← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III QUAN NIỆM TRỜI

Trời là tự nhiên

Đạo trời là đạo trời, đạo người là đạo người

Tham tán trời đất

Không tranh chức với trời và không cần biết trời

Không sợ tai dị - Không ca tụng trời – Không oán trời

Thờ trời

Điểm dị đồng giữa Khổng, Mạnh, Lão, Trang, Mặc và Tuân Tử về quan niệm trời

TRỜI LÀ TỰ NHIÊN

Chậm nhất cũng là đến đời Hạ, Thương, Chu, người Trung Hoa vẫn còn tin rằng trời là đứng sinh thành ra vạn vật, là đứng chủ tể tối cao, có lí trí, có ý chí và tình cảm, tận thiện và toàn năng. Tuân Tử đã gạt bỏ tính ngưỡng quan truyền thống đó. Ông chấp nhận trời là gốc của sự sống, nhưng không tin trời như một tồn tại siêu hình hay một giá trị luân lí. Trời, với ông, chỉ là tự nhiên – một thế lực ngang hàng với đất và người, một sự vận hành theo những phép tắc tự nhiên, vĩnh cửu và thường hằng, bất biến. Ông nói:

“Việc trời diễn biến, có qui luật thường, không chủ ý làm cho vua Nghiêu còn, không chủ ý làm cho vua Kiệt mất” (Thiên hành hữu thường, bất vị Nghiêu tồn, bất vị Kiệt vong[25] - Thiên luận)[26].

Lại nói: “Trời chẳng vì người ghét lạnh mà bỏ mùa đông, đất chẳng vì người ghét xa mà bỏ chiều rộng (…) Trời có đạo thường, đất có số thường” (Thiên bất vị nhân chi ố hàn dã suyết đông, địa bất vị nhân chi ố liêu viễn dã suyết quảng (…) Thiên hữu thường đạo hĩ, đạo hữu thường số hĩ[27] - Thiên luận)[28].

ĐẠO TRỜI LÀ ĐẠO TRỜI, ĐẠO NGƯỜI LÀ ĐẠO NGƯỜI

Cái đạo thường của trời đất ấy không liên quan gì tới đạo của người. Nghĩa là không có lẽ “thiên nhân tương dữ” hay “thiên nhân tương thông”: “Gọi là đạo, không phải là cái đạo của trời, không phải là cái đạo của đất, mà là cái đạo do người đặt ra” (Đạo giả, phi thiên chi đạo, phi địa chi đạo, nhân chi sở dĩ đạo dã[29] - Nho hiệu). Cái đạo đó, Tuân Tử kêu là cái đạo của người quân tử, cái đạo LỰC HÀNH, lấy sức người mà chỉnh lí việc trời đất, cái đạo NHÂN VI, lấy lễ nghĩa mà giáo hoá, trị bình:

“Trời đất sinh ra người quân tử, người quân tử sửa trị (việc) trời đất (…) Không có người quân tử thì (việc) trời đất không được sửa, lễ nghĩa không có đầu mối” (Thiên địa sinh quân tử, quân tử lí thiên địa (…) Vô quân tử tắc thiên địa bất lí, lễ nghĩa vô thống[30] - Vương chế).

“Sửa trị (việc) trời đất” không có nghĩa là xen vào, tranh giành phần việc của trời đất. Phần việc của trời đất là việc sinh thành.

“Các sao đi vòng, mặt trời, mặt trăng soi sáng, bốn mùa chuyển vần, âm dương biến hoá lớn, gió mưa ban phát nhiều, vạn vật đều được cái động lực hoà hợp huyền diệu nó nuôi nấng mà trưởng thành” (Liệt tinh tuỳ toàn, nhật nguyệt đệ chiếu, tứ thời đại ngự, âm dương đại hoá, phong vũ bác thi… vạn vật các đắc kì hoà dĩ sinh, các đắc kì dưỡng dĩ thành[31] - Thiên luận). Các phần việc ấy, con người không thể tranh. Người có phần việc của người.

THAM TÁN TRỜI ĐẤT

Phần việc của người là dùng văn trị mà làm cho tốt đẹp những cái trời đất đã sinh thành.

“Trời có thời (bốn mùa) của trời, đất có sản phẩm của đất, người có căn trị của người (dùng lễ nghĩa mà giáo hoá, trị bình). Như vậy, người với trời đất là ba (người ngang với trời đất, tham tán được trời đất)” (Thiên hữu kì thời, địa hữu kì sản, nhân hữu kì trị, phù thị chi vị năng tham[32] - Thiên luận).

KHÔNG TRANH CHỨC VỚI TRỜI VÀ KHÔNG CẦN BIẾT TRỜI

Cho nên Tuân Tử bảo ta hãy nên chăm lo làm tròn cái chức vụ của mình mà đừng tranh giành chức vụ của trời.

Như vậy, “Không làm mà nên, không cầu mà được, gọi là “chức vụ” của trời, sự suy nghĩ của người có sâu, tài năng của người có lớn, sự xét đoán của người có tinh cũng không thêm được gì cho đạo trời. Cho nên đạo trời dù thâm viễn, bậc chí nhân cũng không lo nghĩ tới. Thế gọi là không tranh cái chức vụ của trời” (Bất vi nhi thành, bất cầu nhi đắc, phù thị chi vị thiên chức. Như thị giả, tuy thâm, kì nhân bất gia lự yên; tuy đại, bất gia năng yên; tuy tinh, bất gia sát yên, phù thị chi vị “bất dữ thiên tranh chức”[33] - Thiên luận[34]).

Cái chức vụ thâm áo, to lớn và tinh vi của trời (soi sáng, xoay chuyển bốn mùa, ban phát gió mưa…) ấy, ta chỉ biết cái kết quả cụ thể của nó, chứ quá trình diễn biến của nó ra sao và lí do sở dĩ nhiên của nó, thì đó là cái siêu hình ta không thể biết được:

“Ai cũng biết cái đã thành, chẳng ai biết cái vô hình” (Giai tri kì sở dĩ thành, mạc tri kì vô hình[35] - Thiên luận).

Cứ “sửa sang chính sự cho hết trị đạo, cứ theo cái thuật nuôi người cho thật thích đáng, sinh dưỡng vạn vật, chớ làm chúng tổn thương, như thế là biết trời rồi” (Kì hành khúc trị, kì dưỡng khúc thích, kì sinh bất thương, phù thị chi vị tri thiên[36] - Thiên luận). Còn cái siêu hình, cái lí do sở dĩ nhiên của các biến hoá thì không cần biết.

Ở thời đại khoa học còn chưa phát triển như thời Tuân Tử, chưa ai dám mong tìm hiểu những huyền bí của vũ trụ, cho nên thái độ khôn ngoan hơn hết, theo Tuân Tử, là chăm lo phần việc người, đừng nhọc lòng lo phần việc trời:

“Cho nên rõ được (đâu là) phần trời, (đâu là) phần người (mọi sự tại người chứ không tại trời) thì được gọi là bực chí nhân” (Cố minh thiên nhân chi phận, tắc khả vị chí nhân hĩ[37] - Thiên luận).

KHÔNG SỢ TAI DỊ - KHÔNG CA TỤNG TRỜI – KHÔNG OÁN TRỜI

Trời đã chỉ là tự nhiên, con người có thể “tham tán” được, thì đương nhiên những hiện tượng quái dị xảy ra trong khoảng trời đất không có gì là đáng sợ cả. Những cái đó không còn được coi như những điềm dữ, điềm lành. Tuân Tử nói: “Sao mà sa, cây mà kêu, đó là cái biến hoá của trời đất, âm dương, là sự ít xảy ra của vạn vật, cho là quái lạ thì nên, mà lo sợ thì không nên. Mặt trời, mặt trăng có khi “ăn” lẫn nhau, mưa gió có khi không hợp thời (trái mùa), những ngôi sao lạ có khi xuất hiện[38]., những cái đó, không thời nào không thấy. Người trên sáng suốt mà chính trị phải lẽ thì dù tất cả những cái quái lạ đều xuất hiện cũng không sao., người trên mờ ám mà chính trị hiểm ác, thì dù không có quái lạ nào xuất hiện, cũng không hay gì”. (Tinh truỵ, mộc minh, thị thiên địa chi biến, âm dương chi hoá, vật chi hãn chí giả dã, quái chi khả dã, nhi uý chi, phi dã. Phù nhật nguyệt chi hữu thực, phong vũ chi bất thời, quái tinh chi thảng (黨) hiện, thị vô thế nhi bất thường hữu chi. Thượng minh nhi chính bình, tuy tịnh thế khởi, vô thương dã thượng ám nhi chính hiểm, tắc thị tuy vô nhất chí giả, vô ích dã[39] - Thiên luận).

Dữ hay lành, trị hay loạn, tất cả tuỳ thuộc nơi ta, nơi con người, chứ không tuỳ thuộc nơi trời đất. Trời đất không có lí trí, không có ý thức “không chú ý làm cho vua Nghiêu còn…”, trời đất sinh thành vạn vật chỉ là tự nhiên. Cho nên con người chỉ trông vào sức mình để là “tự cầu đa phúc”. Thành ra không phải thuần thị nhờ trời đất, cũng càng không phải thuần thị tại trời đất. Sợ trời đất là điều không nên, ca tụng hay oán mộ trời đất cũng đều là vô ích.

“Làm cho mạnh cái gốc (tức việc canh nông), chi dùng có tiết độ, thì trời không thể làm cho nghèo đói được, lo cho đủ sự dinh dưỡng và hành động thuận trời thì trời không thể gieo bệnh tật được, sửa sang đạo mà không trái với đạo thì trời không gây hoạ cho người được. Cho nên thuỷ hạn không thể làm cho người đói khát được, lạnh nóng không thể làm cho người ốm đau được, yêu quái không thể làm hại người được.

“Trái lại, nếu cái gốc bỏ bê mà chi dùng xa xỉ thì trời không thể làm cho giàu được., sự dinh dưỡng sơ lược mà hành động ít thì trời không thể làm cho trọn vẹn (tức lành mạnh) được., trái với đạo mà làm càn thì trời cũng không thể làm cho tốt lành được. Cho nên thuỷ hạn chưa đến mà đói khát, lạnh nóng chưa gắt mà đã đau ốm, yêu quái chưa tới mà đã bị hại. Ngày tháng thì đời loạn cũng như đời trị thôi, mà tai ương (đời loạn) khác đời trị. Không nên oán trời. Lẽ tự nhiên như vậy” (Cường bản nhi tiết dụng, tắc thiên bất năng bần, dưỡng bị nhi động thời, tắc thiên bất năng bệnh., tu đạo nhi bất nhị, tắc thiên bất năng hoạ. Cố thuỷ hạn bất năng sử chi cơ khát, hàn thử bất năng sử chi bệnh, yêu quái bất năng sử chi hung.

Bản hoang nhi dụng xỉ, tắc thiên bất năng sử chi phú., dưỡng lược nhi động hãn, tắc thiên bất năng sử chi toàn., bội đạo nhi vọng hành, tắc thiên bất năng sử chi cát. Cố thuỷ hạn vị chí nhi cơ, hàn thử vị bạc nhi tật, yêu quái vi chí nhi hung. Thụ thời dữ trị thế đồng, nhi ương hoạ dữ trị thế dị. Bất khả dĩ oán thiên. Kì đạo nhiên dã[40] - Thiên luận). Và:

“Trị loạn có phải là tại trời không? Đáp: Mặt trời, mặt trăng, các ngôi tinh tú cùng cách làm lịch thì trời của vua Vũ và trời của vua Kiệt giống nhau, thế mà mà đời vua Vũ thì trị, đời vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại trời.

“Trị loạn có phải là tại thời không? Đáp: Sự sinh sôi nẩy nở ở mùa xuân, mùa hạ, sự súc tích, thu tàng ở mùa thu, mùa đông thì thời của vua Vũ và thời của vua Kiệt giống nhau, thế mà đời vua Vũ thì trị, đời vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại thời.

“Trị loạn có phải là tại đất không? Đáp: Đất được thì sống, đất mất thì chết, vậy đất của vua Vũ và đất của vua Kiệt cũng giống nhau, thế mà đời vua Vũ thì trị, đời vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại đất” (Trị loạn thiên da? – Viết: Nhật nguyệt, tinh thần, thuỵ lịch, thị Vũ Kiệt chi sở đồng dã., Vũ dĩ trị, Kiệt dĩ loạn, trị loạn phi thiên dã.

Thời da? – Viết: Phồn khải phồn trưởng ư xuân hạ, súc tích thu tàng ư thu đông, thị hựu Vũ Kiệt chi sở đồng dã. Vũ dĩ trị, Kiệt dĩ loạn, trị loạn phi thời dã.

Địa da? – Viết: Đắc địa tắc sinh, thất địa tắc tử, thị hựu Vũ Kiệt chi sở đồng dã, Vũ dĩ trị, Kiệt dĩ loạn, trị loạn phi địa dã[41] - Thiên luận).

Ở vào thời đại sự phát triển của trí tuệ còn ở giai đoạn duy thần hoặc siêu hình, con người dễ mê tín dị đoan, mọi hiện tượng, mọi biến cố đều được giải thích bằng sự can thiệp của thần linh., đứng trước những bất thường xảy ra, người ta lo sợ, người ta cầu xin. Khổng Tử hoài nghi quỉ thần, vậy mà gặp lúc sấm nổ, gió giựt, cũng biến sắc, tỏ vẻ kinh hoảng (“Tấn lôi phong liệt tất biến”). Tuy không oán trời (“Bất oán thiên”) và cũng không theo chủ nghĩa “di (dần) duyên”, cầu trời cho khỏi tội (“Đắc tội ư thiên, vô sở đảo dã”), nhưng ông vẫn sợ mệnh trời (“uý thiên mệnh”), vẫn ca tụng trời lớn lao (“Duy thiên vi đại”[42]). Đành rằng Tuân Tử sinh sau Khổng Tử hai thế kỉ, nhưng thời Tuân Tử vẫn là thời lòng tin dị đoan còn rất mạnh, thần quyền còn ngự trị, hoành hành (“doanh ư vu, chúc, tín cơ tưởng” – Sử Kí: Mạnh Tuân Liệt truyện), vậy mà Tuân Tử chẳng những “ không sợ tai dị”, “không oán trời”, mà còn đi xa hơn nữa, như chúng ta sẽ thấy ở dưới đây, cái thái độ hoàn toàn phi tôn giáo ấy của ông thật đã làm cho người ta ngạc nhiên không ít.

“CHẾ THIÊN, DỤNG THIÊN”, “HOÁ VẬT, LÍ VẬT” VÀ PHƯƠNG PHÁP “THIÊN CHÍNH”

Yếu tính chủ nghĩa Nhân Vi Lực Hành của Tuân Tử là TÍCH CỰC, ông khuyên người ta:

“Tôn trọng trời mà mến trời thì sao bằng để cho vật súc tích nhiều, ta tài chế nó mà dùng? Theo trời mà ngợi khen trời thì sao bằng tài chế cái mệnh trời mà dùng? Trông mong thời mà đợi thời đến, thì sao bằng ứng thời mà điều khiển thời? Nghĩ đến những vật có sẵn mà mong cho nó nhiều ra sao bằng dùng tài trí mình mà biến hoá cho ra nhiều? Nghĩ đến những vật có sẵn mà dùng nó thì sao bằng trị vạn vật cho hợp lí, không để mất những vật ấy? Mong ngóng cho vật sinh ra, sao bằng thành tựu các vật ấy? Bỏ người (không dùng nhân sự) mà nghĩ đến trời (tôn sùng thiên mệnh) thì sai mất tình thật của vạn vật” (Đại thiên nhi tư chi, thục dữ vật súc nhi chế chi? Tòng thiên nhi tụng chi, thục dữ chế thiên mệnh nhi dụng chi? Vọng thời nhi đãi chi, thục dữ ứng thời nhi sử chi? Nhân vật nhi đa chi, thục dữ sính năng nhi hoá chi? Tư vật nhi vật chi, thục dữ lí vật nhi vật thất chi dã? Nguyện ư vật chi sở dĩ sinh, thực dữ hữu vật chi sở dĩ thành? Cố thố nhân nhi tư thiên, tắc thất vạn vật chi tình?[43] - Thiên luận).

“Đạo của người”, cái đạo tích cực “tham tán trời đất” là như vậy, là “chế thiên, dụng thiên”: “tài chế mệnh trời mà dùng”, “hoá vật, lí vật”, là dùng tài trí của mình mà “biến hoá vật”, “trị vạn vật cho hợp lí”, và “thành tựu các vật ấy”, nói cho gọn và theo từ ngữ ngày nay, là “dùng nhân lực mà chinh phục thiên nhiên”.

Ông còn dạy người ta cái phương pháp chinh phục thiên nhiên nữa. Phương pháp đó, phương pháp “thiên chính”, được tóm tắt trong câu:

“Tài chế những vật không cùng loài với mình (người) để dinh dưỡng loài mình (loài người), thế gọi là “thiên dưỡng”. Thuận theo tính cố hữu của vật loại mà tài chế nó là phúc (tốt lành)., ngược lại tính cố hữu của vật loại mà tài chế nó là hoạ (tai vạ)” (Tài phi kì loại dĩ dưỡng kì loại, phù thị chi vị thiên dưỡng. Thuận kì loại giả vị chi phúc, nghịch kì loại giả vị chi hoạ, phù thị chi vị thiên chính[44] – Thiên luận[45]).

Ý kiến của Tuân Tử thật mới mẻ, mười mấy thế kỉ sau, ở Âu châu mới có một triết gia Bacon[46] có chủ trương tương tự: “Muốn chinh phục tự nhiên, trước phải tuân theo tự nhiên”.

Thuận theo tính chất tự nhiên của vật để tài chế vật hay “thuận theo tự nhiên”, có nghĩa là thuận theo những qui tắc tự nhiên nó chi phối sự vật, những định tắc vật lí mà nhất thiết sự vật phải tuân theo. Thì ra điều kiện cơ bản để “chế thiên, dụng thiên”, hoá vật, lí vật” lại là am tường những định luật vật lí tự nhiên. Và Tuân Tử bảo: “Muốn am tường những định luật vật lí thì phải quan sát sự vật, rồi suy cho ra lẽ!” (Chế sát vạn vật nhi vũ trụ lí hĩ[47] (…) tán kê vật tắc sát (…) dĩ chính lí hành sát luận tắc vạn vật quan hĩ[48] - Giải tế).

Đến đây, ý nghĩa mấy chữ “không cầu biết trời” (Bất cầu tri thiên) của Tuân Tử sáng tỏ hơn: “Không cầu biết” là không cần biết cái u áo, huyền diệu của trời mà thôi, chứ không phải làm không quan tâm quan sát sự vật để biết rõ những phép tắc tự nhiên của trời đất.

THỜ TRỜI

Tuân Tử nói: “Cầu đảo mà mưa thì sao? Đáp: Chẳng sao cả, cũng như không cầu đảo mà mưa vậy thôi” (Vu nhi vũ, hà dã? Viết: Vô hà dã, do bất vu nhi vũ dã[49] - Thiên luận).

Câu này cũng là triển khai, như những câu trích dịch ở trên kia, cái ý chính diễn tả trong câu “Việc trời diễn biến, có qui luật thường (bất biến)” (Thiên hành hữu thường). Trời đất muôn vật đều tuân theo những phép tắc tự nhiên vĩnh cửu và bất biến. Trời không có lí trí, ý thức, không có khả năng ban phúc, gieo hoạ., ta chẳng cần cầu xin, mà dù có cầu xin, trời cũng không thoả mãn nguyện vọng của ta được. Thảng hoặc nguyện vọng của ta được thoả mãn thì chắc chắn chẳng phải vì ta cầu xin. Tế tự là một hành dộng không có lợi ích thực tiễn, lí ứng nên bài trừ. Vậy là Tuân Tử chẳng những không bài trừ mà còn coi thờ trời là một việc hợp lẽ, không nên thiếu. Sách Tuân Tử, thiên Lễ luận, có câu:

“Người quân tử coi việc đó (việc tế lễ) là đạo người đối với người” (Kì tại quân tử, dĩ vi nhân đạo dã)[50].

Việc tế lễ mà Tuân Tử đề cập ở đây là tế lễ trời đất, tổ tiên và vua, thầy:

“Đối tượng của lễ là ba nguồn gốc: Trời đất là nguồn gốc của sự sống, tổ tiên là nguồn gốc của giống nòi, vua và thầy là nguồn gốc của nền bình trị” (Lễ hữu tam bản: thiên địa giả, sinh chi bản dã., tiên tổ giả, loại chi bản dã., quân sư giả, trị chi bản dã[51] - Lễ luận).

Có hai ý kiến: “Trời là tự nhiên, vô tri, vô giác, không thể ban phúc, gieo hoạ” và “Lễ trời là đạo người” có mâu thuẫn với nhau không? Không. Ý kiến trên thuộc phạm vi nhận thức, ý kiến dưới thuộc phạm vi tình cảm., một đàng nói: là thế., một đàng nói: nên thế:

“Tế tự là tỏ cái “tình ý” thương nhớ, hâm mộ, cái lòng trung tín, kính ái rất mực, là nghi thức dãi bày lòng trung thành cung kính một cách trang trọng nhất. Không phải bậc thánh nhân thì không hiểu được ý nghĩa đó”. (Tế giả, chí ý tư mộ chi tình dã, trung tín, ái kính chi chí dã. Cẩu phi thánh nhân, mạc chi năng tri dã[52] - Lễ luận).

Thật đã rõ ràng: Tế lễ nhằm hai mục đích, một là để tỏ lòng trung hậu, hai là để làm cho long trọng sự thể (văn sức), một có tính cách đạo đức, một có tính cách nghệ thuật.

- Nên tế trời đất để tỏ lòng không quên “nguồn gốc của sự sống”, chứ không phải để cầu xin ban phúc, xá tội. Đó là một hành vi vô cầu mang ý nghĩa “sùng bản, báo công”, trọng gốc mà đáp công, uống nước mà nhớ nguồn. Cho nên sách Nhạc Kí nói: “Lễ giả dã, báo dã”[53]. “Lễ là báo đáp”. Thầy Tăng Tử nói: “Thận chung truy viễn, dân đức qui hậu”[54] cũng là nói lên cái mục đích đạo đức của việc cúng tế: “Tống táng cẩn thận, tế lễ tổ tiên là cốt để cho lòng dân trở nên trung hậu”. “Người quân tử coi (lễ) là việc văn sức thì lành, coi là việc quỉ thần là dữ” (Cố quân tử dĩ vi văn nhi bách tính dĩ vi thần., dĩ vi văn tắc cát, dĩ vi thần tắc hung[55] - Thiên luận).

Nói tóm lại, lí do thờ trời của Tuân Tử là lí do tâm lí, đạo đức, nghệ thuật nữa, mà không có tính cách nhận thức luận lí (cho trời là tự nhiên).

Còn một thắc mắc nữa. Chúng ta nhận thấy rằng Tuân Tử đã khuyên ta không tranh chức vụ với trời, rồi lại bảo phải tài chế cái mệnh trời mà dùng. Hai cái đó có mâu thuẫn với nhau không? Hồ Thích nhấn vào câu sau: “tài chế cái mệnh của trời mà dùng”, rồi khen Tuân Tử sinh trước Bacon trên một ngàn tám trăm năm (?) mà đã có tư tưởng đoạt trời của Bacon. Có người lại chú ý tới lời: “không tranh chức vụ của trời” mà bác ý kiến của Hồ.

Chúng tôi nghĩ câu “không tranh chức vụ của trời” chỉ có nghĩa rằng đạo trời thâm viễn, công việc của trời “không làm mà nên, không cầu mà được” ta không hiểu được, không cần biết đến, chứ không phải là không dùng những năng lực thiên nhiên để cải thiện đời sống của ta, vì vậy mà Tuân Tử còn khuyên ta “tài chế cái mệnh của trời mà dùng”, cũng không mâu thuẫn nhau và ý kiến của Hồ Thích có phần xác đáng.

Một số học giả tả khuynh, khi bàn về chủ trương “chế thiên, hoá vật” (và nhận định tính ác) của Tuân Tử, đã liệt họ Tuân vào hàng “Duy vật luận gia”. Chúng tôi nghĩ rằng Tuân Tử chưa hẳn là “Duy vật”[56]. Nếu có chút tư tưởng duy vật nào thì mới chỉ lờ mờ, chưa thành hệ thống minh bạch. Ông nhận rằng sức người là đáng kể hơn cả, nhưng cũng tin rằng ngoài “nhân đạo” còn có “thiên đạo”. Vả lại, mặc dầu cho trời là tự nhiên, ông vẫn khuyên người ta nên “thờ trời”. Tư tưởng của ông vẫn là nằm trong hệ thống truyền thống của Trung Hoa, thoát thai từ lời khuyên “Vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi” của Khổng Tử nói trong sách Luận Ngữ.

ĐIỂM DỊ ĐỒNG GIỮA KHỔNG, MẠNH, LÃO, TRANG, MẶC VÀ TUÂN VỀ QUAN NIỆM TRỜI

Lão, Trang cho trời là tự nhiên, Tuân Tử cũng cho trời là tự nhiên. Đó là điểm tương đồng giữa Tuân Tử và Đạo gia. Và đó cũng là điểm dị biệt giữa Lão, Trang, Tuân một bên, và Khổng, Mạnh bên khác. Khổng, Mạnh cơ hồ coi trời là vị chủ tể có “nhân cách”, là “nghĩa lí” và “hợp nhất”, “hợp đức” với người. Khổng, Mạnh hoà trời với người làm một, còn Tuân thì đặt người ở vị trí đối lập với trời…

Về thái độ đối lập với trời này, Tuân cũng khác hẳn với Lão, Trang: Lão, Trang chủ trương thuận với trời (Tự nhiên). Trang bảo: “Vật chẳng thắng trời từ lâu”., cảnh giới tới cao của Lão, Trang là “Đồng thiên”, còn chủ trương của Tuân Tử là “Chế thiên”, chinh phục tự nhiên và nhằm mục đích “công lợi” (功利). Thế cho nên Tuân chê Đạo gia là chỉ “biết co mà chẳng biết duỗi”[57] - Phi thập nhị tử).

Mặc Tử thờ trời, Tuân Tử cũng thờ trời. Nhưng Mặc Tử thờ trời vì “trời yêu người, làm lợi cho người”, còn Tuân thì thờ trời vì “nhớ gốc”, “trời là nguồn gốc của sự sống”, thờ để tỏ lòng biết ơn, để giữ cho lòng người trung hậu và để cho sự thể được đẹp đẽ (Dĩ văn sức dã).

Mặc khác, Mặc Tử thờ trời, hậu với người sống như “bạc với người chết” (Bạc táng, đoản tang)., Tuân không thế: Tuân thờ trời, đồng thời hậu với cả người sống lẫn người chết. Ông nói: “Thờ người sống không trung hậu cung kính, long trọng, gọi là quê mùa., đưa người chết không trung hậu, trịnh trọng, gọi là khô cằn, bạc bẽo. Người quân tử khinh rẻ cái quê mùa và lấy sự khô cằn, bạc bẽo làm điều đáng xấu hổ” (Sự sinh bất trung hậu, bất kính văn, vị chi dã, sự tử bất trung hậu, bất kính văn, vị chi tích. Quân tử tiện dã tu tích[58] - Lễ luận). “Sự chấm dứt (sự chết) và sự bắt đầu (sự sống) phải được chu đáo như nhau” (Sinh tử thuỷ chung nhược nhất[59] - Lễ luận). “Hậu với sự sống và bạc với sự chết, tức là kính cái hữu tri, khinh cái vô tri” (Hậu kì sinh nhi bạc kì tử, thị kính kì hữu tri nhi mạn kì vô tri[60] - Lễ luận) là “cái đạo của người không đứng đắn, thẳng thắn” (gian nhân chi đạo[61] - Lễ luận), là “lòng bội bạc tráo trở” (Bội bạn chi tâm[62] - Lễ luận). Cho nên Tuân Tử cho Mặc Tử là “đẽo người chết mà đắp cho người sống” (Khắc tử nhi phụ sinh vị chi Mặc[63] - Lễ luận). Tuân Tử phản đối việc “đẽo người chết”, phản đối chủ trương “tống táng sơ bạc, để tang ít ngày”, nhưng ông cũng không tán thành cái thói quá rườm rà bầy vẽ mà ông cổ võ cho cái thuyết “Lễ chi trung lưu” (Tang lễ một vừa hai phải):

“Lễ là cắt cái dài, nối cái ngắn, bớt cái thừa, thêm cái thiếu, miễn là đủ trang trọng, tỏ được lòng thương tiếc, kính mến, thêm vẻ mĩ quan cho việc hành nghĩa (…) Đó là trung đạo của lễ” (Lễ giả, đoạn trường tích (tục) đoản, tổn hữu dư, ích bất túc, đạt ái kính chi văn nhi tư thành hành nghĩa chi mĩ giả dã (…) Thị Lễ chi trung lưu dã[64] - Lễ luận).

*

Trời là tự nhiên. Thế lực tự nhiên đó vận hành theo những phép tắc nhất định và vĩnh cửu.

Trời có đạo của trời, người có đạo của người. Đạo trời và đạo người bất tương quan.

Đạo trời là tự nhiên sinh dục vạn vật. Đạo đó huyền nhiệm, ta không cần tìm hiểu tại sao trời sinh, sinh thế nào, để làm gì.

Đạo người là “không tranh cái chức vụ của trời (việc trời, để trời làm), nhưng phải dùng sức người mà chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên cho đời sống con người thêm tốt đẹp.

Trời là nguồn sống, vạn vật đều được cái hoà khí tự nhiên của trời mà sản sinh, cho nên vì lòng “phản bản tư thuỷ”, người nên thờ trời, cho cuộc sống người thêm vị, tình tự người thêm đẹp.

Khái quát quan niệm về trời và thái độ đối với trời của Tuân Tử là như vậy.

Quan niệm đó không mới, nó chịu ảnh hưởng của Đạo gia.

Nhưng chủ trương “Không tranh chức vụ của trời”, đồng thời lại tìm hiểu luật tắc tự nhiên để chinh phục tự nhiên, hầu cải thiện nhân sinh thì đối với tư tưởng giới đương thời, thật quả có giá trị độc sáng.

[25] 天行有常,不爲堯存,不爲桀亡。[Chữ 爲, nhiều chỗ, như trong câu này được phiên âm là “vị”, nhiều chỗ được phiên âm là “vi”. (Goldfish)].

[26] Kiệt vong: Có người cắt nghĩa câu này là: “Việc trời diễn biến có qui luật thường, chẳng vì thời vua Nghiêu trị mà còn, chẳng vì thời vua Kiệt loạn mà mất”.

[27] 天不爲人之惡寒也輟冬,地不爲人之惡遼遠也輟廣(…)天 有常道矣,地有常數矣。

[28] Thường số hĩ: Phùng Hữu Lan và một số học giả hữu danh khác đều cho rằng quan niệm về trời của Tuân Tử đã chịu ảnh hưởng Tự Nhiên Luận của Lão, Trang. Quả vậy, Lão Tử cho rằng Đạo, bản căn của vũ trụ, vận động theo phép tắc tự nhiên (“Đạo pháp tự nhiên”), rằng “trời đất bất nhân, lấy vạn vật làm chó cỏ” (“Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vị sô cẩu”). Trang Tử thì đưa ra quan niệm “Cơ giam” và “bất đắc bất nhiên” cho rằng sự vật sở dĩ biến hoá là do sự thúc đẩy của một thứ “then máy” (cơ giam) tự nhiên. Trời chuyển vận chăng? Đất đứng yên chăng? (…) Ai chủ trương thế? (…) Dáng chừng có cái then máy tự nhiên nó thúc đẩy mà chẳng dừng được chăng? (…) (Ý giả kì hữu cơ giam nhi bất đắc dĩ da – Trang Tử, Tắc Dương). Ghi thêm: John Russel, trong bài Ảnh hưởng khoa học đối với xã hội (Đặng Tôn Bồi dịch – Hiệp Chi Tùng thư) cũng nhận: “Tự thân vũ trụ là một thế hệ luôn luôn biến động, nhất nhất biến động đều tuân theo phép tắc tự nhiên.

[Trong sách Trang Tử, theo các bản đang lưu hành trên mạng và theo bản dịch Trang Tử - Nam Hoa Kinh của cụ Nguyễn Hiến Lê, thì câu “Ý giả kì hữu cơ giam nhi bất đắc dĩ da” (意者其有机缄而不得已邪?) là ở trong thiên Thiên Vận chứ không phải thiên Tắc Dương. (Goldfish)].

[29] 道者,非天之道,非地之道,人之所以道也。

[30] 天地生君子,君子理天地 (…)無君子則天地不理,禮義無統。

[31] 列星隨旋,日月遞炤,四時大御,陰陽大化,風雨博施,萬物各得其和以生,各得其養以成。

[32] 天有其時,地有其產,人有其治,夫是之謂能參。

[33]不爲而成,不求而得,夫是之謂天職。如是者,雖深,其人不加慮焉,雖大,不加能焉,雖精,不加察焉,夫是之謂不與天爭職。

[34] Đối với các câu trích dẫn cùng một nguồn với câu vừa trích dẫn trước đó (ở đây là thiên Thiên luận), trong sách ghi tắt là: “Như trên”, hoặc viết tắt là “Nh.t” hay “N.t”. Trong ebook này, thay vì chép đúng theo sách, tôi ghi rõ tên nguồn (ở đây là Thiên luận) để sau này tiện tra cứu hơn. Có vài chỗ trong sách “quên” ghi nguồn, tôi cũng ghi thêm. (Goldfish).

[35] 皆知其所以成,莫知其無形。

[36] 其行曲治,其養曲適,其生不傷,夫是之謂知天。

[37] 故明天人之分,則可謂至人矣。

[38] Xuất hiện: nguyên văn chữ Hán là “Đảng” (黨). Phương Hiếu Bác và Diệp Ngọc Lân đều nói: chữ đảng xưa có nghĩa là “Thảng” (儻), là “có khi” (thảng hoặc).

[39]星墜,木鳴,是天地之變,陰陽之化,物之罕至者也,怪之可也,而畏之,非也。夫日月之有蝕,風雨之不時,怪星之黨見,是無世而不常有之。上明而政平,雖並世起,無傷也上暗而政險,則是雖無一至者,無益也。

[40]強本而節用則天不能貧,養備而動時,則天不能病。修道而不貳,則天不能禍。故水旱不能使之飢渴,寒暑不能使之疾,妖怪不能使之凶。

本荒而用侈,則天不能使之富。養略而動罕,則天不能使之全。倍道而妄行,則天不能使之吉。故水旱未至而飢,寒暑未薄而疾,妖怪未至而凶。受時與治世同,而殃禍與治世異。不可以怨天。其道然也。

[41]治亂天邪? 曰:日月,星辰,瑞曆,是禹桀之所同也。禹以治,桀以亂,治亂非天 也。

時邪?曰:繁啓蕃長於春夏,畜積收藏於秋冬,是又禹桀之所同也。禹以治,桀以亂,治亂非時也。

地邪?曰:得地則生,失地則死,是又禹桀之所同也。禹以治,桀以亂,治亂非地也。

[42] Vi đại: Những câu dẫn trong đoạn này đều trích từ sách Luận Ngữ.

[43] 大天而思之,孰與物畜而製之?从天而頌之,孰與製天命而用之? 望時而待之,孰與應時而使之?因物而多之,孰與騁能而化之?思物而物之,孰與理物而勿失之也?願於物之所以生,孰與有物之所以成?故錯人而思天,則失萬物之情。

[44] 財非其類以養其類,夫是之謂天養。順其類者謂之福,逆其類者謂之禍,夫是之謂天政。

[45] Thiên luận: hai chữ này tôi ghi thêm, trong sách không ghi nguồn. (Goldfish).

[46] Bacon (1214-1294), người Anh, tị tổ của phương pháp thực nghiệm.

[47] Bản đăng trên trang http://zh.wikisource.org/zh-hant/%E8%8D%80%E5%AD%90/%E8%A7%A3%E8%94%BD%E7%AF%87 chép là: 製割大理而宇宙裡矣 (Chế cát đại lí nhi vũ trụ lí hĩ). (Goldfish).

[48] 製察萬物而宇宙理矣 (…)贊稽物則察 (…)以正志行察論,則萬物官矣。

[49] 雩而雨,何也?曰:無何也,猶不雩而雨也。

[50] 其在君子,以爲人道也。

[51] 禮有三本;天地者,生之本也;先祖者,類之本也;君師者,治之本也。

[52] 祭者,志意思慕之情也,忠信愛敬之至矣。苟非聖人,莫之能知也。

[53] 禮者也,報也。

[54] 愼終追遠,民德歸厚。

[55] 故君子以爲文而百姓以爲神;以爲文則吉,以爲神則凶。

[56] Duy vật: Ở Trung Quốc thời xưa, chưa có quan niệm Duy vật và Duy tâm như ở châu Âu trong hai thế kỉ này. Ta có thể nói hầu hết các triết gia Trung Hoa coi tâm thần trọng hơn vật chất, chỉ có một số như Tuân Tử đời Tiên Tần, Vương Thuyền Sơn, Nhan Tập Trai đời Thanh là thấy rằng vật chất cũng đáng trọng… chúng ta sở dĩ bảo họ có tư tưởng duy vật là muốn nói cho gọn, chứ sự thực, họ không có cùng một chủ trương với các nhà Duy vật Âu Tây.

[57] Không biết duỗi nghĩa là: chỉ biết tiêu cực, thụ động mà không biết tích cực, chủ động.

[58] 事生不忠厚,不敬文,謂之野,事死不中厚,不敬文,不敬文,謂之瘠。君子賤野羞瘠。

[59] 生死終始若一。

[60] 厚其生而薄其死,是敬其有知而慢其無知。

[61] 姦人之道

[62] 倍叛之心

[63] 刻死而附生謂之墨

[64] 禮者,斷長續短,損有餘,益不足,達愛敬之文而滋成行義之美者也… 匙禮之中流也。