← Quay lại trang sách

Chương II.

Một ngày nào đó, tôi sẽ kể câu chuyện đời tôi, bao gồm cả những khía cạnh đáng thương [1] lẫn (những khía cạnh) bổ ích [2] của 10 năm đó, trong thời tuổi trẻ của tôi. Tôi nghĩ rằng nhiều người, rất nhiều người, đã có những kinh nghiệm tương tự. Với tất cả tâm hồn, tôi khát khao muốn được thiện lành; nhưng mà tôi thì còn trẻ, tôi có những đam mê, và tôi cô độc, hoàn toàn cô độc, bất cứ khi nào tôi tìm kiếm cái gì (là) tốt lành. Cứ mỗi lần tôi cố biểu lộ những mong ước chân thành tâm huyết nhất của tôi – mong ước trở nên tốt lành về mặt đạo đức – thì tôi gặp phải sự khinh miệt, sự chế giễu; và ngay khi tôi buông mình vào những đam mê thấp hèn, tôi được ngợi khen và cổ vũ. Tham vọng, lòng yêu quyền lực, quyền lợi cá nhân, sự dâm đãng, tính kiêu ngạo, sự giận dữ, sự trả thù – tất cả mọi thứ này thì rất được nể trọng. [3]

Khi tôi tự nộp mình cho những đam mê này, tôi trở nên giống như những bậc đàn anh của tôi, và tôi cảm thấy rằng họ hài lòng với tôi.

Một bà cô tốt bụng của tôi, mà với bà tôi đã sống – một trong những phụ nữ xinh đẹp nhất – thì luôn bảo tôi rằng cái mong muốn tha thiết nhất của bà, là tôi có một cuộc tình với một người phụ nữ đã có chồng. [4] “Rien ne forme un jeune homme comme une liaison avec une femme comme il faut. [5] Một niềm hạnh phúc khác mà bà mong ước cho tôi, là tôi trở nên một quan phụ tá, cho hoàng đế càng tốt. Và niềm hạnh phúc lớn nhất cho tôi, sẽ là cưới một tiểu thư con nhà giàu (mà) có thể đem lại cho tôi càng nhiều nông nô càng tốt.

Tôi không thể nào hồi tưởng lại những năm tháng này mà không có niềm kinh hãi, sự ghê tởm, và nỗi đau xé lòng. Tôi giết người trong chiến tranh, thách đấu súng với mục đích giết chết đối thủ, và thua bạc; tôi đã phung phí những thành quả lao động của những nông dân và rồi ngược đãi họ; tôi đã từng là một kẻ thông dâm và một kẻ lừa đảo. Nói dối, trộm cắp, bừa bãi và lang chạ đủ kiểu, rượu chè, bạo động, sát nhân – không có tội ác nào mà tôi đã không phạm phải; [6] mặc dù thế, tôi được ca ngợi, và những đồng nghiệp của tôi đã và vẫn đang thực sự xem tôi là một người tương đối có đạo đức. [7] Tôi đã sống 10 năm như thế.

Trong thời gian này, tôi bắt đầu viết vì hư danh, quyền lợi riêng tư và lòng kiêu mạn. [8] Trong tác phẩm, tôi làm cái mà tôi đã làm trong cuộc sống của mình. Để đạt được danh vọng và tiền bạc – là mục đích của tôi khi tôi viết – thì cần thiết phải giấu đi cái tốt và phô trương cái xấu; và tôi đã làm như vậy. Lần này sang lần nọ, trong những tác phẩm của mình, tôi thường âm mưu che giấu những khát vọng về một cái gì đó mà sẽ mang lại ý nghĩa cho đời tôi – che giấu chúng dưới cái mặt nạ của sự thờ ơ hay thậm chí sự đùa cợt nữa. Và tôi thành công trong việc này và được khen ngợi.

Vào tuổi 26, khi chiến tranh [9] đã chấm dứt, tôi đến St Peterburg và dần quen biết những nhà văn tại đó. Họ chấp nhận tôi như là một thành viên thuộc phe nhóm của họ, chồng chất lên tôi sự vuốt ve tâng bốc. Trước khi tôi kịp ngoái cổ nhìn ra đằng sau, thì những quan điểm của họ về cuộc sống – riêng cho phe nhóm của họ – đã trở thành những quan điểm của chính tôi, và chẳng bao lâu sau, tất cả những nỗ lực trước đây của tôi – nỗ lực muốn trở nên tốt hơn – đã hoàn toàn chấm dứt. Không có kỷ luật nào kiềm chế nữa, tôi để cho những quan điểm này biện minh cho đời mình.

Cái lý thuyết được áp dụng bởi những người này, những văn hữu của tôi, là: cuộc sống diễn tiến theo một sự phát triển chung, và những nhà tư tưởng đóng vai trò hàng đầu trong sự phát triển ấy; và rồi, chúng tôi (phe nhóm chúng tôi), những nghệ sĩ và những nhà thơ, lại có ảnh hưởng lớn nhất trên những nhà tư tưởng. Sứ mệnh của chúng tôi là giáo dục những con người. Để tránh câu hỏi hiển nhiên: “Tôi biết những gì và tôi có thể dạy những gì?”, lý thuyết đó giải thích rằng không cần biết cái gì cả, và nhà nghệ sĩ và nhà thơ dạy một cách vô thức. [10] Bởi vì tôi được xem là một nghệ sĩ và một nhà thơ đáng kể, đương nhiên là tôi tán thành cái lý thuyết này. Với tư cách là một nghệ sĩ và nhà thơ, tôi viết và dạy mà chính tôi không biết tôi đang dạy cái gì. Làm việc này, tôi thu nhận tiền bạc; tôi tận hưởng đàn bà, nhà trọ [11], sự giao du với tầng lớp thượng lưu – tất cả đều tuyệt diệu; tôi nổi danh. Do vậy, bất cứ cái gì mà tôi đang dạy thuở ấy phải là rất tốt. Niềm tin vào kiến thức, thi ca, và sự tiến hóa của sự sống quả thật là một đức tin, và tôi là một trong những giáo sĩ của nó. Là một trong những giáo sĩ của nó – đây là một điều rất có lợi lộc và rất thú vị. Tôi sống một thời gian khá dài trong đức tin này, mà không hề nghi ngờ cái chân lý của nó. Nhưng vào năm thứ hai và nhất là năm thứ ba của một cuộc sống như thế, tôi bắt đầu nghi ngờ sự không-thể-sai-lầm [12] của đức tin này và bắt đầu xem xét nó một cách sát sao hơn. Điều đầu tiên dẫn tôi đến sự nghi ngờ là: tôi bắt đầu nhận thấy rằng chính những “giáo sĩ” rao giảng đức tin này (this faith) cũng không đồng ý với nhau. Vài người thường nói, “Trong số những vị thầy, chúng tôi là những vị thầy giỏi nhất và hữu ích nhất, bởi vì chúng tôi dạy những cái cần thiết, trong khi những vị thầy khác đều sai lầm.” Những người khác sẽ nói, “Không, chúng tôi là những người thầy đích thực. Chính các ông mới là sai lầm.”

Họ tranh luận, cãi vả, lăng mạ, dối gạt, và lừa đảo lẫn nhau. Thêm vào đó, trong số chúng tôi, có nhiều người thậm chí không quan tâm đến việc ai sai và ai đúng; họ chỉ đơn giản theo đuổi những cùng đích ích kỷ của họ và có sự hỗ trợ từ hoạt động của chúng tôi. Tất cả những sự kiện này buộc tôi phải nghi ngờ cái chân lý của đức tin của chúng tôi.

Hơn nữa, một khi tôi đã đi tới chỗ nghi ngờ cái đức tin của những nhà văn này, tôi bắt đầu quan sát những “giáo sĩ” của nó một cách kỹ càng hơn, và trở nên xác tín rằng, gần như tất cả những giáo sĩ của đức tin này (this faith) là những kẻ vô đạo đức, [13] và trong phần lớn trường hợp, họ thiếu nhân cách, đê tiện và không xứng đáng.

Nhiều người trong số họ thì còn thấp kém hơn những người mà tôi đã gặp trước đây trong cuộc đời quân ngũ phóng đãng của tôi, nhưng họ hài lòng và tự mãn đến cái mức độ mà người ta chỉ có thể tìm thấy hoặc là ở những vị thánh toàn thiện, hoặc là nơi những kẻ không biết sự thiêng liêng linh thánh là cái gì. Mọi người trở nên đáng tởm [14]

trong mắt tôi, và tôi trở đáng tởm trong mắt chính mình. Và tôi nhận thức rằng cái đức tin này là một ảo tưởng lừa dối [15] Và điều lạ, là cho dù tôi nhanh chóng nhận ra sự dối trá hoàn toàn của niềm tin này và từ bỏ nó, tôi vẫn không từ bỏ cái địa vị được ban tặng cho tôi bởi những người này, cái địa vị của một nghệ sĩ, một nhà thơ, và một vị thầy. Tôi ngây thơ tưởng tượng rằng tôi là một nhà thơ và một nghệ sĩ, và tôi có thể dạy mọi con người mà chính tôi không biết tôi đang dạy cái gì. Và do vậy, tôi cứ tiếp tục.

Hậu quả của việc liên hệ với những người này, là tôi mắc phải một tật xấu mới: tôi phát triển một niềm tự hào bệnh hoạn và cái xác tín điên rồ rằng, sứ mệnh của tôi là dạy mọi người mà không cần biết tôi đang dạy họ cái gì.

Bây giờ khi nhìn lại giai đoạn đó và hồi tưởng lại cái tâm trạng của tôi và tâm trạng của những người này (một tâm trạng, nhân thể nói luôn, vẫn còn tồn tại giữa hằng ngàn người), tôi thấy mọi thứ đó có vẻ thật là đáng thương, khủng khiếp và lố bịch; nó gợi lên những cảm nhận tương tự như những cảm nhận mà người ta có thể trải nghiệm trong một nhà thương điên .

Vào thời đó, tất cả chúng tôi đều xác tín rằng chúng tôi phải nói, viết, và xuất bản càng nhanh chóng càng tốt, càng nhiều càng tốt, và rằng, điều ấy (thì) cần thiết cho sự tốt lành của nhân loại. Hằng ngàn người trong chúng tôi xuất bản sách và viết với một nỗ lực để dạy những người khác, trong khi đó, lại bài bác và xỉ vả lẫn nhau. Không để tâm đến cái sự kiện rằng chúng tôi chẳng biết gì cả, rằng chúng tôi không biết câu trả lời cho câu hỏi đơn giản nhất của cuộc đời, câu hỏi về cái gì là đúng và cái gì là sai, tất cả chúng tôi tiếp tục nói mà không còn lắng nghe nhau nữa. Thỉnh thoảng chúng tôi chiều chuộng và ca tụng lẫn nhau với điều kiện là chúng tôi được chiều chuộng và được ca tụng trở lại; vào những lúc khác, chúng tôi thường chọc tức và quát tháo lẫn nhau y hệt như trong một nhà thương điên.

Hằng ngàn công nhân lao động vất vả ngày đêm, bằng tất cả sức lực của họ, thu thập và in ấn hằng triệu chữ để phát hành qua bưu điện đi khắp nước Nga. Chúng tôi tiếp tục dạy, dạy, và dạy thêm mãi, và dạy tất cả mọi thứ đó, mà chưa từng có cách nào để dạy; và rồi chúng tôi thường nổi giận bởi vì người ta ít chú tâm đến chúng tôi.

Quả thật kỳ lạ, nhưng bây giờ tôi hiểu điều đó. Lý do đích thực đằng sau cái mà chúng tôi đang làm là: chúng tôi muốn kiếm được càng nhiều tiền bạc và lời khen càng tốt. Viết sách và làm báo là cái duy nhất mà chúng tôi biết cách làm để đạt tới mục đích này. Và do vậy, đó là cái mà chúng tôi đã làm. Nhưng mà để dấn mình vào một cái gì quá vô ích như thế và đồng thời duy trì được cái xác tín rằng chúng tôi là những người quan trọng, chúng tôi cần một “cơ sở hợp lý” [16] để biện minh cho cái mà chúng tôi đang làm. Và do vậy, chúng tôi dựa vào cái cơ sở sau đây: tất cả những gì tồn tại thì đều phù hợp với lý tính [17] . Hơn nữa, tất cả những gì tồn tại thì đang tiến hóa. Và nó đang tiến hóa qua phương tiện của một sự “giác ngộ.” [18] Sự giác ngộ, đến lượt nó, trải qua sự thay đổi nhờ việc lưu hành những cuốn sách và tạp chí định kỳ. Chúng tôi được trả tiền và được kính nể do việc viết sách và báo, và bởi thế, chúng tôi là những con người hữu ích và ưu tú nhất. Cái lý luận này chắc đã có hiệu quả rất tốt, nếu tất cả chúng tôi đều đồng ý với nhau; nhưng thực trạng lại như vầy: cứ một người phát biểu một quan niệm nào đó, lại có một người khác, phát biểu một quan niệm đối nghịch hoàn toàn với nó – sự kiện này lẽ ra phải dẫn chúng tôi đến chỗ xem xét lại vấn đề.

Nhưng chúng tôi đã không bao giờ nhận ra điều ấy. Chúng tôi nhận tiền, và những người thuộc tầng lớp chúng tôi ca ngợi chúng tôi; như thế, mỗi một người trong chúng tôi đều tin rằng chính mình đúng.

Bây giờ thì tôi thấy rõ rằng không có sự khác biệt nào giữa chúng tôi và những người điên đang sống trong một nhà thương điên; vào thời ấy, tôi chỉ mơ hồ thoáng thấy điều này; và, giống như tất cả mọi người điên, tôi nghĩ rằng trừ tôi ra, tất cả mọi người khác đều điên cả.

[1] Pathetic.

[2] Instructive.

[3] Điều này cho thấy cái xã hội mà trong đó Tolstoy đang sống, nó sa đọa như thế nào! ( ĐTN).

[4] “… Her fondest desire was for me to have an affair with a married woman.” Tôi dịch sát nguyên văn. Chưa hiểu rõ ý của tác giả. ( ĐTN).

[5] Tiếng Pháp trong nguyên tác tiếng Nga. Tạm dịch: “ Không có gì hình thành một chàng trai trẻ cho bằng một cuộc dan díu với một người phụ nữ lịch thiệp.”

[6] Dám phô bày hết những cái xấu xa của mình, Tolstoy thật trung thực và dũng cảm. J. J. Rousseau cũng viết một cuốn “Tự Thú”, nhưng còn có ý muốn tự biện minh cho mình; nếu so sánh, thì Rousseau không trung thực và chân thành bằng Tolstoy. ( ĐTN).

[7] Quả thực, Tolstoy là một người hết sức trung thực. Nhưng cũng thật mỉa mai, mặc dù ông phạm phải nhiều “ tội ác” như thế, mà vẫn được xã hội thời đó xem như là người “ tương đối có đạo đức”! (ĐTN).

[8] Thời nào cũng có những “ nhà văn” viết vì hư danh, quyền lợi riêng tư và lòng kiêu mạn, nhưng đã mấy ai dám công khai “ tự thú” như Tolstoy! ( ĐTN).

[9] Đây là cuộc chiến tranh Cremea ( 1853 – 1856), trong đó Anh quốc, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia hợp lực để đánh bại Nga.

[10] Thật là ngụy biện! ( ĐTN).

[11] Lodgings.

[12] Infallibility.

[13] Nhân loại vẫn luôn là nạn nhân của những “ giáo sĩ” kiểu này! ( ĐTN).

[14] Repugnant.

[15] Delusion.

[16] Rationale.

[17] Everything that exists is rational.

[18] Enlightenment.