CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CÁC TƯ TRÀO ĐỐI VỚI TUÂN HỌC
Cuối đời Chiến Quốc, cục diện chính trị của Trung Quốc đi vào cái thế chia lâu rồi thì hợp nhất.
Phản ánh xu thế đó, các trào lưu tư tưởng từ lâu chịu ảnh hưởng lẫn nhau bây giờ cũng có khuynh hướng rõ ràng là chiết trung, dung hợp. Trước đó Mặc Tử đã biến thái với Tống Kiên, Pháp gia, với Thân Bất Hại, Thận Đáo, Đạo gia, với Trang Tử, rồi Âm Dương gia, với Trâu Diễn.
Riêng Nho gia thì đến Mạnh Tử đã trải một lần biến với thuyết Tứ Đoan (bốn đầu mối Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, con người sinh ra đã sẵn có) và thuyết Vạn vật giai bị ư ngả (Muôn vật đủ cả nơi ta) của ông, đến Tuân Tử lại trải thêm một lần biến nữa với quan niệm Nhân chi tính ác (Tính người vốn ác) và Thiên nhân bất tương quan – Thiên đạo là thiên đạo, nhân đạo là nhân đạo. Hồ Thu Nguyện cho rằng Mạnh Tử cũng giảng “Phi chiến”, “Quả dục” là chịu ảnh hưởng Mặc Tử[21]. Tư Mã Thiên bảo Tuân Tử chịu ảnh hưởng vừa của Mặc gia, vừa của Đạo Đức gia[22]. Nhận xét của Sử Thiên thật đúng, quan niệm về trời của họ Tuân quả có phần nào như thoát thai từ quan niệm về trời của Lão, Trang. Như sẽ thấy ở chương 3, thái độ của họ Tuân đối với trời, tuy về chi tiết có nhiều chỗ độc sáng, chưa hề thấy nơi một triết gia tiền bối nào, nhưng về đại cương thì Tuân, tựu trung, cũng như Lão, Trang, đều là những tự nhiên luận giả: không coi trời là chủ tể tối cao, có “nhân cách” mà chỉ là sự vận hành tự nhiên, sự sự, vạn vật đều theo cái luật tắc tự nhiên, khách quan và thường hằng, đều bị chi phối bởi cái động lực tự nhiên huyền diệu mà biến hoá.
Nho gia trước Tuân, và cả sau Tuân nữa chỉ chăm lo đạo, nghĩa, chứ không “mưu lợi, kế công”. Mưu lợi, kế công, đồng hoá công, lợi với đạo, nghĩa là một trong những đặc trưng của học thuyết Mặc Tử. Tuân là Nho gia duy nhất đời Tiên Tần, đã không xem thường công, lợi và đã chú trọng đến đạo phú cường, cơ hồ cùng một chủ trương với Mặc, có khác chăng chỉ là phương pháp đưa đến phú cường: phương pháp đó nặng tích cách tiêu cực đối với Mặc, trái lại nặng tính cách tích cực với Tuân.
Tuân cũng là Nho gia duy nhất đời Tiên Tần, giống như Mặc Tử, xét giá trị hành vi theo kết quả (công lợi với Mặc, bình trị với Tuân), chứ không chỉ riêng theo động cơ.
Danh học của Trung Quốc đến Tuân Tử kể là hoàn bị. Mà thuyết Chính danh của Tuân một phần là do ảnh hưởng Danh học của Mặc gia. Khổng Tử đề xướng thuyết Chính danh với mục đích chính là “Minh quí tiện” (làm sáng tỏ sang hèn); Mặc gia nghiên cứu danh lí cốt để “Biện đồng dị” (phân biệt cái giống, cái khác). Thuyết Chính Danh của Tuân gồm cả hai thuyết Chính danh của Khổng Tử và Mặc gia và có đầy đủ cả giá trị luân lí lẫn luận lí. Phùng Hữu Lan[23] còn nhận xét rằng quan điểm tri thức luận và luân lí trong thiên Chính danh của Tuân Tử tương đồng trên căn bản với Mặc Kinh.
Thời Tuân Tử là thời phong trào du thuyết cực thịnh. Tiêm nhiễm phong khí ấy, họ Tuân cũng ưa biện bác, phê bình. Thiên Phi thập nhị Tử của ông, sau thiên Thiên hạ trong sách Trang Tử, là một áng văn phê bình triết học xưa nhất và rất có giá trị.
Xưa nay, không có một học thuyết nào được thành lập mà không ít nhiều chịu ảnh hưởng của các học thuyết đã có từ trước hoặc đang lưu hành. Học thuyết Tuân Tử không ra ngoài thông lệ đó. Có điều là họ Tuân có “vay” mà cũng có “trả”, “vay” sành mà “trả” thật sòng: ông đã lựa lấy những sở trường của người mà không quên nói thật và nói thẳng những điểm của người mà ông thấy là những đoản xứ (Phi thập nhị Tử).
Cái học của Tuân Tử, đúng như ông nói trong thiên Khuyến học, quả là “Thanh thủ chi ư lam) (màu xanh rút từ màu chàm) vậy[24].
[21] Ảnh hưởng Mặc Tử: Hồ Thu Nguyện: Cổ Đại Trung Quốc Văn hoá Dữ Trung Quốc Tri Thức Phân Tử - Á Châu xuất bản cục – Hương Cảng 1958, quyển I, trang 174.
[22] Của Đạo Đức gia: Sử Kí, Mạnh, Tuân liệt truyện: Tuân Tử “Suy Nho, Mặc, Đạo Đức chi hạnh sự, hưng phế”.
[23] Phùng Hữu Lan: Trung Quốc Triết Học Sử - Thái Bình Dương Đồ thư Công ti xuất bản – Hương Cảng, 1961 – trang 373.
[24] Màu chàm: Màu xanh rút từ màu chàm ra mà xanh hơn chàm, học thuyết của Tuân rút từ học thuyết của người trước mà hoàn bị hơn, sâu sắc hơn.
[Chữ lam 藍, Trần Văn Chánh dịch là “cây chàm” (http://tuhasontrang.vnweblogs.com/post/11077/127910); còn trong mục từ “青 Thanh” trên trang http://hanviet.org/hv_timchu.php?unichar=%E9%9D%92 thì dịch là “cỏ lam”. Có thể xem thêm bài viết trên trang http://cccmkc.edu.hk/~kei-kph/Kadoorie%20farm/The%20Chinese%20indigo.htm. (Goldfish)].