← Quay lại trang sách

TỪ CÕI CHẾT 1-Barcelona, 1939

Những tù nhân mới được đưa vào đây ban đêm, trên ô tô hoặc xe tải chạy từ đồn cảnh sát trên phố Vía Layetana qua thành phố trong lặng lẽ, không ai nhận thấy hoặc mong nhìn thấy chúng. Những chiếc xe của cảnh sát đi trên con đường mòn theo triền dốc của đồi Montjuic và không chỉ một tù nhân đã kể lại rằng, cái thời khắc họ thoáng thấy tòa lâu đài trên đỉnh đồi hiện ra giữa những đám mây đen từ phía biển đổ về, họ chắc rằng mình sẽ không bao giờ sống sót thoát ra khỏi nơi đó.

Pháo đài neo mình trên đỉnh cao nhất của rặng núi đá, nằm cheo leo giữa một bên là biển, một bên là tấm thảm những bóng đen của Barcelona, và về phía nam là thành phố của cái chết trải dài bất tận - nghĩa trang Montjuic cổ kính với cái mùi hôi thối bốc lên giữa những tảng đá và len lỏi qua những khe nứt trong đá và xuyên qua những song chắn của phòng giam. Thời trước, lâu đài này được người ta sử dụng để oanh tạc thành phố bên dưới, nhưng chỉ vài tháng sau khi Barcelona sụp đổ, vào tháng Giêng, và trận thua cuối cùng vào tháng Tư, thần chết lặng lẽ đến trú ngụ ở đó và những người Barcelona, bị mắc kẹt trong cái đêm dài nhất lịch sử của họ, không muốn nhìn lên bầu trời và để mắt đến cái nhà tù ngự trên đỉnh núi.

Khi đến nơi, các tù nhân bị cảnh sát giải đến sẽ được đánh số, thường sẽ là số của phòng giam nơi họ sẽ trú ngự và rất có thể là sẽ nằm lại. Đối với hầu hết khách trọ, như cai ngục thường gọi, hành trình đến lâu đài này là con đường chỉ có một chiều. Vào đêm khách trọ số mười ba đến Montjuic trời mưa như trút. Những mạch nước đen mỏng manh rỉ xuống từ tường đá và không khí sặc mùi đất bị đào xới. Hai viên cảnh sát giải anh vào một căn phòng chỉ có mỗi cái bàn đá và một chiếc ghế. Một bóng đèn trơ trọi treo trên trần nhà, sáng chập chờn mỗi khi dòng điện của máy phát yếu đi. Anh đứng đó chờ đợi trong nửa tiếng đồng hồ, áo quần ướt sũng, được một tên lính gác có khẩu súng trường canh chừng.

Cuối cùng, anh nghe thấy có tiếng bước chân, cửa mở ra và một người đàn ông chưa quá tuổi ba mươi bước vào. Hắn mặc một bộ vét mới được là và người toát lên mùi nước hoa. Hắn không có cái nét hung dữ của một sĩ quan hay quân nhân chuyên nghiệp: nét mặt hắn mềm mại và gọi vẻ dễ chịu. Với người tù hắn ta bộc lộ cái vẻ một người tỏ ra ta đây sang giàu, đang chiếu cố mà đến một chốn dơ đáy thế này. Nét nổi bật nhất ở hắn chính là cặp mắt. Màu xanh dương, xuyên thấu và sắc sảo, đượm vẻ tham lam và hoài nghi. Chỉ mỗi cặp mắt thôi, đã lột tả hết bản chất hắn giấu sau cái vẻ lịch thiệp học thức và cung cách tử tế.

Cặp kính tròn tôn chúng lên, và mái tóc bôi sáp thơm, chải ngược ra sau, tạo cho hắn một vẻ giả tạo mơ hồ chẳng ăn nhập gì với khung cảnh xấu xa kia. Gã đó ngồi lên chiếc ghế sau bàn và mở tập hồ sơ hắn mang theo. Sau một hồi xem xét sơ qua nội dung bên trong, hắn đan hai tay lại, đầu ngón tay chống lên cằm, và ngồi soi mói tù nhân, anh cuối cùng cũng đã chịu lên tiếng.

“Xin lỗi, nhưng tôi nghĩ chắc có nhầm lẫn nào ở đây...”

Cú đánh bằng báng súng vào bụng người tù khiến anh nghẹt thở và ngã xuống, cuộn tròn như quả bóng.

“Mày chỉ được nói khi ngài giám thị hỏi mày,” tên lính gác bảo anh.

“Đứng lên,” viên giám thị nói, giọng run run, vẫn chưa quen với việc ra lệnh.

Người tù xoay xở đứng lên và bắt gặp cái nhìn chằm chặp không mấy dễ chịu của viên giám thị.

“Tên?”

“Fermín Romero de Torres.”

Người tù nhận thấy vẻ khinh bỉ và thờ ơ trong đôi mắt xanh kia.

“Tên cái kiểu gì thế? Anh nghĩ tôi là thằng ngớ ngẩn à? Nói đi: tên, tên thật kia.”

Người tù, một người đàn ông nhỏ bé, yếu đuối, đưa giấy tờ ra cho viên giám thị xem. Tên lính gác giật lấy và đưa lên bàn. Viên giám thị nhìn lướt qua, đoạn tặc lưỡi và mỉm cười.

“Lại một tác phẩm khác của Heredia...” hắn lẩm bẩm trước khi ném chỗ giấy tờ vào sọt rác. “Những giấy tờ này chẳng có nghĩa lý gì cả. Anh có định khai tên không hay chúng tôi phải dùng biện pháp mạnh?”

Khách họ số mười ba cố thốt ra mấy lời, nhưng môi anh run rẩy và anh chỉ biết lắp bắp điều gì đó không tài nào hiểu nổi.

“Đừng sợ, anh bạn tốt, không ai định cắn anh đâu. Người ta đã nói gì với anh? Có rất nhiều tên đỏ khốn kiếp ngoài kia đang cố lan truyền những lời lẽ vu khống, nhưng ở đây, nếu người ta hợp tác, họ sẽ được đối xử tốt, như những người Tây Ban Nha. Thôi nào, cởi quần áo ra.”

Vị khách trọ mới đến dường như dè dặt một lát. Viên giám thị nhìn xuống, như thể toàn bộ tình huống này khiến hắn cảm thấy khó chịu và chỉ có sự cứng đầu của người tù mới giữ hắn ở lại đó. Liền ngay sau đấy, tên lính gác dùng báng súng thọi một cú nữa, lần này đau vào đến thận, và khiến anh ngã gục.

“Mày nghe ngài giám thị nói rồi đấy. Cởi đồ ra. Chúng tao không có cả đêm đâu.”

Vị khách trọ số mười ba gặng gượng quỳ dậy và cởi bộ quần áo bẩn thỉu, bê bết máu. Khi anh đã hoàn toàn trần trụi, tên lính canh chọc nòng súng vào nách và ép anh đứng lên. Viên giám thị ngước mắt từ bàn nhìn lên và cau mày ghê tởm khi thấy những vết cháy phủ khắp người, sau mông và gần như khắp đùi anh.

“Có vẻ như nhà vô địch của chúng ta là người quen cũ của Fumero,” tên lính canh nhận xét.

“Câm mồm đi,” viên giám thị ra lệnh, không mấy tự tin.

Hắn sốt ruột nhìn người tù và nhận ra rằng anh đang khóc.

“Thôi đi, đừng khóc nữa và nói tên của anh đi.”

Người tù lí nhí nhắc lại tên mình.

“Fermín Romero de Torres...”

Viên giám thị thở dài mệt mỏi.

“Này, tôi bắt đầu mất kiên nhẫn rồi đấy. Tôi muốn giúp anh và tôi thực sự không thích phải gọi thanh tra Fumero và cho ông ta biết anh ở đây...”

Người tù bắt đầu lắp bắp như một con chó bị thương và run rẩy dữ dội đến mức viên giám thị, rõ ràng thấy khó chịu trước cảnh tượng này và muốn kết thúc vụ việc càng sớm càng tốt, bèn liếc nhìn tên lính gác, không nói một lời, rồi vừa viết cái tên mà người tù đã khai vào sổ đăng ký, vừa chửi thầm trong bụng.

“Cuộc chiến chết tiệt này,” hắn ta lẩm bẩm một mình khi người ta đưa tù nhân về phòng giam bằng cách kéo cơ thể trần trụi của anh qua đường hầm đầy máu.

2

Phòng giam là một khối vuông tối đen, ẩm ướt. Khí lạnh thổi vào qua một lỗ nhỏ khoan vào vách đá. Những bức tường đầy rẫy các ký hiệu và những thông điệp được khắc nham nhở do khách trọ trước để lại. Một số viết tên, ngày tháng, hay những bằng chứng khác về sự tồn tại của họ. Một người trong số đó đã khắc nguệch ngoạc không biết bao nhiêu hình thập ác trong bóng đen, nhưng thượng đế dường như không để ý đến họ. Những song sắt phòng giam bị han gỉ và để lại một lớp màng nâu lên tay ta.

Co ro trên chiếc giường xiêu vẹo, Fermín cố che cơ thể trần trụi của mình bằng những mảnh vải rách rưới mà anh đồ là được dùng để làm chăn, đệm và gối. Ánh sáng mờ nhạt pha sắc đồng, như hơi thở của một ngọn nến đang tàn. Sau một lát, mắt anh dần quen với bóng tối, và đôi tai tinh nhạy hơn, giúp anh bắt được tiếng của những chuyển động rất nhẹ bị lấn lướt bởi tiếng những giọt nước rỉ xuống và tiếng gió lùa rít từ ngoài vọng vào.

Fermín ngồi ở đó được nửa tiếng thì nhận thấy một hình dạng trong bóng đêm, đằng kia phòng giam. Anh đứng lên và chầm chậm bước đến: đó là một chiếc túi vải bẩn thỉu. Cái lạnh và sự ẩm ướt đã bắt đầu ngấm vào xương cốt, và dù mùi của cái bọc ấy, cái bọc dính đầy vết bẩn, không báo cho biết nó là gì, Fermín nghĩ có lẽ nó chứa quần áo của tù nhân mà không ai thèm đưa cho anh, và với chút may mắn, cả một tấm chăn bao bọc anh khỏi cái lạnh buốt. Anh quỳ xuống và tháo nút buộc ở đầu túi.

Khi anh mở toang cái túi ra, ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn dầu lập lòe nơi hành lang làm lộ ra thứ mà ban đầu anh tưởng là khuôn mặt của một con búp bê, một ma nơ canh mà thợ may đặt trong cửa hàng để bày quần áo. Mùi hôi thối và chất nôn mửa khiến anh nhận ra đấy không phải người giả. Anh lấy một tay che mũi và miệng, kéo phần còn lại của tấm bạt ra, rồi lui lại cho đến khi anh chạm vào bức tường phòng giam.

Cái xác dường như là của một người trưởng thành đâu chừng giữa bốn mươi đến bảy lăm, và chắc chắn là chưa đầy năm chục cân. Một mớ tóc trắng, bộ râu phủ kín khuôn mặt, và thân hình gầy giơ xương. Bàn tay gầy guộc, móng tay dài cong vút, trông như móng vuốt của loài chim. Đôi mắt anh ta mở to, giác mạc teo lại như trái cây chín héo. Miệng anh ta há, lưỡi đen và sưng phồng lên giữa hai hàm răng.

“Hãy lấy quần áo của anh ta trước khi người ta đến khiêng anh ta đi,” một giọng nói từ phòng giam đối diện cất lên. “Anh sẽ không có gì khác để mặc cho đến tháng sau đâu.”

Fermín liếc nhìn trong bóng tối và nhận thấy cặp mắt sáng long lanh từ chiếc giường ở phòng giam bên kia đang quan sát anh.

“Đừng sợ, linh hồn tội nghiệp kia không thể làm hại ai được nữa,” giọng nói trấn an anh.

Fermín gật đầu và bước đến cái túi, tự hỏi làm thế nào để tiếp tục thực hiện hành động này.

“Tôi thành thực xin lỗi,” anh lẩm nhẩm với người đã khuất. “Mong Chúa phù hộ cho linh hồn anh.”

“Anh ta là người vô thần,” giọng nói từ phòng giam đối diện cho anh biết.

Fermín lại gật đầu và quyết định bỏ qua các thủ tục. Cái lạnh thấm vào phòng giam buốt đến độ cắt da thịt và bất kỳ phép lịch sự nào cũng cơ hồ thừa thãi. Anh nín thở và bắt tay vào việc. Bộ quần áo có mùi y như mùi của người chết kia. Cơ thể anh ta đã bắt đầu đông cứng và nhiệm vụ cởi bỏ quần áo cái xác hóa ra lại khó khăn hơn anh dự đoán. Khi bộ quần áo tốt nhất của người chết đã được cởi bỏ, Fermín lấy bao tải đắp lên người chết và buộc lại với một nút thắt mà đến cả Houdini vĩ đại cũng không tài nào tháo ra được. Cuối cùng, khi đã mặc vào bộ đồ tù rách rưới và sặc mùi xú uế, Fermín lại nằm co trên giường, tự hỏi trước anh đã có bao nhiêu tù nhân khoác bộ quần áo này.

“Cảm ơn nhiều lắm,” cuối cùng anh nói.

“Không sao,” giọng nói từ phòng giam bên kia đáp.

“Fermín Romero de Torres.”

“David Martín.”

Fermín nhíu mày. Cái tên nghe quen quá. Phải đến năm phút lục tìm trong ký ức xa xưa anh mới thình lình nhận ra. Anh nhớ đến những buổi chiều ngồi trong góc thư viện trên phố Carmen, ngấu nghiến một loạt những cuốn sách có nhan đề và bìa sách đầy hấp dẫn.

“Tác giả Martín? Của cuốn Thành phố bị nguyền rủa?”

Một tiếng thở dài trong bóng đêm.

“Không còn ai trân trọng bút danh nữa.”

“Xin thứ lỗi cho lời nói bất cẩn của tôi. Chỉ là tôi sùng kính các tác phẩm của ông và tìm đọc tất cả. Thế nên tôi mới biết chính ông đã viết những tiểu thuyết về Ignatious B. Samson bất tử...”

“Rất hân hạnh.”

“Ồ, thưa ông Martín, thật là vinh hạnh được gặp ông, dù là trong hoàn cảnh khốn cùng này, bởi tôi là người ngưỡng mộ ông đã nhiều năm nay...”

“Hai kẻ si tình kia có định câm miệng không hả? Để cho người khác ngủ với chứ,” giọng nói gay gắt gầm lên dường như là ở phòng giam bên cạnh.

“Lão Càu Cọ lại bắt đầu rồi,” giọng nói thứ hai xen vào từ cuối hành lang. “Đừng để ý đến lão ta, Martín. Nếu ông mà ngủ ở đây, ông sẽ bị lũ bọ ăn sống mất, bắt đầu từ bộ củ. Nói tiếp đi, Martín, sao ông không kể chuyện cho chúng tôi? về Chloé...”

“Đúng rồi, để ông có thể xóc lọ như con đười ươi ấy à,” một giọng thù nghịch đáp lại.

“Fermín, bạn của tôi,” Martín thông báo từ phòng của mình. “Để tôi giới thiệu anh với Mười Hai, người luôn tìm thấy điều sai trái trong mọi sự, ý tôi là tất cả, và Mười Lăm, một kẻ mất ngủ, có giáo dục và là nhà tư tưởng chính thức của khu phòng giam. Những người còn lại không nói nhiều, đặc biệt là Mười Bốn.

“Tôi nói khi có gì đó để nói,” một giọng trầm lạnh băng ngắt lời, mà Fermín cho là của Mười Bốn. “Nếu chúng ta ai cũng làm thế, thì chúng ta sẽ có một chút yên bình trong đêm.”

Fermín hòa nhập vào cộng đồng kỳ quái này.

“Chào mọi người. Tôi là Fermín Romero de Torres và thật vui khi được quen với các vị.”

“Có mỗi anh là thấy vui thôi,” Mười Lăm nói.

“Chào mừng anh, và tôi hy vọng anh ở đây không lâu,” Mười Bốn đưa lời.

Fermín liếc nhìn một lần nữa cái túi chứa xác trương phồng kia.

“Đó là Lucio, cố tù nhân Mười Ba,” Martín giải thích. “Chúng tôi không biết gì về anh ta bởi vì gã khốn khổ đó bị câm. Một viên đạn xé nát thanh quản anh ta trong trận Ebro.”

“Thật tiếc vì hắn ta là người duy nhất bị vậy,” Mười Lăm nhận xét.

“Sao anh ta chết?” Fermín hỏi.

“Cứ ở đây là người ta chết thôi,” Mười Hai trả lời. “Chẳng cần thêm lý do gì nữa.”

3

Lề thói hằng ngày cũng góp ích. Mỗi ngày một lần, trong một giờ, các tù nhân ở hai gian nhà tù đầu tiên được đưa ra sân, trong phạm vi đường hào để có chút nắng, mưa, hay bất kỳ thứ gì mà thời tiết đem lại. Thực đơn gồm có một bát vơi cháo nhầy mỡ, xám xịt và lạnh cóng mà không xác định được là nấu từ cái gì, còn mùi vị ôi thiu, mà sau vài ngày, cộng với những cơn co bóp dạ dày vì đói, cuối cùng cũng trở nên không có mùi và vì vậy mà dễ nuốt hơn. Đồ ăn được bố thí vào giữa buổi chiều và dần dà các tù nhân bắt đầu trông chờ đến cái giờ đó.

Mỗi tháng một lần tù nhân nộp lại quần áo bẩn và được cấp một bộ hẳn là đã được nhúng vào nước sôi chừng một phút, dù những con bọ chét dường như chẳng nhận thấy. Vào những ngày Chủ nhật tù nhân được khuyến nghị đi dự lễ Misa. Không ai dám bỏ buổi này, bởi cha đạo sẽ điểm danh và nếu thiếu bất kỳ tên nào ông ta sẽ ghi lại. Hai lần vắng mặt nghĩa là một tuần treo bát. Ba lần vắng, một tháng nghỉ dưỡng tại phòng giam biệt lập trong tòa tháp.

Các gian nhà tù, sân và bất cứ khu vực nào khác mà tù nhân bị đẩy vào đều được canh gác nghiêm ngặt. Một đội lính gác được trang bị súng trường, súng ngắn để tuần tra nhà tù và, khi tù nhân ra khỏi phòng giam, họ không thể nhìn bất cứ hướng nào mà không trông thấy ít nhất cả chục lính gác, đầy cảnh giác, vũ khí luôn sẵn sàng. Bên cạnh đó cũng có cả những cai ngục ít vẻ hăm dọa hơn, những người này trông không có vẻ gì là lính; anh em trong tù đều có chung cảm giác rằng họ là một đám linh hồn bất hạnh, không thể tìm được công việc tốt hơn trong thời buổi khó khăn này.

Mỗi gian nhà tù được phân một cai ngục. Được trang bị một lô chìa khóa, hắn ta làm việc theo ca mười hai tiếng ngồi trên ghế ở cuối hành lang. Hầu hết cai ngục đều tránh kết thân với tù nhân và không nói với họ một lời hay nhìn xa hơn mức cần thiết. Ngoại lệ duy nhất là con quỷ tội nghiệp có biệt danh Bebo, chột một mắt trong một cuộc không kích khi gã đang làm gác đêm tại một nhà máy ở Pueblo Seco.

Có tin đồn rằng Bebo có người anh em sinh đôi đi tù ở Valencia và có lẽ vì vậy gã tỏ ra tử tế đôi chút với các tù nhân. Khi không có ai theo dõi, gã sẽ tuồn cho họ chút nước uống, một chút bánh mì khô hay bất cứ thứ gì xoáy được trong kho của lính gác vốn được cóp nhặt từ những gói viện trợ do gia đình tù nhân gửi đến. Bebo thích kéo ghế của gã đến buồng giam của David Martín và nghe những câu chuyện ông nhà văn này thỉnh thoảng vẫn kể cho những bạn tù khác. Trong cái địa ngục ấy, Bebo gần như là một thiên sứ.

Thông thường, sau buổi lễ Misa ngày Chủ nhật, giám thị sẽ phát biểu đôi lời để giáo huấn các tù nhân. Họ chỉ biết tên của hắn là Mauricio Valls, và trước chiến tranh hắn từng là một nhà văn đầy khát vọng, là thư ký và chân chạy việc vặt cho một tác gia địa phương nổi tiếng, một kình địch lâu đời của ngài Pedro Vidal yểu mệnh. Trong thời gian rảnh rỗi, Valls hạ bút tạo ra những dịch phẩm kém cỏi của các tác phẩm kinh điển Hy Lạp và La Mã, và với sự giúp đỡ của vài tâm hồn thánh thiện, hắn còn biên những cuốn sách mỏng về văn hóa với những kỳ vọng rất cao nhưng lại có lượng lưu hành thấp. Họ cũng tổ chức những cuộc tọa đàm văn chương, với cả một tiểu đoàn những tinh tú đồng tư tưởng cùng lên tiếng xót xa cho nhân tình thế sự, dự đoán rằng nếu một ngày họ có thể nắm quyền hành, thì thế giới sẽ bay cao lên đỉnh Olympus.

Cuộc đời của hắn dường như được mặc định phải chịu một số phận đắng cay, u ám của những kẻ tầm thường, những kẻ mà Chúa, trong sự tàn nhẫn đến vô định của Người, đã ban phát những ảo tưởng về sự vĩ đại và tham vọng vô biên vượt quá tài năng của bọn họ. Cuộc chiến, tuy nhiên, đã viết lại số mệnh của hắn như nó đã làm với nhiều người khác, và vận của hắn thay đổi từ lúc ấy, trong một tình huống nằm đâu đó giữa sự tình cờ và sự săn tìm vận may, Mauricio Valls, cho đến lúc bấy giờ chỉ mê đắm cái tài năng phi thường và sự tinh tế tuyệt trần của chính mình, đã cưới con gái của một kẻ tài phiệt, những công ty có tầm ảnh hưởng sâu rộng của lão đã hỗ trợ ngân sách cho Tướng Franco và các binh đoàn của ông ta.

Cô dâu, hơn hắn những tám tuổi, bị giam hãm trên xe lăn từ năm mười ba tuổi, héo mòn đi vì căn bệnh bẩm sinh đã nhẫn tâm phá hủy các cơ bắp và cuộc đời cô. Chưa người đàn ông nào từng nhìn vào mắt cô hay cầm tay cô để nói rằng cô là người xinh đẹp và hỏi tên cô là gì. Mauricio, cũng như bao gã làm văn bất tài, sở hữu thói thực dụng cũng cao như thói kiêu ngạo của hắn, là người đầu tiên và là người cuối cùng làm điều đó, và một năm sau cặp đôi này kết hôn ở Seville, với sự có mặt của Tướng Queipo de Llano và những tinh tú khác của bộ máy chính quyền.

“Valls, cậu sẽ tiến xa đấy,” chính Serrano Súner* đã dự báo như vậy tại một cuộc hội kiến riêng ở Madrid mà Valls đến để xin cái chân giám đốc Thư viện Quốc gia.

Serrano Súner (1901-2003): người giữ vị trí bộ trưởng Bộ Nội vụ và sau đó là bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong bộ máy chính quyền của Franco, đồng thời cũng là anh rể của Franco.

“Tây Ban Nha đang trải qua thời khắc khó khăn và những người thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt ở Tây Ban Nha cũng phải chung vai gánh vác và giúp ngăn chặn lũ người Mác xít đang rắp tâm làm thối nát quyết tâm, tinh thần của chúng ta,” anh rể Tướng Franco tuyên bố, trông rất lộng lẫy trong bộ quân phục đô đốc như mượn từ kịch câm.

“Ngài có thể tin ở tôi, thưa ngài,” Valls ướm lời. “Bất kể vị trí nào.”

“Bất kể vị trí nào” hóa ra là vị trí giám đốc, không phải của Thư viện Quốc gia diệu kỳ ở Madrid như hắn hằng mong ước, mà là ở một nhà tù đầy tai tiếng, ngự trên mỏm đá nhìn xuống thành phố Barcelona. Danh mục bạn thân và người được bảo trợ đòi hỏi những vị trí béo bở còn rất rất dài và Valls, bất chấp mọi cố gắng của hắn, chỉ đứng thứ ba từ dưới lên trong danh sách ấy.

“Hãy kiên nhẫn, Valls. Nỗ lực của cậu sẽ được đền đáp.”

Đó là cách Mauricio Valls học được bài học đầu tiên trong cái môn nghệ thuật truyền thống, phức tạp của đất nước ấy là dùng thủ đoạn để tiến thân sau mỗi lần chế độ thay đổi: hàng ngàn người ủng hộ đã gia nhập hàng ngũ và cuộc cạnh tranh rất khốc liệt.

4

Đó là câu chuyện mà người ta bảo với nhau. Đống tin đồn, hoài nghi và cáo buộc chưa được xác nhận này đã đến tai những người tù - và bất kể ai muốn nghe - nhờ những mưu đồ đen tối của viên giám thị trước. Lão ta đã bị khai trừ một cách phũ phàng ra khỏi vị trí đó chỉ sau hai tuần tại vị, và bị đầu độc bởi những oán hờn đối với gã Valls mới phất, kẻ đã cướp đi cái chức vị mà lão phải tranh đấu qua suốt cuộc chiến tranh mới có được. May mắn thay cho Valls lão giám thị về vườn kia chẳng có họ hàng làm quan to và từng bị bắt gặp trong tình trạng say xỉn, khi đang thốt ra những lời đùa cợt về ngài tổng tư lệnh của toàn cõi Tây Ban Nha và vẻ giống nhau đến ngạc nhiên của ông ta với chú lùn Dopey. Trước khi bị tống sang làm phó giám thị ở nhà tù Ceuta, lão đã dồn hết sức lực vào việc nói xấu Mauricio Valls khắp bốn phương.

Điều chẳng cần bàn cãi là không một ai được nhắc đến Valls bằng cái tên nào khác ngoài “giám thị”. Bản chính thức, mà chính hắn bịa đặt ra và cho phép được lưu truyền, ấy là hắn, Mauricio, một tay chữ nghĩa, có thành tựu được công nhận và đầy trí thức và kèm theo đó là sự uyên bác tinh diệu mà hắn đã thu nhận trong những năm học ở Paris. Ngoài địa vị tạm thời trong mảng cải tạo của chế độ, tương lai và nhiệm vụ của hắn nằm ở việc giáo huấn thường dân của một nước Tây Ban Nha đã bị tàn phá, dạy cho họ cách suy nghĩ với sự giúp đỡ của một nhóm tinh tuyển những kẻ đồng cảm.

Bài giảng của hắn thường là các câu trích dài dòng từ chính những bài viết, những bài thơ hay những bài báo giáo dục hắn đăng thường xuyên trên thông tấn quốc gia, về văn chương, triết học và những tư tưởng khai sáng cần thiết của thế giới phương Tây. Nếu các tù nhân tán đồng một cách hào hứng khi những bài giảng bậc thầy này kết thúc, viên giám thị sẽ ra một cử chỉ hào hiệp là lệnh cho những cai ngục phát thuốc lá, nến hay một số đồ xa xỉ khác thu từ những gói hàng tiếp tế do người nhà gửi cho tù nhân. Những món đồ đáng giá hơn cả đã bị lính canh chiếm đoạt trước để đem về nhà hay đôi khi là bán lại cho các tù nhân. Thế còn tốt hơn là không có gì.

Những người chết vì nguyên nhân tự nhiên hay một nguyên nhân mơ hồ nào đó - bình quân năm đến mười người một tuần - được thu gom vào giữa đêm, ngoại trừ cuối tuần và ngày nghỉ lễ, lúc ấy xác sẽ nằm ở trong phòng giam cho đến thứ Hai hoặc ngày làm việc tiếp theo, và bè bạn với khách họ mới. Khi các tù nhân báo bạn tù của họ qua đời, cai ngục sẽ tiến đến, xem mạch và hơi thở của cái xác rồi bọc vào loại túi được dùng riêng cho mục đích này. Khi túi được buộc chặt, nó nằm lại trong phòng giam cho đến khi phu đào huyệt ở nghĩa trang Montjuic bên cạnh đến khiêng đi. Không ai biết họ làm gì với những cái xác và khi tù nhân hỏi Bebo, gã không chịu trả lời, mắt cúi xuống.

Cứ nửa tháng một lần, một phiên tòa sẽ chóng vánh diễn ra và những người bị kết án sẽ bị bắn lúc trời mờ sáng. Đôi khi, nhờ tình trạng tồi tệ của chỗ súng ống đạn dược mà đội xử bắn đã bất thành trong việc xuyên thủng một cơ quan nội tạng thiết yếu và những tiếng gào thét đau đớn của những người bị thương cứ vang lên mãi nhiều giờ sau. Thi thoảng người ta nghe thấy một tiếng nổ và tiếng gào thét đột nhiên ngừng bặt. Một giả thuyết lan truyền trong đám tù nhân là một trong những viên cảnh sát đã tiễn vong họ bằng một quả lựu đạn, nhưng không ai dám quả quyết điều này là đúng.

Một tin đồn khác cũng được lan truyền rằng vào các sáng thứ Sáu giám thị tiếp các bà vợ, con gái, vị hôn thê hay thậm chí cả bà dì và bà nội, ngoại của tù nhân tại phòng làm việc của mình. Sau khi đã tháo nhẫn cưới và giấu ở ngăn bàn trên cùng, hắn lắng nghe đề nghị của họ, cân nhắc những lời cầu xin của họ, đưa khăn cho họ lau nước mắt, và nhận quà cùng những ân huệ khác, sau khi hứa hẹn những khẩu phần ăn ngon hơn, sự đối đãi tử tế hơn với người thân yêu của họ, hay xem xét lại những bản án chưa minh bạch, điều mà tiếc thay chẳng bao giờ được thực hiện.

Vào những dịp có chọn lọc, Mauricio Valls mời họ ăn bánh, và một ly rượu nho xạ, và giả như, bất chấp thời buổi khó khăn và chế độ ăn uống thiếu thốn, họ vẫn còn hấp dẫn đến nhói lòng, hắn sẽ đọc cho họ nghe mấy thứ hắn viết và thú nhận rằng hôn nhân của hắn với một cô vợ đau ốm quả như một bài kiểm tra tính thánh thiện giáng xuống đời hắn. Rồi hắn sẽ lải nhải về công việc cai ngục hắn đang làm và rằng hắn thấy bẽ bàng vì một con người cao nhã và học thức tót vời như hắn lại bị giam hãm vào một chức vị đáng hổ thẹn như vậy, trong khi đáng ra hắn phải ở nấc thang cao vời của đất nước này.

Các tù nhân đầy kinh nghiệm khuyên ta đừng nên nhắc tới giám thị, và nếu có thể thì đừng có nghĩ tới hắn. Hầu hết họ thích nói về gia đình mà họ bỏ lại và cuộc sống họ còn nhớ. Một số có ảnh bạn gái hoặc người vợ mà họ vô cùng trân quý và sẽ đem tính mạng ra để bảo vệ nếu có ai định giật khỏi tay họ. Không chỉ một tù nhân đã bảo Fermín rằng ba tháng đầu tiên là tồi tệ nhất. Sau đó, một khi đánh mất mọi hy vọng, thời gian bắt đầu trôi nhanh hơn và những ngày vô nghĩa sẽ khiến tâm hồn chết dần đi.

5

Vào những ngày Chủ nhật, sau lễ Misa và bài giáo huấn của giám thị, một số tù nhân sẽ tụ tập vào góc có nắng của sân nhà tù để hút chung một hai điếu thuốc hay nghe những câu chuyện David Martín kể cho họ, khi đầu óc ông còn tỉnh táo. Fermín, vốn biết hết những chuyện ấy vì anh đã đọc toàn bộ loạt sách Thành phố bị nguyền rủa, sẽ gia nhập nhóm này và để cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Nhưng thường thì Martín không đủ minh mẫn, đến mức hỏi mấy giờ ông còn chẳng biết, nên những người khác sẽ bỏ mặc ông đi vẩn vơ nói chuyện một mình. Fermín theo dõi ông sát sao, thỉnh thoảng lại đi sau ông, bởi ở con người khốn khổ ấy có điều gì đó khiến con tim anh nhức nhối. Sử dụng mọi mưu mẹo xảo trá và quỷ quyệt của mình, Fermín cố tìm được vài điếu thuốc lá cho ông, hay thậm chí là vài viên đường, thứ Martín yêu thích.

“Anh là người tốt, Fermín. Cố đừng để lộ điều đó ra,” nhà văn nói với anh.

Martín luôn mang bên mình một tấm ảnh cũ mà ông thích ngắm nhìn mê mẩn thật lâu. Ảnh chụp một người đàn ông mặc đồ trắng, cầm tay một bé gái chừng tám tuổi. Cả hai đang ngắm hoàng hôn ở cuối chiếc cầu tàu gỗ vươn ra bờ biển, như một con đường lơ lửng trên làn nước pha lê. Khi Fermín hỏi ông về bức ảnh, thường ông không đáp. Ông chỉ cười, trước khi bỏ tấm ảnh vào lại trong túi.

“Cô bé trong ảnh là ai, ông Martín?”

“Tôi không chắc, Fermín ạ. Nhiều khi tôi thất vọng về trí nhớ của mình quá. Chuyện đó không xảy ra với anh sao?”

“Dĩ nhiên. Ai cũng bị như vậy mà.”

Có tin đồn rằng đầu óc Martín hoàn toàn không được tỉnh táo, nhưng chẳng bao lâu sau khi Fermín bắt đầu kết thân với ông anh nhận ra rằng con người tội nghiệp này đang ở tình trạng tệ hơn rất nhiều so với những gì tù nhân khác nói. Có những khoảnh khắc ông tỏ rõ mình minh mẫn hơn những người khác, nhưng thường thì ông dường như không hiểu mình đang ở đâu và ông nói về những người và nơi chốn rõ ràng chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng hoặc ký ức.

Fermín hay dậy sớm và nghe Martín nói chuyện. Nếu lén lút lại gần song sắt và chăm chú lắng nghe, anh có thể thấy rất rõ ông đang tranh cãi với một người tên là “ngài Corelli”, và xét đến những lời lẽ trao đổi của Martín, người này dường như là một nhân vật thâm độc khét tiếng.

Vào một trong những đêm ấy Fermín thắp phần còn lại của cây nến cuối cùng và giơ cao về phía phòng giam đối diện. Anh muốn chắc chắn rằng Martín thực sự ở một mình và cả hai giọng nói, giọng của ông và giọng thuộc về người có tên Corelli, là do cùng một người phát ra. Martín đang đi thành vòng tròn trong buồng giam của ông, và khi ánh mắt họ gặp nhau, Fermín nhận ra rằng người bạn tù không thể nhìn thấy anh. Ông hành động như thể những bức tường kia không tồn tại và cuộc trò chuyện với người lạ kia đang diễn ra ở một nơi nào đó rất xa.

“Đừng quan tâm đến ông ta,” Mười Hai lẩm bẩm trong bóng tối. “Đêm nào ông ta cũng vậy cả. Ông ta loạn trí rồi. Thật may cho ông ta.”

Sáng hôm sau, khi Fermín hỏi ông về người tên là Corelli và những cuộc trò chuyện lúc nửa đêm, Martín ngạc nhiên nhìn anh rồi mỉm cười bối rối. Vào một dịp khác, khi trời lạnh quá không ngủ được, Fermín bước lại song sắt và lắng nghe Martín nói chuyện với một trong những người bạn vô hình của ông. Đêm đó, Fermín cả gan nói xen vào.

“Martín? Là tôi đây. Fermín, bạn của ông ở đối diện hành lang đây. Ông có làm sao không?”

Martín bước đến song sắt buồng giam của mình và Fermín có thể thấy khuôn mặt ông đẫm nước mắt.

“Ông Martín? Isabella là ai? Lúc nãy ông nói về cô ấy.”

Martín nhìn chằm anh.

“Isabella là điều tốt đẹp duy nhất còn lại giữa thế giới bẩn thỉu này,” ông đáp sau một lát, với giọng cay đắng khác thường. “Nếu không phải vì cô ấy, chúng ta đã châm lửa đốt hết tất cả và mặc cho nó cháy đến lúc cả tro tàn cũng bay đi.”

“Tôi xin lỗi, Martín. Tôi không định làm phiền ông.”

Martín rút vào bóng tối. Ngày hôm sau người ta thấy ông run rẩy trong chính vũng máu của ông. Thấy Bebo đã ngủ gật trên ghế, ông đã khứa rách cổ tay bằng cách cọ vào đá. Khi người ta lấy cáng khiêng ông đi trông ông nhợt nhạt đến mức Fermín tưởng sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại ông nữa.

“Đừng lo về người bạn của anh, Fermín,” Mười Lăm nói. “Nếu là bất kỳ ai khác, thì người đó hẳn sẽ chui thẳng vào túi vải rồi, nhưng giám thị sẽ không để Martín chết đâu. Không ai biết tại sao.”

Phòng giam của David Martín trống trơn trong năm tuần. Khi Bebo đưa ông trở lại, bế ông như bế một đứa trẻ, ông mặc bộ pyjama màu trắng, tay được băng bó đến tận khuỷu. Ông không nhớ ai hết và đêm đầu tiên ông nói chuyện một mình và bật cười. Bebo đặt ghế của gã đối diện song sắt phòng Martín, và theo dõi ông sát sao suốt cả đêm, cho ông những viên đường gã trộm từ phòng mấy sĩ quan rồi giấu trong túi áo.

“Ông Martín, xin đừng nói như thế nữa. Chúa sẽ trừng phạt ông đấy,” gã cai ngục thì thầm giữa những lần đưa đường cho ông.

Trong thế giới thực, Mười Hai từng là bác sĩ Román Sanahuja, trưởng khoa Nội ở Bệnh viện Lâm sàng Barcelona, một người khả kính, được chữa lành khỏi những ảo tưởng về chế độ, lương tâm của ông cộng với việc ông không chịu tố giác bạn bè đã đẩy ông vào ngục. Theo quy định, trong phạm vi những bức tường kia, không ai được biết nghề nghiệp của tù nhân cả. Trừ phi cái nghề đó mang lại chút lợi ích cho giám thị. Trong trường hợp bác sĩ Sanahuja, do được việc nên nhanh chóng được ghi nhận.

“Thật không may, chỗ tôi không có đủ đồ y tế,” viên giám thị giải thích cho ông. “Nói thẳng thắn, chế độ có những mối lo lắng khác và không thèm bận tâm dù các người có chết trơ xương trong phòng giam vì chứng hoại tử. Sau nhiều tranh đấu tôi đã buộc người ta phải cung cấp cho tôi một tủ thuốc nghèo nàn cùng một gã lang băm ăn hại không đáng làm gác cổng cho bất cứ phòng khám thú y nào, tôi dám chắc là thế. Nhưng chuyện là vậy đấy. Tôi biết một điều rằng trước khi mắc phải sai lầm và đi vào con đường trung lập ông là một bác sĩ danh tiếng. Vì những nguyên do ông không cần thiết phải biết đến, tôi vô cùng mong mỏi rằng người bạn chung David Martín của chúng ta không rời bỏ chúng ta vĩnh viễn. Nếu ông đồng ý hợp tác và giữ cho ông ấy khỏe mạnh, tôi có thể đảm bảo rằng cuộc sống của ông ở trong này sẽ dễ chịu hơn, và cá nhân tôi sẽ lo liệu để ông được xem xét giảm án tù.”

Bác sĩ Sanahuja gật đầu.

“Tôi nhận thấy rằng một số tù nhân coi Martín là người đầu óc hơi có vấn đề. Phải vậy không?” viên giám thị hỏi.

“Tôi không phải bác sĩ tâm thần, nhưng theo hiểu biết khiêm nhường của mình, tôi tin Martín rõ ràng đang mất cân bằng.”

Viên giám thị cân nhắc nhận xét ấy.

“Và, theo ý kiến chuyên môn của ông, thì ông ấy còn kéo dài được bao lâu?” hắn hỏi. “Ý tôi là còn sống.”

“Tôi không biết. Điều kiện trong nhà tù này không tốt và...”

Viên giám thị cắt lời ông bằng vẻ chán nản.

“Và đúng mực? Ông nghĩ Martín còn duy trì được sự tỉnh táo trong bao lâu nữa?”

“Không lâu, tôi nghĩ.”

“Tôi hiểu.”

Viên giám thị mời ông thuốc lá, ông từ chối.

“Ông quý mến ông ấy, phải không?”

“Tôi gần như chẳng biết ông ấy,” bác sĩ đáp. “Ông ấy dường như là một người lịch duyệt.”

Viên giám thị mỉm cười.

“Và một nhà văn tồi tệ. Có lẽ là nhà văn tồi nhất mà đất nước này từng có.”

“Ông là người có thẩm quyền được công nhận trong địa hạt văn chương, thưa ngài giám thị. Tôi chẳng biết gì về chủ đề này cả.”

Viên giám thị lạnh lùng nhìn ông.

“Tôi đã cho nhiều người vào phòng biệt giam trong ba tháng vì những nhận xét ít láo xược hơn thế đấy. Ít người sống sót được và những người còn sống thì quay lại trong tình trạng tồi tệ hơn ông bạn Martín của ông. Đừng có phạm lỗi chết người và đi giả định rằng tài năng của ông sẽ cho ông được hưởng chút đặc quyền nào đó. Hồ sơ của ông cho biết ông có vợ và ba con gái đang ở ngoài kia. Vận may của ông, cũng như của gia đình ông, tùy thuộc vào việc ông có ích thế nào với tôi. Tôi nói thế ông đã hiểu rõ chưa?”

Bác sĩ Sanahuja nuốt khó nhọc.

“Vâng, thưa ngài giám thị.”

“Cảm ơn ông, bác sĩ.”

Thỉnh thoảng, gã giám thị đề nghị Sanahuja khám cho Martín. Rành rành là tay giám thị không tin vào bác sĩ nội trú của nhà tù, một tên lang băm bất tín dường như đã quên khái niệm chăm sóc phòng ngừa vì ký quá nhiều giấy chứng tử. Viên giám thị đã cho lão nghỉ không lâu sau đó.

“Ông mô tả trình trạng tổng thể của bệnh nhân ra sao, bác sĩ?”

“Yếu.”

“Tôi hiểu. Còn những yêu ma, nếu có thể nói như vậy? Ông ta vẫn nói chuyện một mình và tưởng tượng mọi thứ chứ?”

“Về mặt này thì không có thay đổi đáng kể nào cả.”

“Tôi coi câu trả lời là có. Tôi đã đọc một bài viết xuất sắc mà ông bạn tốt Sebastian Jurado của tôi đăng trên ABC, trong đó ông ấy nói về chứng tâm thần phân liệt, căn bệnh của bọn thi sĩ.”

“Tôi không đủ chuyên môn để chẩn đoán một bệnh như thế.”

“Nhưng tôi hy vọng, ông đủ chuyên môn để cứu sống ông ấy, phải vậy không?”

“Tôi đang cố hết sức trong khả năng của mình.”

“Chỉ cố gắng hết mức không thôi chưa đủ. Hãy tính đến hoàn cảnh của con mình. Quá trẻ và quá dễ tổn thương. Không được bảo vệ trong khi lũ súc vật nhẫn tâm cùng bọn đỏ vẫn lẩn trốn ngoài kia.”

Nhiều tháng trôi qua, bác sĩ Sanahuja trở nên quý mến Martín và một ngày, trong khi hút chung những mẩu thuốc lá, ông kể cho Fermín điều ông biết về con người mà, do những lời nói lảm nhảm của ông cộng với cái danh hiệu cư dân mất trí của nhà tù, một số người đã đùa cợt gọi ông là “Tù nhân của thiên đường”.

6

“Thật ra mà nói, tôi cho rằng lúc người ta mang David Martín đến đây ông ấy đã bị bệnh một thời gian rồi. Anh đã bao giờ nghe nói đến chứng tâm thần phân liệt chưa, Fermín? Đó là một trong những cụm từ mới yêu thích của giám thị.”

“Đó là điều mà dân thường chúng ta hay gọi là ‘chập mạch’.”

“Không phải chuyện đùa đâu, Fermín. Đó là một bệnh rất nghiêm trọng. Dù không phải chuyên môn của tôi, nhưng tôi đã chứng kiến một vài ca và các bệnh nhân thường nghe thấy những giọng nói, hay họ nhìn thấy và nhớ đến những người và sự kiện chưa bao giờ xuất hiện... Tâm trí tệ dần và bệnh nhân không thể nào phân biệt được thực tại và hư ảo.”

“Cũng như bảy mươi phần trăm dân Tây Ban Nha thôi... Và ông nghĩ Martín tội nghiệp mắc bệnh đó ư, bác sĩ?”

“Tôi không chắc. Như tôi nói đấy, tôi không phải chuyên gia trong chuyện này, nhưng tôi cho rằng ông ấy có những triệu chứng thường gặp nhất.”

“Có lẽ trong hoàn cảnh này bệnh tình của ông ấy là một ân phước...”

“Đó không bao giờ là ân phước cả, Fermín.”

“Và ông ấy có biết rằng mình, kiểu như là, bị bệnh không?”

“Người điên luôn nghĩ rằng chỉ kẻ khác mới điên.”

“Đó là điều tôi ám chỉ khi nói về bảy mươi phần trăm dân Tây Ban Nha...”

Một tên lính gác đang quan sát họ từ trên đỉnh tháp canh, như thể hắn đang cố đọc khẩu hình của họ.

“Nói nhỏ thôi, không chúng ta sẽ gặp rắc rối đấy.”

Vị bác sĩ ra hiệu cho Fermín quay lưng lại và bước đến đằng kia sân.

“Trong thời buổi như thế này, đến cả bức tường cũng mọc tai đấy,” bác sĩ nói.

“Chỉ cần mấy bức tường kia mọc thêm được nửa bộ não giữa hai tai là chúng ta có thể thoát ra khỏi đống rắc rối này,” Fermín trả lời.

“Anh có biết Martín nói gì với tôi vào lần đầu tiên giám thị bảo tôi khám cho ông ấy không?”

“‘Bác sĩ, tôi nghĩ tôi đã tìm ra cách duy nhất để thoát khỏi nhà tù này rồi.’

‘Cách nào?’

‘Chết.’

‘Ông không nghĩ được cách nào thực tế hơn à?’

‘Đã bao giờ ông đọc Bá tước Monte Cristo chưa, bác sĩ?’

‘Khi còn bé. Tôi gần như chẳng nhờ gì cả.’

‘Ồ, vậy đọc lại đi. Trong đó cả đấy.’ “

“Tôi không muốn nói với ông ấy là giám thị đã ra lệnh bỏ tất cả những sách của Dumas khỏi thư viện của nhà tù, cùng với bất cứ cuốn nào của Dickens, Galdós và nhiều tác giả khác mà hắn cho là rác rưởi vì là thứ tiêu khiển cho đám đông thiếu văn hóa. Hắn ta thay thế chúng bằng tuyển tập những tiểu thuyết và truyện ngắn chưa được xuất bản của hắn, cùng những cuốn sách của bạn bè hắn, được bọc da bởi Valentí, một tù nhân được đào tạo về nghệ thuật tạo hình. Ngay khi Valentí làm xong việc, giám thị để cho ông ta chết vì nhiễm lạnh, bắt ông ta năm đêm ở ngoài sân, dưới mưa, vào giữa tháng Giêng, chỉ vì ông ta cợt nhạo sự tinh tế trong những áng văn của hắn. Valentí đã rời khỏi chốn này bằng phương pháp của Martín: chết.

“Sau khi đã ở đây một thời gian, được nghe những cuộc trao đổi giữa các cai ngục, tôi nhận ra rằng David Martín đã được đưa vào nhà tù này theo yêu cầu của chính giám thị. Ông ấy từng bị giam ở nhà tù Modelo, bị cáo buộc một loạt tội mà tôi không nghĩ có người thực sự tin là ông ấy mắc vào. Ngoài những tội danh khác, người ta bảo ông ấy đã giết thầy và bạn thân của mình trong một cơn ghen - một người giàu có tên Pedro Vidal, cũng là nhà văn như ông ấy - và giết cả vợ Vidal, bà Cristina. Người ta cũng bảo ông ấy đã lạnh lùng giết chết một số cảnh sát và một người nào đó, tôi không thể nhớ là ai. Thời này người ta cáo buộc người khác đủ thứ tội, ta không thể biết được. Tôi thấy khó mà tin rằng Martín là kẻ giết người, nhưng quả là trong những năm chiến tranh tôi đã thấy nhiều người ở các phe phái cởi bỏ mặt nạ cho thấy con người thật của họ, rằng bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Ai cũng ném đá và chỉ tay sang hàng xóm.”

“Nếu phải nêu ý kiến thì...” Fermín nhận xét.

“Kỳ thực cha của nhân vật Vidal này là một nhà công nghiệp quyền lực, giàu nứt vách. Họ bảo ông ta là một trong những tay trùm ngân hàng đứng về phe chủ nghĩa dân tộc. Tại sao trong mọi cuộc chiến tranh, bọn nhà băng đều là kẻ thắng cuộc? Dù sao, tay trùm tư bản Vidal đã đích thân yêu cầu Bộ Tư pháp tìm Martín và bảo đảm ông ấy sẽ chết rũ trong tù vì điều ông đã gây ra cho con trai và con dâu lão. Dường như, Martín đã trốn ra nước ngoài gần được ba năm thì người ta phát hiện ra ông ấy ở gần biên giới. Hẳn ông ấy bị điên thì mới quay về Tây Ban Nha nơi người ta đang chờ để đóng đinh ông ấy - ít nhất, đó là điều tôi nghĩ. Và còn tệ hơn nữa, chuyện này xảy ra vào những ngày cuối của cuộc chiến, khi hàng ngàn người tràn qua biên giới theo chiều ngược lại.”

“Đôi khi chỉ là người ta mệt mỏi vì phải chạy trốn,” Fermín nói. “Khi ta không biết phải đi đâu thì thế giới này nhỏ bé lắm.”

“Tôi cho rằng hẳn Martín cũng đã nghĩ vậy. Tôi không biết làm sao ông ấy qua được biên giới, nhưng dân địa phương ở Puigcerdà đã báo cho hiến binh sau khi họ thấy ông ấy lang thang nhiều ngày ở thành phố này, ăn mặc rách rưới và nói lảm nhảm một mình. Rồi một số mục sư bảo họ nhìn thấy ông ấy trên đường phố Bolvir, cách Puigcerdà mấy cây số, gần một ngôi nhà cổ lớn tên là La Torre del Remei, trong thời chiến nó được dùng làm quân y viện cho thương binh. Nơi này được một nhóm phụ nữ quản lý, có lẽ họ cảm thấy Martín đáng thương và nghĩ ông là một người lính nên đã cho ông chỗ ở và thức ăn. Khi quân hiến binh đến đó, ông ấy đã rời đi rồi, nhưng đêm hôm ấy họ bắt được ông ở trên mặt hồ đóng băng, đang dùng một hòn đá đào lỗ trên băng. Lúc đầu họ nghĩ ông ấy định tự tử, nên họ mang ông ấy đến Villa San Antonio, một trại điều dưỡng. Hình như một bác sĩ ở đó nhận ra ông ấy - đừng hỏi tôi tại sao - và ngay khi tin tức về ông được truyền về tổng hành dinh, ông được chuyển đến Barcelona.”

“Hang hùm.”

“Anh có thể nói vậy. Dường như phiên tòa kéo dài chưa đến hai ngày. Danh mục những cáo buộc dành cho ông ấy dài vô tận và dù gần như chẳng có bất kỳ chứng cứ hay chứng lý nào làm cơ sở, công tố viên vẫn moi ra được một đám nhân chứng. Hàng tá người xếp hàng vào tòa, bày tỏ một lòng thù ghét ngút ngàn mà đến cả thẩm phán cũng phải ngạc nhiên - chắc chắn tất cả bọn họ đã được lão già Vidal gí tiền. Trong số đó có cả đồng nghiệp cũ của Martín hồi những năm ông ấy còn làm cho một tờ báo nhỏ tên là Tiếng nói Công nghiệp. Những trí thức phòng trà, những linh hồn tội nghiệp và các hạng ghen ăn tức ở đủ các thể loại bất ngờ xuất hiện rồi thề thốt rằng Martín phạm đủ thứ tội mà ông ấy bị cáo buộc, và còn hơn thế nữa. Anh biết ở đây mọi thứ vận hành thế nào mà. Theo lệnh của quan tòa, và khuyến nghị của lão Vidal, tất cả tác phẩm của ông ấy bị tịch thu rồi đem đốt, vì bị coi là tài liệu mưu phản, vô luân lý và trái ngược với những ứng xử cao đẹp. Khi Martín tuyên bố tại phiên tòa rằng ứng xử cao quý duy nhất mà ông ấy bào chữa cho đó là việc đọc, và bất cứ việc gì khác đều là việc của người đọc, quan tòa cho ông thêm mười năm nữa vào án phạt. Có vẻ như thay vì giữ mồm giữ miệng tại phiên tòa Martín lại trả lời tất cả những gì bị hỏi mà không vòng vo câu chữ, để rồi tự đào mồ chôn mình.”

“Trong thế giới chúng ta đang sống điều gì cũng có thể tha thứ, ngoại trừ việc nói ra sự thật.”

“Thực ra, ông ấy bị kết án chung thân. Tờ Tiếng nói Công nghiệp, thuộc sở hữu của lão Vidal, đã cho đăng một bài dài liệt kê mọi tội trạng của ông ấy, không những thế, còn có cả một bài xã luận. Đoán xem là của ai ký.”

“Giám thị lừng lẫy của chúng ta, ngài Mauricio Valls.”

“Đúng hắn đấy. Hắn mô tả ông ấy là ‘nhà văn tồi nhất trong lịch sử’ và lấy làm vui vì sách của ông ấy đã bị phá hủy bởi chúng là ‘sự sỉ nhục với nhân loại và gu thưởng thức tử tế’.”

“Đó chính là điều người ta nói về nhà hát Palau de la Música,” Fermín chỉ ra. “Chúng ta thật may khi sống ở một đất nước được hưởng cái tinh túy nhất của cộng đồng trí thức quốc tế. Unamuno đã đúng khi nói rằng: sáng tạo là việc của người khác, chúng ta sẽ chỉ đưa ra ý kiến.”

“Dù vô tội hay không, sau khi chứng kiến người ta hạ nhục mình công khai và từng trang sách mình viết ra bị đốt trụi, Martín rốt cuộc đã vào nhà tù Modelo, ông ấy hẳn đã chết chỉ trong vòng mấy tuần ở đây nếu không phải giám thị của chúng ta, kẻ đã đeo đuổi vụ án này với một niềm vui thú bao la và vì một lý do kỳ lạ nào đó đã bị ám ảnh về Martín, tiếp cận được hồ sơ của ông ấy rồi đề nghị chuyển ông ấy đến nơi này. Martín bảo tôi rằng ngày ông ấy đến đây, Valls đã đưa ông ấy vào văn phòng rồi sa sả rao giảng một trong những bài diễn thuyết của hắn.

“‘Martín, ông là một tội đồ bị kết án và có lẽ cũng là một tên mưu phản hoang tưởng, song có gì đó ràng buộc hai ta. Chúng ta đều là người của chữ nghĩa và dù ông dành cả sự nghiệp thất bại của mình viết ra những thứ rác rưởi cho đám đông ngu muội, một lũ người thiếu sự dẫn dắt trí tuệ, thì tôi nghĩ rằng ông có thể giúp tôi và qua đó chuộc lại lỗi lầm. Tôi có một tuyển tập tiểu thuyết và thơ sáng tác mấy năm qua. Đó là một thứ văn chương có chuẩn chất lượng cao phi thường. Cao đến mức tôi rất mực lo sợ rằng ở đất nước thất học này chưa đầy ba trăm độc giả có thể hiểu được và trân trọng giá trị của chúng. Thế nên tôi mới nghĩ rằng có lẽ, bởi cách ông đã bán rẻ trang viết của ông, và sự tiệm cận của ông với giới dân đen, những kẻ chỉ đọc các loại thứ phẩm khi ngồi xe điện, ông có thể giúp tôi tạo ra vài thay đổi nho nhỏ kéo tác phẩm của tôi lại gần hơn với trình độ thảm hại của độc giả Tây Ban Nha. Nếu ông đồng ý hợp tác, tôi có thể đảm bảo với ông rằng tôi sẽ làm cho sự tồn tại của ông dễ chịu hơn nhiều. Tôi thậm chí có thể lật lại vụ án của ông. Cô bạn nhỏ của ông... Tên cô ta là gì nhỉ? À, đúng rồi, Isabella. Một người đẹp, nếu ông cho phép tôi nhận xét. Dù sao, bạn gái ông đã đến gặp tôi, bảo rằng cô ta đã thuê một luật sư trẻ, một gã tên Brians, và đã huy động đủ tiền để biện hộ cho ông. Hãy thôi hoang tưởng đi: cả hai chúng ta đều biết rằng vụ án của ông không có đủ căn cứ gỡ tội và ông bị kết tội do những nhân chứng đáng ngờ. Ông dường như đã gây thù oán một cách dễ dãi đến khó tin, dù là với cả nhưng người mà tôi chắc ông không biết đến sự tồn tại. Đừng có mắc sai lầm là biến tôi thành một kẻ thù nữa, Martín. Tôi không phải một trong số những kẻ đáng thương kia đâu. Ở đây, giữa bốn bức tường này, nói trắng ra, tôi là Chúa.”

“Tôi chẳng biết Martín có chấp nhận đề nghị của tay giám thị không, nhưng tôi có cảm giác là có, bởi ông ấy vẫn sống và rõ ràng vị Chúa cá thể của chúng ta vẫn thích duy trì sự việc như vậy, ít nhất là cho đến lúc này. Hắn ta thậm chí còn cho Martín cả giấy bút đem vào phòng giam, tôi nghĩ là để ông ấy có thể viết lại những tác phẩm vĩ đại của giám thị và giúp hắn đi vào Ngôi Đền Danh Vọng, đạt được cái vinh quang văn chương mà hắn thèm khát. Cá nhân tôi không biết phải nghĩ ra sao. Ấn tượng của tôi là Martín tội nghiệp không ở tình trạng phù hợp cho việc viết, ngay cả là tên mình. Dường như phần lớn thời gian ông ấy mắc kẹt trong nhà tù mà ông ấy dựng lên trong tâm trí, nơi sự ăn năn và đau đớn đang giết dần giết mòn ông ấy. Dù chuyên môn của tôi là nội khoa, và tôi không đủ tư cách để đưa ra lời chẩn đoán...”

7

Câu chuyện của vị bác sĩ tốt bụng đã khơi dậy mối quan tâm của Fermín. Trung thành với nguyên tắc giúp đỡ vô điều kiện những ai mất hết hy vọng, anh quyết định tiến hành một cuộc điều tra nhỏ, những mong khám phá thêm vẻ Martín và, cùng lúc đó, hoàn thiện ý tưởng tẩu thoát thông qua cái chết, theo phong cách của ngài Alexandre Dumas. Càng lật lại vấn đề trong đầu, anh càng thấy rằng, ít nhất trong trường hợp cụ thể này, Tù nhân của thiên đường không điên như người ta hay nghĩ. Mỗi khi họ được phép ra sân, Fermín sẽ tìm đủ mọi cớ để lại gần Martín và trò chuyện với ông.

“Fermín này, anh và tôi bắt đầu giống một cặp đôi đấy. Hễ tôi quay lại là thấy anh ở đó.”

“Xin lỗi, thưa ông Martín, chỉ là tôi quan tâm đến một vài chuyện.”

“Chuyện gì vậy, chính xác là, chuyện gì làm anh quan tâm vậy, xin anh cho biết?”

“Ồ, nói toạc ra nhé, dù nghĩ kiểu gì thì tôi cũng không thể hiểu nổi sao một người nhã nhặn như ông lại bằng lòng giúp đỡ tên giám thị bị thịt gian xảo tự phụ kia, trong nỗ lực tham lam muốn biến thành chúa tể văn chương của hắn.”

“Thẳng thắn nhỉ? Dường như ở đây chẳng có bí mật nào cả.”

“Chỉ là tôi có biệt tài bẩm sinh dò tìm và theo đuổi những cuộc điều tra vì mục đích tốt đẹp.”

“Trong trường hợp đó anh hẳn cũng đã phỏng đoán được rằng tôi không phải người cao quý, mà là một tội phạm.”

“Đó dường như là nhận định của quan tòa.”

“Được chống lưng bởi một đoàn quân đã tuyên thệ làm chứng.”

“Ngẫu nhiên thay, tất cả được trả công bởi một tên đốn mạt bị táo bón kinh niên vì lòng đố kỵ và mánh khóe vụn vặt, nếu tôi có thể nói vậy.”

“Anh có thể, nhưng khó mà thay đổi được điều gì. Nói xem, Fermín, có điều gì về tôi mà anh chưa biết?”

“Cả đống ấy chứ. Nhưng có một chuyện thật sự khiến tôi ngứa ngáy ấy là tại sao ông lại làm ăn với kẻ đần độn ích kỷ kia. Hạng như hắn là bệnh thối hoại của đất nước này.”

“Người như hắn thì có ở khắp nơi, Fermín.”

“Nhưng chỉ ở đây chúng ta mới không coi chúng như không tồn tại.”

“Có lẽ, nhưng đừng có phán xét hắn vội vàng thế. Trong toàn bộ tấn kịch này, viên giám thị là một nhân vật phức tạp hơn rất nhiều so với vẻ bề ngoài. Kẻ đần độn ích kỷ này, như anh rộng lượng gọi hắn, trước hết là một người rất có quyền lực.”

“Chúa trời, hắn đã tự nhận như vậy.”

“Trong cái chốn luyện ngục này, nhận xét đó cũng chẳng sai mấy đâu.”

Fermín chun mũi lại. Anh ta không thích điều đang nghe thấy. Nghe như thể Martín đang nhấm nháp cơn suy sụp của mình.

“Hắn ta đe dọa ông à? Phải vậy không? Hắn có thể làm gì khác với ông được đây?”

“Với tôi ư? Chẳng gì cả, ngoại trừ làm tôi buồn cười. Nhưng với người khác, ngoài nơi này, hắn có thể gây hại cho họ.”

Fermín yên lặng một hồi lâu.

“Xin ông tha lỗi cho tôi, Martín. Tôi không có ý xúc phạm ông. Tôi đã không nghĩ được như vậy.”

“Anh không xúc phạm tôi đâu, Fermín. Ngược lại là khác. Tôi nghĩ anh có một cách nhìn quá rộng lượng về hoàn cảnh của tôi. Sự tin tưởng của anh nói nhiều điều về bản thân anh hơn là về tôi.”

“Có phải là vì cô gái ấy không? Isabella.”

“Một quý bà.”

“Tôi k