Chương 23 Cỗ xe viên đạn
Khi khẩu Columbiad đã hoàn thiện, mối quan tâm của công chúng đổ đồn vào viên đạn; cỗ xe chở ba nhà thám hiểm dũng cảm đi vào không gian.
Bản kế hoạch mới được gửi tới hãng Breadwill & Co., tại Albany với yêu cầu thực hiện nhanh chóng. Viên đạn, nhờ thế, được đúc vào ngày mùng 2 tháng Mười một và ngay lập tức được hãng Đường sắt Phương Đông chuyển đến Đồi Đá vào ngày mùng 10 tháng đó, khi mà Michel Ardan, Barbicane và Nicholl đã không còn kiên nhẫn chờ đợi.
Lúc này, viên đạn được đổ đầy một lớp nước sâu ba foot đỡ lấy một đĩa gỗ chống thấm, đĩa này hoạt động rất dễ dàng bên trong các vách viên đạn. Phía trên là một loại bè gỗ làm chỗ ngồi cho các nhà du hành. Khối nước này được chia thành các phần nằm ngang và lực va chạm khi khởi hành sẽ phải tác động lần lượt lên chúng. Sau đó, mỗi dải nước, từ thấp nhất đến cao nhất, chảy theo ống thoát lên đỉnh viên đạn, tạo thành một dòng suối; còn đĩa gỗ, được đỡ bằng các chốt cực kỳ chắc chắn, không thể trượt xuống lớp thấp nhất trừ phi liên tiếp đập vỡ các vách ngăn khác. Chắc chắn rằng, các nhà du hành sẽ vẫn gặp phải một cú giật dữ dội sau khi nước thoát hoàn toàn, nhưng may là, cú va chạm đầu tiên đã gần như bị dòng suối hùng mạnh này triệt tiêu hết. Phần trên vách trong vỏ đạn được ốp lớp đệm dày bằng da, dán chặt lên các lò xo làm từ loại thép tốt nhất, che khuất hoàn toàn các ống thoát nước phía sau; như vậy, mọi phương án phòng ngừa có thể hình dung ra đều đã được dùng để ngăn chặn cú va chạm đầu tiên; và nếu bị nghiền nát, thì chúng chắc chắn, theo Michel Ardan, được làm từ loại nguyên vật liệu quá tệ.
Cửa vào tòa tháp kim loại tráng lệ này là một lỗ hẹp trên vách mặt nón, được một tấm nhôm đóng kín lại, tấm này được gắn từ bên trong bằng các vít chịu lực vô cùng chắc chắn. Nhờ thế, các nhà du hành có thể dễ dàng thoát khỏi nơi giam giữ ngay khi họ tới Mặt trăng.
Tầm nhìn được cung cấp qua bốn ô thấu kính dày, hai trong số đó lắp trên vách tường tròn, cái thứ ba ở dưới đáy, cái thứ tư ở trên đỉnh. Những ô kính này được bảo vệ khỏi va chạm khi khởi hành bằng các tấm xẻ rãnh chịu lực, có thể mở ra dễ dàng bằng cách tháo chốt từ bên trong. Các bể cố định được dùng để chứa nước và thực phẩm cần thiết; lửa và ánh sáng có thể tạo ra bằng khí đốt trong kho dự trữ đặc biệt dưới áp suất khí nhiều atmosphere. Họ chỉ cần mở khóa, rồi khí đốt sẽ thắp sáng và sưởi ấm cỗ xe êm ái này trong suốt sáu giờ.
Lúc này chỉ còn vấn đề về không khí, để cung cấp lượng khí hô hấp cho nhóm Barbicane, hai đồng sự và hai chú chó ngài dự tính mang theo, cần phải làm mới không khí trong viên đạn. Hiện giờ lượng khí chứa chủ yếu hai mươi mốt phần ôxy và bảy mươi chín phần nitơ. Phổi hấp thụ ôxy, khí này không thể thiếu để hỗ trợ sự sống và từ chối nitơ. Lượng khí tiêu thụ mất năm phần trăm so với ban đầu và chứa một lượng axit cacbonic gần tương đương, sinh ra do quá trình đốt cháy các phần tử trong máu. Trong một không gian kín không có trao đổi khí, như vậy, sau một khoảng thời gian nhất định, toàn bộ lượng khí ôxy trong không khí sẽ đổi thành axit cacbonic – một thứ tai hại cho sự sống. Vì thế, có hai việc cần phải thực hiện – thứ nhất, thay thế lượng ôxy bị hấp thụ; thứ hai, triệt tiêu lượng axit cacbonic vô ích; cả hai việc này đều có thể xử lý dễ dàng, bằng kali clorat và kali hiđroxit. Chất đầu là muối dưới dạng tinh thể màu trắng; khi nóng tới nhiệt độ 400° sẽ phân hủy thành kali clorua và giải phóng toàn bộ lượng ôxy trong nó. Bây giờ 28 pound kali clorat sẽ sinh ra bảy pound ôxy, hoặc, 2.400 lít ôxy – số lượng đủ dùng cho các nhà du hành trong 24 giờ.
Kali hiđroxit có sức hấp dẫn mạnh mẽ với axit cacbonic; và đủ khả năng tống khứ nó vì kali hiđroxit sẽ hấp thụ axit rồi tạo nên kali bicacbonat. Hai chất này sẽ cho phép tái tạo lượng không khí cần cho sự sống đã bị tiêu thụ.
Dù vậy, vẫn cần nói thêm rằng các thí nghiệm này từ trước đến nay đều được thực hiện trên các đối tượng nhỏ. Dù độ tin cậy của khoa học đến đâu, đến bây giờ họ vẫn chưa biết nó có kết quả thế nào đối với con người. Vinh dự chứng thực vấn đề được J. T. Maston hăng hái nhận lấy.
“Vì tôi không được đi,” chàng pháo thủ quả cảm nói, “tôi chí ít cũng phải được sống một tuần trong viên đạn.”
Thật khó để từ chối anh ấy, cho nên họ thuận theo mong muốn của anh. Một lượng kali clorat và kali hiđroxit thích hợp được đưa vào theo bố trí của anh, cùng với lương thực đủ cho tám ngày. Sau khi bắt tay với bạn bè vào lúc sáu giờ sáng ngày 12 tháng Mười một và nghiêm khắc nhắc nhở họ không được mở cửa buồng giam của mình trước sáu giờ tối ngày 20 tới, anh trượt vào trong viên đạn, cánh cửa tức thì đóng kín mít lại. Anh chàng làm gì suốt tuần đó? Họ không biết. Các vách dày cộp của viên đạn ngăn cách mọi âm thanh từ trong ra ngoài. Vào đúng sáu giờ tối ngày 20 tháng Mười một, cánh cửa mở ra. Bạn bè của J. T. Maston đã đứng đợi từ lâu trong tâm trạng vô cùng lo lắng, nhưng họ mau chóng được trấn an khi nghe được tiếng giọng vui vẻ reo “hoan hô” ầm ĩ.
Ngay sau đó, vị thư ký của Câu lạc bộ Súng xuất hiện trên đỉnh chóp nón với dáng vẻ đắc thắng. Anh béo lên!