← Quay lại trang sách

Chương III.

Tôi đã sống như thế, buông mình vào trong cái sự điên rồ này thêm 6 năm nữa, cho đến khi tôi kết hôn. [1] Trong suốt thời gian này, tôi đi ra nước ngoài. Cuộc sống của tôi tại châu Âu và sự quen biết của tôi với những người châu Âu nổi tiếng và thông thái, lại càng củng cố niềm tin của tôi vào cái khả- năng-trở- nên-hoàn-hảo nói chung, [2] bởi vì tôi cũng tìm thấy nơi họ một niềm tin tương tự.

Niềm tin của tôi thuở ấy mang một hình thức tương tự như cái hình thức mà vẫn đang thịnh hành ở những người “ có học” [3] hiện nay của thời đại chúng ta. Niềm tin này được diễn đạt bởi cái từ “tiến bộ. ”

Vào thời ấy, đối với tôi, dường như cái từ này có ý nghĩa. Giống như bất cứ cá nhân nào đang sống, tôi bị dày vò bởi câu hỏi: “Làm thế nào để sống tốt hơn?” Tôi vẫn chưa hiểu được rằng, khi trả lời rằng người ta phải sống theo sự tiến bộ, thì tôi chỉ đang nói giống hệt như một người ở trong một chiếc xuồng đang bị sóng và gió cuốn đi; đáp lại câu hỏi quan trọng duy nhất – “Chúng ta phải lái về đâu?” – một người như thế nói, “Chúng ta đang bị cuốn đi tới một nơi nào đó.”

Vào thời đó, tôi đã không nhận ra điều này. Chỉ thỉnh thoảng, những cảm xúc chứ không phải lý tính của tôi, phản kháng lại cái sự mê tín này, sự mê tín phổ biến của thời đại, mà nhờ nó người tự che giấu sự dốt nát của chính bản thân về cuộc sống – để khỏi nhìn thấy nó. Trong thời gian tôi lưu lại Paris như thế, thì cảnh tượng của một cuộc hành hình đã phát hiện cho tôi sự mỏng manh thiếu vững chắc của niềm tin mê tín của tôi vào sự tiến bộ. [4] Khi tôi thấy cái đầu bị tách lìa khỏi thân xác và nghe tiếng “bộp” của mỗi bộ phận khi nó rơi vào trong cái hộp (box), tôi đã hiểu, không phải với trí năng của tôi, mà với toàn bộ con người tôi, rằng không có lý thuyết nào về cái hữu lý [5] của sự hiện hữu hay của sự tiến bộ có thể biện minh cho một hành vi như thế; tôi nhận thức rằng, cho dù tất cả mọi người trên thế gian kể từ ngày sáng thế, xem cái việc hành hình này là cần thiết [6] theo bất cứ lý thuyết nào, thì tôi vẫn biết rằng nó không cần thiết, và nó sai trái. Bởi vậy, những phán đoán của tôi phải được đặt nền tảng trên cái gì là đúng và cần thiết, chứ không phải trên cái mà người ta nói và làm; tôi không nên phán đoán theo sự tiến bộ, mà phải phán đoán theo trái tim của riêng tôi. Cái chết của anh trai tôi là một thí dụ khác mà qua đó tôi nhận thức cái thiếu sót, bất cập của sự mê tín về sự tiến bộ trong mối quan hệ với cuộc sống. [7] Một con người nghiêm túc, thông minh, thiện lành, anh vẫn còn trẻ khi anh ngã bệnh. Anh chịu khổ sở trong hơn 1 năm và chết một cái chết đau đớn mà chưa từng hiểu tại sao anh sống và càng ít hiểu tại sao anh đang nằm hấp hối. Không có lý thuyết nào có thể cung cấp bất cứ câu trả lời nào cho những câu hỏi này, hoặc cho anh, hoặc cho tôi, trong cái chết chầm chậm và đau đớn của anh.

Nhưng đây chỉ là những thí dụ hiếm hoi của sự nghi ngờ; nhìn chung, tôi vẫn tiếp tục sống, có một niềm tin duy nhất vào sự tiến bộ.

“Mọi sự thì đang phát triển, và tôi đang phát triển; cái lý do tại sao tôi đang phát triển trong cách thức này, nó sẽ hiện ra ánh sáng, cùng với mọi thứ khác.” Vào thời đó, tôi được dẫn đến chỗ công thức hóa cái “đức tin” của tôi như vậy.

Khi tôi trở về nước, tôi định cư tại vùng quê và dồn hết tâm sức vào những trường học nông dân. Công việc này thì đặc biệt thân thiết với trái tim tôi, bởi vì nó không dính líu gì đến những lời dối trá mà đã trở thành hiển nhiên với tôi, những dối trá mà đã làm tôi khó chịu khi tôi là một vị thầy văn học. Ở đây tôi cũng đang hành động nhân danh sự tiến bộ, nhưng tôi giữ một thái độ phê phán đối với sự tiến bộ. Tôi tự nhủ thầm rằng trong nhiều hình thức của nó, sự tiến bộ đã không diễn ra như lẽ ra nó phải, và rằng ở đây, cần phải để cho một dân tộc bán khai [8], những đứa trẻ nông dân, hoàn toàn tự do để chọn con đường của tiến bộ mà họ muốn.

Về bản chất, tôi vẫn đối mặt với cùng một vấn đề không thể giải quyết: tôi làm thế nào để dạy, mà không biết tôi đang dạy cái gì.

Trong những lãnh vực cao hơn của văn học, rõ ràng là tôi không thể dạy mà không biết mình đang dạy cái gì; bởi vì tôi thấy rằng mọi người dạy một cách khác nhau, và rằng trong những luận cứ mà họ có, hầu như họ không che giấu nhau sự dốt nát của họ. Nhưng ở đây, với con cái của nông dân, tôi nghĩ tôi có thể tránh né sự khó khăn này bằng cách cho phép lũ trẻ học bất cứ cái gì mà chúng thích. Bây giờ, điều ấy dường như lố bịch đối với tôi khi tôi hồi tưởng lại, như thế nào mà tôi đã thử làm điều này điều nọ để thực hiện cái ý muốn bốc đồng này – cái ý muốn dạy dỗ của tôi – trong lúc đó tôi biết rất rõ trong sâu thẳm linh hồn tôi rằng, không có cách gì tôi có thể dạy cái cần thiết cho mọi người, bởi vì tôi không biết cái gì là cần thiết. Sau một năm bận bịu với trường học, tôi lại ra nước ngoài để tìm kiếm xem làm thế nào để dạy trong điều kiện chính tôi không biết phải dạy như thế nào.

Tôi tin rằng tôi đã tìm ra một giải pháp ở nước ngoài, và được trang bị bằng tất cả sự khôn ngoan này, tôi trở lại nước Nga vào cái năm khi mà những nông nô được giải phóng. [9] Tôi nhận chức vụ của một trọng tài và bắt đầu dạy những người mù chữ trong những trường học và những người biết chữ thông qua những tạp chí định kỳ mà tôi đã bắt đầu xuất bản. Mọi sự có vẻ tiến hành tốt, nhưng tôi cảm thấy rằng, sức khoẻ tinh thần của tôi thì không là cái mà nó phải là, và rằng tình trạng này không thể tiếp diễn lâu.

Ngay cả lúc bấy giờ, có lẽ tôi đã rơi vào nỗi tuyệt vọng mà sau này sẽ đến với tôi vào tuổi 50, nếu không nhờ một khía cạnh khác nữa của cuộc đời mà trước đây tôi chưa trải nghiệm, nó hứa hẹn sự cứu rỗi: cuộc sống hôn nhân. [10] Trong 1 năm, tôi bận bịu với việc làm trọng tài, với các trường học, và với cái tạp chí (của tôi). Nhưng chẳng bao lâu tôi mệt nhoài kiệt sức vì bị vướng kẹt vào trong toàn bộ sự việc. Cuộc đấu tranh với công việc trọng tài trở nên nặng nề với tôi; hoạt động của tôi tại các trường học thì quá rắc rối phiền nhiễu, và sự lê lết của tôi với cái tạp chí trở nên khó chịu đối với tôi, bởi vì nó muôn đời đặt trọng tâm vào cùng một chuyện – cái ước muốn dạy mọi người trong khi che giấu đi cái sự kiện rằng tôi không biết tôi đang dạy cái gì. Sau cùng, sự việc đi tới một điểm, tại đó tôi ngã bệnh, về tinh thần hơn là về thể xác; tôi từ bỏ hết mọi thứ và đi tới vùng thảo nguyên của những người Bashkirs để thở không khí trong lành; uống koumiss. [11] và sống một cuộc sống của loài thú. [12]

Sau khi trở lại, tôi lập gia đình. Hoàn cảnh mới của một gia đình hạnh phúc đưa tôi trệch hoàn toàn ra khỏi bất cứ sự tìm kiếm nào về cái ý nghĩa toàn diện của cuộc đời. Vào thời đó, toàn bộ đời tôi tập trung vào gia đình tôi, vợ tôi, con cái tôi, và như thế, vào một mối quan tâm đến việc cải thiện cách sống của chúng tôi. Việc phấn đấu cho sự hoàn hảo cá nhân, mà đã được thay thế bằng một phấn đấu cho sự hoàn hảo nói chung, một phấn đấu cho sự tiến bộ, bây giờ trở thành một phấn đấu cho cái tốt nhất cho gia đình tôi và cho tôi.

Mười lăm (15) năm nữa đã trôi đi như thế.

Mặc dù trong suốt 15 năm này, tôi đã xem việc viết lách như là một nỗ lực vặt vãnh, [13] tôi vẫn tiếp tục viết. [14] Tôi đã nếm vị ngọt cám dỗ của nghề viết văn, những cám dỗ của những phần thưởng to lớn về tiền bạc và sự hoan nghênh cho công việc vô giá trị, và tôi buông mình vào nó như là một phương tiện để cải thiện cái tình huống vật chất của tôi và như là một cách để bóp nghẹt bất cứ câu hỏi nào trong tâm hồn tôi liên quan đến ý nghĩa của đời tôi và cuộc sống nói chung.

Khi tôi viết, tôi dạy cái mà với tôi là chân lý duy nhất: rằng chúng ta phải sống cho bất cứ cái gì là tốt nhất cho chính chúng ta và gia đình chúng ta.

Và tôi đã sống như vậy. Nhưng cách đây 5 năm, một cái gì đó rất lạ kỳ đã xảy đến với tôi. Thoạt tiên, tôi bắt đầu có những khoảnh khắc bối rối ngỡ ngàng, [15] khi đời tôi đi tới một sự bế tắc, như thể là tôi không biết sống ra sao hay phải làm cái gì. tôi thường đánh mất sự nhanh trí [16] và rơi vào trong một trạng thái trầm cảm, chán chường. [17] Nhưng trạng thái này qua đi, và tôi tiếp tục sống như trước đây. Rồi những khoảnh khắc ngỡ ngàng bối rối hoang mang lại tái xuất hiện thường xuyên hơn, và chúng luôn có cùng một hình thức.

Bất cứ khi nào cuộc đời tôi đi tới chỗ bế tắc, những câu hỏi thường nổi lên: “Tại sao? Và cái gì tiếp theo?”

Ban đầu, tôi nghĩ đây là những câu hỏi không đâu, và không ăn nhập gì đến tôi. Tôi nghĩ rằng những câu trả lời cho chúng thì đã được nhiều người biết tới, và rằng, nếu tôi có bao giờ muốn giải đáp chúng, thì việc ấy cũng không quá khó đối với tôi; chỉ có điều, là bây giờ tôi chưa cần phải bận tâm tới việc đó, nhưng nếu tôi phải tự mình giải đáp những câu hỏi đó, thì tôi sẽ tìm thấy những câu trả lời. Nhưng những câu hỏi bắt đầu hiện lên mỗi lúc một thường xuyên, và những yêu sách đòi hỏi câu trả lời trở nên ngày càng khẩn cấp. Và giống như những điểm [18] được tập trung vào trong một vị trí duy nhất, những câu hỏi không có câu trả lời này cứ tụ lại cùng nhau để tạo thành một vết đen duy nhất.

Nó đã xảy ra với tôi như nó thường xảy ra với bất cứ ai mắc phải một cơn bệnh nội tâm chết người. Ban đầu, có những triệu chứng không đáng kể của một cơn bệnh, mà bệnh nhân bỏ lơ đi; rồi những triệu chứng này tái xuất hiện mỗi lúc một thường xuyên hơn, cho đến khi chúng đổ dồn vào thành một nỗi khổ không dứt. Sự khổ đau gia tăng, và trước khi bệnh nhân có thể ngoái cổ nhìn ra sau, y khám phá ra cái mà y đã biết: cái mà y đã xem chỉ là một sự se mình, khó ở – cái đó lại là cái quan trọng nhất trên thế gian đối với y; thật ra, cái đó chính là cái chết. [19]

Chính đây là cái đã xảy đến cho tôi. Tôi nhận thức rằng đây không phải là một cơn bệnh tình cờ thoáng qua, mà là một cái gì đó rất nghiêm trọng, và rằng, nếu những câu hỏi tương tự còn tiếp tục tái diễn, tôi sẽ phải trả lời chúng. Và tôi cố trả lời chúng. Những câu hỏi này có vẻ như là những câu hỏi ngờ nghệch[20], giản đơn và trẻ con.

Nhưng ngay khi tôi đặt hai bàn tay lên chúng và cố giải đáp chúng, tôi liền xác tín ngay rằng, trước tiên, chúng không phải là những câu hỏi ngờ nghệch và trẻ con, mà chúng là những câu hỏi sâu xa và cốt tủy nhất trong đời, và, thứ hai, cho dẫu tôi có suy ngẫm về chúng nhiều thế nào đi nữa, tôi cũng không có cách gì giải đáp chúng. Trước khi tôi có thể bận tâm với trang trại Samara, với sự giáo dục con trai tôi, hay với việc viết những quyển sách, tôi phải biết tại sao tôi đang làm những điều này. Chừng nào mà tôi không biết lý do tại sao, tôi không thể làm cái gì cả. Giữa cái mối quan tâm của tôi với gia đình, mà vào thời đó giữ cho tôi khá bận rộn, một câu hỏi bỗng nhiên đến trong đầu tôi: “ Rất tốt, bạn sẽ có 6.000 desiatin [21] tại tỉnh Samara, cũng như 300 con ngựa; rồi sao nữa?” Và tôi hoàn toàn bị bất ngờ và không biết phải nghĩ gì khác. Ngay khi tôi bắt đầu nghĩ về việc giáo dục các con tôi, tôi thường tự hỏi, “Tại sao?” Hay tôi thường suy tưởng: bằng cách nào mà người ta có thể đạt được sự thịnh vượng, và tôi thường bất giác tự hỏi, “ Nó có quan hệ gì đến tôi?” Hay giữa sự suy nghĩ của tôi về danh vọng mà những tác phẩm của tôi đang mang đến cho tôi, tôi thường tự hỏi, “Rất tốt, bạn sẽ nổi danh hơn cả Gogol, Pushkin, Shakespeare, Moliere, nổi danh hơn cả tất cả những nhà văn trên thế giới – vậy thì sao?”

Và tôi tuyệt đối không thể tìm thấy một câu trả lời nào.

[1] Vào ngày 23.9. 1862, lúc 34 tuổi, Tolstoy cưới Sofia Andrevna Bers, mới 18 tuổi.

[2] General perfectibility.

[3] Educated.

[4] Vào ngày 25.3. 1857, Francoise Riche bị hành quyết về tội sát nhân. Vào 6.4, Tolstoy đề cập đến cuộc hành quyết này trong nhật ký của ông: “ Anh ta hôn cuốn Phúc Âm và rồi - cái chết. Thật là một sự điên rồ!”

[5] Rationality.

[6] Necessary. Cũng có nghĩa là “ tất yếu.”

[7] Người anh trai mà Tolstoy đặc biệt yêu quý, Nikolai, chết vì bệnh lao phổi vào ngày 20.9. 1860, ở tuổi 37. Trước đó, vào 21.1. 1856, anh trai Dmitri của Tolstoy đã chết ở tuổi 28, cũng vì bệnh lao phổi. Mặc dù Dmitri được dùng làm người mẫu cho người anh trai của Levin trong Anna Karenina (1877), ở đây, chắc hẳn Tolstoy đang nói đến cái chết của Nikolai.

[8] A primitive people.

[9] Vào ngày 18.2. 1861, Nga Hoàng Alexander II ban hành chiếu chỉ bãi bỏ chế độ nông nô.

[10] Thực ra, cuộc sống hôn nhân hầu như không “ cứu rỗi” được gì cho Tolstoy, mà nó còn [ góp phần] biến đời ông thành… bi kịch! ( ĐTN).

[11] Một loại sữa bò. ( ĐTN).

[12] Animal life.

[13] Chính trong giai đoạn này, khi ông “xem việc viết văn như là một nỗ lực vặt vãnh”, mà ông đã cho ra đời tác phẩm Chiến tranh & Hoà bình ( 1869).

[14] Chiến tranh & Hòa bình luôn được xem là một kiệt tác của nền văn học thế giới. Nhưng lại được Tolstoy xem chỉ là một “ nỗ lực vặt vãnh” mà thôi! Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì trên phương diện văn học, nó là một kiệt tác.

Nhưng cái mà Tolstoy đang tìm kiếm, là “ ý nghĩa của cuộc sống” – mà văn học chỉ là một thành tố góp phần tạo nên cái “ ý nghĩa” đó. (ĐTN).

[15] Bewilderment.

[16] Presence of mind.

[17] Depression.

[18] Points.

[19] Cái chết! Đây có phải là một vấn đề “ quan trọng nhất”? Câu trả lời có thể rất khác nhau ở mỗi người. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, đa phần nhân loại xem cái chết là điều “ tự nhiên”, và họ gạt nó sang một bên, không nghĩ về nó nữa. Theo ĐTN, cái chết là một vấn đề rất lớn, bởi vì quan niệm của ta về sự chết, sẽ có ảnh hưởng vô cùng lớn trên cách sống của ta. ( ĐTN).

[20] Foolish.

[21] 1 desyatin = 2.7 mẫu Tây. Như vậy, Tolstoy có 16.200 mẫu Tây tại tỉnh Samsara.