo lắng đấy,” tôi phản bác. “Dạo này anh trông như con gián dính vào áo mưa ấy.”
“Tôi trộm nghĩ đó là một so sánh khéo léo đấy, nếu tôi có thể nói vậy. Vì con gián có thể không có cái vẻ đẹp kênh kiệu như đòi hỏi của các chuẩn mực phù phiếm của cái xã hội ngớ ngẩn mà chúng ta có may mắn được sống, cơ mà cả loài vật chân đốt bị đánh giá thấp ấy và kẻ hèn mọn này đều có đặc trưng là bản năng sinh tồn vô song, ấy là cái tính háu ăn vượt trội và khả năng dục tình của sư tử mà đến cả môi trường phóng xạ cực cao cũng không làm suy chuyển nổi.”
“Thật chẳng thể nào tranh cãi với anh được, Fermín.”
“Đó là bởi tài biện luận bẩm sinh cao siêu của tôi, luôn sẵn sàng phản công dẫu là dấu hiệu mờ nhạt nhất của sự ngốc nghếch, bạn thân mến ạ. Nhưng cha cậu là một bông hoa dịu dàng, mong manh, và tôi nghĩ đã đến lúc hành động trước khi ông ấy biến thành hóa thạch hoàn toàn.”
“Hành động gì cơ, Fermín?” giọng cha tôi xen vào từ sau lưng chúng tôi. “Đừng bảo anh định dàn xếp một bữa tiệc trà cho tôi với Rociíto đấy.”
Chúng tôi quay lại như hai cậu học trò bị bắt quả tang. Cha tôi, trông chẳng giống bông hoa dịu dàng chút nào cả, đang đứng ở cửa nghiêm nghị nhìn chúng tôi.
8“Làm thế nào ông biết được kế hoạch với Rociíto hay vậy?” Fermín lẩm bẩm kinh ngạc.
Sau khi nhấm nháp nỗi sợ hãi gây ra cho chúng tôi, cha mỉm cười dịu dàng và nháy mắt với cả hai.
“Tôi có thể bị hóa thạch, nhưng tai tôi còn nhạy lắm. Tai tôi và óc tôi. Thế nên tôi quyết định phải làm gì đó để vực lại việc kinh doanh của chúng ta,” ông tuyên bố. “Chuyện đi xem nhạc để sau đã nhé.”
Chỉ đến lúc ấy chúng tôi mới để ý cha đang mang hai túi to nặng trịch và một hộp lớn bọc giấy nâu được buộc bằng dây sợi to.
“Đừng bảo con là bố vừa cướp ngân hàng khu này đấy,” tôi nói.
“Bố cố tránh ngân hàng càng nhiều càng tốt: như Fermín nói, bọn họ mới là người hay cướp của chúng ta. Bố vừa ra chợ Santa Lucía.”
Fermín và tôi nhìn nhau hoang mang.
“Hai người có định giúp tôi không? Cái này nặng cả tấn ấy chứ.”
Chúng tôi tiến hành lấy các thứ trong túi đem bỏ lên bàn trong khi cha tôi mở gói bọc hộp ra. Mấy cái túi chứa toàn những thứ nho nhỏ, thứ nào cũng được gói trong giấy nâu. Fermín mở một món ra rồi nhìn vào, vẻ mặt bối rối.
“Cái gì thế?” tôi hỏi.
“Tôi trộm nghĩ là một con vật thồ trưởng thành, to bằng một phần trăm kích cỡ thực,” Fermín gợi ý.
“Cái gì cơ?”
“Cụ thể là, một con lừa hay một thằng ngốc*, loài thú bốn chân hay ho có móng mang theo vẻ quyến rũ và say mê cư trú trên miền đất Tây Ban Nha độc đáo của chúng ta. Khác một nỗi đây là một phiên bản thu nhỏ, như mô hình tàu hỏa người ta bán ở Casa Palau,” Fermín giải thích.
•
A donkey or an ass: cả hai từ “donkey” và “ass” đều có nghĩa là con lừa, còn dùng để chỉ những kẻ đần độn.
“Đó là con lừa đất sét, con vật đặt gần máng,” cha tôi giải thích.
“Cái máng nào cơ?”
Cha tôi mở hộp các tông và lôi ra một cái máng khổng lồ, cùng lô bóng đèn ông vừa mua, và cái, mà tôi đoán, ông định đặt ở gian trưng bày như một chiêu trò quảng cáo mùa Giáng sinh. Trong khi đó, Fermín đã tháo bọc ra, nào bò, nào lợn, nào vịt, và cả ba vị vua già thông thái cưỡi lạc đà, mấy cây cọ, Thánh Joseph và Đức Mẹ Mary.
“Chịu khuất phục trước sự bạo ngược của bộ máy tuyên truyền Công giáo-Quốc gia và những phương pháp nhồi sọ kín đáo bằng việc trưng bày các nhân vật Giáng sinh và những câu chuyện hoang đường, với tôi đó không phải là một giải pháp,” Fermín tuyên bố.
“Đừng nói vớ vẩn, Fermín,” cha tôi cắt ngang. “Đây là một truyền thống đáng yêu và mọi người thích xem cảnh Chúa giáng sinh trong mùa Noel. Cửa hàng cần cái tia sáng hạnh phúc, rực rỡ mà mùa Giáng sinh đòi hỏi. Hãy nhìn khắp các cửa hàng trong khu phố mà xem, và nếu so sánh anh sẽ thấy tại sao cửa hàng của chúng ta trông như nhà tang lễ vậy. Thôi làm tiếp đi nào, giúp tôi đặt cái này bên cửa sổ. Và dời hết đống sách vật lý và lịch sử triết học phương Tây này qua hàng hai hết đi, Fermín. Chúng đang dọa khách hàng mùa Giáng sinh chạy mất dép.”
“Sắp tận thế rồi,” Fermín lẩm bẩm.
Ba người chúng tôi thu xếp đặt chiếc máng và sắp xếp những nhân vật nhỏ vào đúng chỗ. Fermín miễn cưỡng hợp tác, anh ta nhíu mày tìm bất cứ lý do gì để bày tỏ sự phản đối.
“Ông Sempere này, với tất cả lòng kính trọng, tôi mong ông chú ý rằng Chúa hài đồng to gấp ba lần nhân vật được cho là người cha và khó mà vừa cái nôi?”
“Chẳng quan trọng. Người ta bán hết những cái nhỏ rồi.”
“Ồ, tôi nghĩ để cạnh Đức Mẹ Mary cậu ấy trông giống như những võ sĩ Nhật Bản có vấn đề về kiểm soát cân nặng, tóc thì chải hết ra phía sau và quần lót xoắn lại trông như cái khố thắt quanh vùng hạ bộ vậy.”
“Đô vật sumo, người ta gọi thế đấy,” tôi nói.
“Chính là họ,” Fermín đồng tình.
Cha tôi lắc đầu thở dài.
“Hơn nữa, nhìn ánh mắt kia kìa. Ông có nghĩ cậu ấy bị ma nhập không.”
“Nào Fermín, im miệng và bật đèn máng lên xem nào,” cha tôi ra lệnh, tay đưa phích cắm cho anh ta.
Bằng cách trình diễn một trong những chiêu giữ thăng bằng của mình, Fermín chui xuống dưới bàn đặt máng, và với đến ổ cắm phía đằng kia của kệ.
“Và đèn đã sáng,” cha tôi thông báo, phấn khởi nhìn ngắm cảnh Chúa giáng sinh mới bóng loáng ở hiệu sách Sempere & Con trai.
“Thích nghi hay là diệt vong!” ông nói thêm, tự lấy làm hài lòng.
“Diệt vong,” Fermín lẩm nhẩm trong họng.
Chưa đầy một phút kể từ giờ lên đèn chính thức, một quý bà, dắt theo ba đứa trẻ, dừng lại cửa hàng chiêm ngưỡng cái máng và sau một hồi dè dặt, mạnh dạn bước vào cửa hàng.
“Xin chào,” bà nói. “Ông có cuốn sách thiếu nhi nào nói về cuộc đời các vị thánh không?”
“Dĩ nhiên,” cha tôi nói. “Cho phép tôi được giới thiệu một bộ sách đáng đọc là Chúa hài đồng ánh sáng đời tôi, mà tôi chắc lũ trẻ sẽ thích. Sách được minh họa phong phú và do ngài tổng giám mục kính mến của chúng ta viết lời tựa. Không có bộ nào hay hơn đâu.”
“Nghe thật đáng yêu. Kỳ thực, thời buổi này thật khó tìm được những cuốn sách có thông điệp tích cực, những cuốn sách cho ta cảm giác thật sự tốt về bản thân, giờ đây chỉ có toàn những cuốn sách thúc đẩy các thứ bạo lực và tha hóa đang rất được ưa chuộng thời nay.”
Fermín trợn tròn mắt. Anh ta sắp sửa há miệng thì tôi kịp ngán lại và kéo ra xa khỏi khách hàng.
“Tôi hiểu ý của bà, thưa bà,” cha tôi đồng tình, ông nhìn tôi qua khóe mắt, và ra cái vẻ ám chỉ rằng tôi nên giữ chặt và bịt miệng anh ta lại, bởi bằng bất cứ giá nào chúng tôi cũng sẽ không chịu để tuột mất vụ mua bán này.
Tôi đẩy Fermín vào phòng sau, bảo đảm rằng rèm được kéo xuống để cha tôi có thể thoải mái xử lý tình huống này.
“Fermín này, tôi không biết anh bị làm sao. Tôi nhận thấy là anh không tin vào mấy cái vụ Giáng sinh giáng xiếc này, và tôi tôn trọng điều đó, nhưng nếu Chúa hài đồng to bằng cả chiếc xe lu và bốn chú lợn con làm bằng đất sét làm cha tôi phấn chấn tinh thần và trên hết kéo được khách hàng vào hiệu sách, thì tôi sẽ đề nghị anh gạt bài thuyết giảng hiện sinh sang một bên, và tỏ ra anh là một phần của dàn đồng ca, ít nhất là trong giờ làm việc.”
Fermín thở dài và gật đầu, trông luống cuống.
“Dĩ nhiên, Daniel,” anh ta nói. “Thứ lỗi cho tôi. Tôi sẵn sàng đi bộ đến Santiago ăn mặc như một bà tiên răng nếu điều đó làm vui lòng cha cậu và để cứu hiệu sách này.”
“Anh chỉ cần bảo cha tôi rằng ý tưởng cái máng là rất hay, và ra vẻ hợp tác với ông thôi.”
Fermín gật đầu.
“Coi như xong nhé. Tôi sẽ xin lỗi ông Sempere sau vì đã đi quá giới hạn, và để tỏ lòng hối lỗi tôi sẽ đóng góp một bức tượng Chúa nhỏ nhằm chứng minh rằng thậm chí các cửa hàng lớn cũng không thể địch lại tôi trong khoản Giáng sinh. Tôi có một người bạn phải chuyển sang sống lén lút vì đã tạo nên những bức tượng ngồi xổm rất đáng yêu - những người đi cầu tiêu ấy* - dựa trên hình ảnh của Franco, thật đến mức làm ta nổi da gà.”
•
Một món đồ trang trí Giáng sinh truyền thống của Tây Ban Nha.
“Một con cừu non hoặ