CHƯƠNG VII BÀN VỀ LỄ
Trước Tuân Tử
Tính chất và tác dụng của lễ
Với Tuân Tử
Lễ với trung là một
Tuân Tử thiên trọng lễ
Hiệu lực của lễ
Lễ là tiết, là chừng mực
Lễ là văn, là làm cho đẹp
Tác dụng của dưỡng
Tác dụng của phân
TRƯỚC TUÂN TỬ
Lai nguyên của lễ - Lễ là gì?
Thoạt kì thuỷ, lễ chỉ có nghĩa là cúng tế. Từ thượng cổ, người Trung Hoa – cũng như các giống người khác – đã cúng tế thần linh, đã làm cái việc gọi là “lễ”. Nhưng chữ “Lễ” mà trở nên thông dụng ở Trung Hoa thì hình như mới từ đời Tây Chu (-1134-770). Căn cứ vào kinh tịch cổ, nghi thức về lễ là do Chu Công Đán, con của Chu Văn Vương, em Chu Vũ Vương, chế tác, mấy chữ lễ xuất hiện lần đầu trong thiên Lạc Cáo (kinh Thư), viết vào thời Chu Công nhiếp chính, đều có nghĩa là cúng tế. Có điều việc cúng tế ở thời này không còn tính chất thuần tuý tôn giáo nữa. Chu Công chế lễ, mục đích là để duy trì trật tự giai cấp trong xã hội “tông pháp” của Tây Chu: Lễ từ đây đã mang nhiều ý nghĩa của chính trị.
Sang đời Đông Chu (-770-256), nhất là từ Khổng Tử (-551-479), lễ thêm nội dung mới, một nội dung đượm tính luân lí. Gốc của lễ là nhân:
“Người mà chẳng có lòng nhân thì dùng thế nào được lễ” (Nhân nhi bất nhân, như lễ hà! – Luận Ngữ, Bát dật).
Tác dụng của lễ là để “hành” mấy đức Cung, Thận, Dũng, Trực:
“Cung kính mà vô lễ thì khúm núm quá mà mệt, cẩn thận mà vô lễ thì rụt rè, sợ sệt, dũng cảm mà vô lễ thì bạo loạn, trực triệt mà vô lễ thì nghiệt ngã, khắt khe” (Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo. – Luận Ngữ, Thái Bá). Lễ từ đây đại khái là qui phạm cho nhất thiết hành vi của con người trong đời sống xã hội, trỏ cả phong tục, tập quán, gồm cả những điển chương, cơ hồ đồng nghĩa với pháp luật, chỉ khác pháp luật ở chỗ lễ thì ngăn ngừa, pháp luật thì trừng trị.
Sau này các nho giả đời Chiến Quốc, như Mạnh Tử, Tuân Tử cũng rất trọng lễ. Mạnh Tử coi lễ là một trong bốn tứ đức (nhân, nghĩa, lễ, trí) và bảo: “Cái thực của lễ là tiết chế nhân, nghĩa cho đúng mực và văn sức cho hai đức này” (Lễ chi thực, tiết văn tư nhị giả. - Mạnh Tử, Li Lâu). Tuy nhiên, Mạnh cho từ nhượng (đầu mối của lễ) là nét tự nhiên, sinh ra sẵn có của con người, cho nên ông không bàn nhiều đến cái đức thứ ba này. Trái lại, Tuân chủ trương tính ác, bảo phải dùng lễ, do thánh vương đặt ra để uốn nắn, biến hoá cái tính, cho nên ông bàn rất rành, như sẽ thấy ở các trang sau.
TÍNH CHẤT VÀ TÁC DỤNG CỦA LỄ
Về tính chất và tác dụng của lễ, sách Lễ Kí chép:
“Tăng Tử bảo Tử Tư: Anh Cấp! Ta để tang người thân, miệng không nhắp nước trong bảy ngày” Tử Tư nói: “Tiên vương chế ra lễ (dạy người ta) cao quá thì cuối xuống cho vừa, không tới thì kiễng lên cho tới. Cho nên người quân tử để tang người thân, miệng không nhắp nước trong ba ngày, chống gậy mà sau mới đứng lên được” (Tăng Tử, vị Tử Tư viết: “Cấp! Ngô chấp thân nhi tang dã, thuỷ tương bất nhập ư khẩu giả thất nhật”. Tử Tư viết: “Tiên vương chi chế lễ dã, quá chi giả phủ chi tựu chi, bất cập giả, sí nhi cập chi[142]. Cố quân tử chi chấp thân chi tang dã, thuỷ tương bất nhập ư khẩu giả tam nhật, trượng nhi hậu năng khởi! – Đàn Cung) và:
“Ông Trọng Ni lúc bình cư ở nhà, Tử Trương, Tử Cống và Ngôn Du đứng hầu (…) Ông nói: “Anh Sư thái quá mà anh Thương bất cập. Ông Tử Sản đối với dân như thể mẹ dân, hay nuôi họ mà chẳng dạy họ”. Tử Cống bước ra khỏi chiếu mà thưa rằng: Đám hỏi lấy gì làm mức trung (không thái quá, không bất cập)? Ổng trả lời: “Lễ! Lễ! Lễ là để tiết chế cho vừa đạo trung” (Trọng Ni yên cư, Tử Trương, Tử Cống, Ngôn Du thi (…) Tử viết: “Sư, nhĩ quá nhi Thương dã bất cập. Tử Sản do chúng nhân chi mẫu dã, năng thực chi, bất năng giáo dã”. Tử Cống việt tịch nhi đối viết: “Cảm vấn tương hà dĩ vi thử trung giả dã?” Tử viết: “Lễ hồ lễ! Phù lễ sở dĩ chế trung dã. – Trọng Ni yên cư).
Hai câu chuyện trích dẫn trên đây cho thấy rõ tính chất của lễ là trung.
Trung vốn không có định thể (Chu Hi: Trung vô định thể), cho nên lễ cần tuỳ thời mà chế nghi thay đổi, để giữ vẹn cái tính chất trung bất biến. Khổng Tử “tòng Chu” mà sửa lễ nhà Chu, “theo người ta, không đội mũ gai nữa mà đội mũ lụa” (Thời đó, lụa đã sản xuất được nhiều rồi, đã đẹp lại bền) là vì vậy. Sách Lễ Kí nói về sự biến của Lễ như sau:
“Lễ coi THỜI là trọng đại (…) Vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, ông Thang đuổi vua Kiệt, Vũ vương đánh vua Trụ[143], đó là vì THỜI” (Lễ thời vi đại (…) Nghiêu thụ Thuấn, Thuấn thụ Vũ, Thang phóng Kiệt, Vũ vương phạt Trụ, thời dã).
“Tam vương khác thời thế, không theo lễ của nhau” (Tam vương dị thế, bất tương tập lễ - Nhạc kí – Lễ Kí, quyển II).
“Tôn lễ là tôn cái nghĩa của lễ. Mất cái nghĩa, chỉ theo các điều mục, đó là việc của quan Chúc, quan Sử (coi việc cúng tế). Cho nên các điều mục của lễ thì có thể theo mà nghĩa của lễ thì khó biết. Biết nghĩa của lễ mà kính cẩn giữ lấy, thiên tử nhờ thế mà trị thiên hạ” (Lễ chi sở tôn, tôn kì nghĩa dã. Thất kì nghĩa, trần kì số, chúc sử chi sự dã. Cố kì số khả trần dã, kì nghĩa nan tri dã. Tri kì nghĩa nhi kính thủ chi, thiên tử chi sở dĩ trị thiên hạ dã. – Lễ Kí, Giao đặc sinh).
Nghĩa của lễ nghĩa là nguyên lí phổ thông của lễ, có hiểu nguyên lí của lễ là trung thì mới “nhân cái tính của người ta mà tiết chế nó, làm cho nó thêm văn vẻ và phòng ngừa cho dân” (Lễ giả, nhân nhân chi tình nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân chi phòng giả dã. N.t, Phòng kí).
“Phòng ngừa cho dân” là:
- Phòng ngừa sự xung đột giữa người này với người khác, do tình quá trớn gây nên, và
- Phòng ngừa sự xung đột giữa thất tình (bảy tình: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn)[144] nơi một người, vì không theo một tiêu chuẩn hợp lí. Tỉ dụ như sự xung đột giữ tình thương cha mẹ và “tình” muốn uống nước trong khi có tang, vừa nói trên.
Tóm lại, tính chất của lễ là trung, nguyên lí của lễ là biến (nghĩa là biến về hình thức để giữ vẹn tính chất trung) và tác dụng của lễ là tiết, văn, phòng ngừa.
VỚI TUÂN TỬ
Khởi nguyên của lễ
Bàn về khỏi nguyên của lễ, Tuân Tử có khuynh hướng theo quan điểm TRỰC DỤNG hơn theo quan điểm lịch sử. Ông có nói qua đến nguồn gốc, đối tượng của lễ: trời đất, tổ tiên và quân, sư (vua và thầy):
“Đối tượng của lễ là ba nguồn gốc: trời đất là nguồn gốc của sự sống, tổ tiên là nguồn gốc của giống nòi, vua và thầy là nguồn gốc của nền bình trị. Không có trời đất thì sự sống ở đâu mà ra? Không có tổ tiên thì giống nói ở đâu mà có? Không có vua, có thầy thì nền bình trị nhờ đâu mà được thiết lập? Ba nguồn gốc đó mà mất một con người hết yên. Cho nên lễ là trên thờ trời, dưới thờ đất, tôn kính tổ tiên mà quí trọng vua và thầy. Đó là ba nguồn gốc đối tượng của lễ” (Lễ hữu tam bản: thiên địa giả, sinh chi bản dã, tiên tổ giả, loại chi bản dã, quân sư giả, trị chi bản dã. Vô thiên địa, ô sinh? Vô tiên tổ ô xuất? Vô quân sư, ô trị? Tam giả thiên vong yên, vô an nhân. Cố lễ, thượng sự thiên, hạ sự địa, tôn tiên tổ, long quân sư. Thị lễ chi tam bản dã.[145] - Lễ luận).
Nhưng trái lại, điểm mà ông đặc biệt chú ý đến và nói khá nhiều là cái tác dụng (“tức tranh, trí trị”: chấm dứt tranh giành, đưa tới bình trị) của lễ. Ông bảo chính cái tác dụng đó mới là khởi nguyên chính là khởi nguyên đích thực đáng nhấn mạnh của lễ:
“Lễ ở đâu mà có? Đáp: người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm tòi, đòi hỏi, tìm tòi đòi hỏi mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh, tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét loạn cho nên chế định lễ nghĩa để phân ra trật tự, để nuôi cái muốn của con người, cấp cho con người cái mà họ muốn” (Lễ khởi ư hà dã? Viết: nhân sinh nhi hữu dục, dục nhi bất đắc, tắc bất năng vô cầu, cầu nhi vô độ lượng phân giới, tắc bất năng bất tranh, tranh tắc loạn, loạn tắc cùng. Tiên vương ố kì loạn dã, cố chế lễ nghĩa dĩ phân chi, dĩ dưỡng nhân chi dục, cấp nhân chi cầu.[146] – Lễ luận).
Như vậy, tiên vương sinh ra lễ là vì nhu cầu “tức trang, trí trị” trước hết: “không có sự bình trị thì con người hết yên” và ba cái gốc, đối tượng của lễ cũng không vững chặt.
LỄ VỚI TRUNG LÀ MỘT
Tuân Tử cũng nói về đức trung của lễ:
“Cái hay của đạo (lễ, nghĩa) là thích trung, thiên lệch đều là không nên”. (Thiên luận).
“Thế nào gọi là trung? Trung là lễ, nghĩa” (Hạt vị trung? Lễ nghĩa thị dã. – Nho hiệu).
Đức trung đó còn được biểu hiện qua những tác dụng của lễ trong mấy câu dưới đây:
“Cái thuật trị khí, dưỡng tâm là:
- Khí huyết cương cường thì làm cho dịu bớt mà được điều hoà.
- Trí lự sâu hiểm thì tập trung (ý chí) mà kiểm điểm cho được bình dị và ôn lương.
- Đởm khí quá mạnh, đến độ hung hăng thì gượng nhẹ đưa vào khuôn khổ đạo lí.
- Cử chỉ mau lẹ, hấp tấp thì ghìm bớt cho chậm rải, từ tốn.
- Khí lượng hẹp hòi, nhỏ nhặt thì cởi nới cho thêm rộng rãi bao dung.
- Ti tiểu, rụt rè mà có ý tham lợi thì đề cao ý chí.
- Hư hèn, nhu nhược thì phải có thầy bạn đe lời, thúc bách.
- Biếng nhác, bừa bãi, coi thường cả thân thì (cảnh giác) bằng những tại vạ sẽ xảy ra.
- Đần độn, thật thà thì nên dạy cho lễ nhạc, cho lối suy tư có mạch lạc mà quán triệt.
Phàm thuật trị khí, dưỡng tâm, mau có kết quả nhất là theo lễ” (Trị khí dưỡng tâm chi thuật: Huyết khí cương cường, tắc nhu chi dĩ điều hoà; trí lự tiệm thâm, tắc nhất chi dĩ dị lương; dũng đảm mãnh lệ, tắc phụ chi dĩ đạo thuận; tề cấp, tiện lợi, tắc tiết chi dĩ động chỉ; hiệp ải, biển tiểu, tắc khuếch chi dĩ quảng đại; ti thấp, trọng trì, tham lợi, tắc kháng chi dĩ cao chí; dung chúng nô tản, tắc kiếp chi dĩ sư hữu; đại mạn, phiêu khí, tắc chiếu chi dĩ hoạ tai; ngu khoản, đoan xác, tắc hợp chi dĩ lễ nhạc, thống chí dĩ tư sách. Phàm trị khí dưỡng tâm chi thuật, mạc kính do lễ.[147] - Tu thân).
“Người quân tử khoan thai mà không biếng nhác, vuông vức mà không sắc cạnh (…) sáng suốt mà không gay gắt, nghiệt ngã, (…) kiên cường mà không thô bạo, mềm mỏng, xuề xoà mà không a dua thế tục, cung kính, cẩn thận mà rộng lượng bao dung. Đức tốt đến thế là hoàn toàn đúng lễ” (Quân tử khoan nhi bất mạn, liêm nhi bất huệ (…) sát nhi bất kích (…) kiên cường nhi bất bạo, nhu tòng bất lưu, cung kính cẩn thận nhi dung. Phù thị chi vị văn.[148] – Bất cẩu).
Hai câu vừa dẫn thật không khác bao nhiêu đoạn văn nói về đức trung trong kinh Thư: “Trực nhi ôn, khoan nhi lật, cương nhi vô ngược, giản nhi vô ngạo” (chính trực mà ôn hoà, khoan dung mà hơi ngặt, cương nghị mà không tàn ngược, giản dị mà không ngạo mạn).
Tuân Tử không nói nhiều đến nguyên lí “biến” của lễ, nhưng ông bảo “nghi ư thời thông, lợi dĩ xử cùng[149] – Tu thân). Câu này có ý nói: biết thông tuỳ thời mà dùng lễ thì dù ở cảnh đạt hay cảnh cùng cũng đều hay đều tốt. Và ông dẫn trong Kinh Thi (Tiểu nhã): “Sự vật vẫn có đấy, đắc thời mới quí” (Vật kì hữu hĩ, duy kì thời hĩ).
TUÂN TỬ THIÊN TRỌNG LỄ
Khổng Tử sáng lập ra đạo nhân, coi nhân là đức lớn nhất, đứng đầu các đức, gồm đủ các đức, nghĩa và lễ như lệ thuộc vào nhân, cơ hồ chỉ dùng để thực hiện nhân. Mạnh Tử vẫn lấy nhân làm lí tưởng, cũng trọng lễ, nhưng nói đến nghĩa nhiều nhất, hình như ông cho nhân là cao xa quá, nghĩa gần gũi dễ thực hiện hơn.
Tuân Tử thì THIÊN TRỌNG LỄ. Lễ của ông là cái khuôn phép do thánh nhân đặt ra cho mọi người theo, nó cụ thể, khách quan và xác định hơn nghĩa. Với ông “lễ là điểm cao đẹp nhất của đạo làm người” (Lễ giả, nhân đạo chi cực dã[150] – Lễ luận).
HIỆU LỰC CỦA LỄ
Hiệu lực của lễ rất lớn và phạm vi rất rộng:
“Cho nên người mà không có lễ thì không thể sinh tồn, việc mà không có lễ, thì không thể thành tựu, nước mà không có lễ, thì không thể an ninh” (Cố nhân vô lễ tắc bất sinh, sự vô lễ tắc bất thành, quốc gia vô lễ tắc bất ninh.[151] – Tu thân).
Đối với cá nhân
Cá nhân nhờ lễ “thân mới chính” (Lễ giả, sở dĩ chính thân dã[152] – Tu thân), “hạnh mới tu” (Cố lễ cập thân nhi hạnh tu.[153] – Trí sĩ), tư tưởng, ngôn luận mới đúng: “Đứng trong lễ mà suy tư, gọi là khéo nghĩ” (Lễ chi trung yên, năng tư sách, vị chi năng lự.[154] – Lễ luận).
“Người quân tử (…) nói chẳng chuộng lối lí luận quá tinh vi, lắt léo mà không hợp với lễ nghĩa (…) chỉ cái gì chính đáng (hợp lễ nghĩa) mới chuộng” (Quân tử (…) thuyết bất quí cẩu sát (…), duy kì đáng chi vi quí.[155] – Bất cẩu).
Nhờ lễ con người mới được yên vui:
“Nuôi cho sống, làm cho yên vui, không gì bằng lễ nghĩa” (Sở dĩ dưỡng sinh an lạc giả, mặc đại hồ lễ nghĩa.[156] – Cường quốc).
Đối với quốc gia xã hội
Được thiên hạ, mất xã tắc cũng vì theo lễ hay không, vì “sinh mệnh quốc gia là ở lễ” (Lễ luận).
“Vương công nhờ lễ mà được thiên hạ (…) Không theo lễ thì mất xã tắc” (Lễ giả (…) vương công do chi sở dĩ đắc thiên hạ, bất do sở dĩ vẫn xã tắc.[157] – Nghị binh).
Thậm chí “trời đất nhờ lễ (hiểu theo nghĩa: luật thứ tự trong thiên nhiên) mà hoà hợp, mặt trăng, mặt trời nhờ lễ mà sáng tỏ, bốn mùa nhờ lễ mà có thứ tự, tinh tú nhờ lễ mà chuyển vần, sông ngòi nhờ lễ mà lưu thông” (Thiên địa dĩ hợp, nhật nguyệt dĩ minh, tứ thời dĩ tự, tinh thần dĩ hành, giang hà dĩ lưu.[158] – Lễ luận).
Công hiệu của lễ ghê gớm như vậy là nhờ những tác dụng tiết, văn, phòng ngừa (đã nói ở trên), dưỡng và phân của lễ.
LỄ LÀ TIẾT, LÀ CHỪNG MỰC
“Lễ là tiêu chuẩn của sự chừng mực” (Lễ giả, tiết chi chuẩn dã[159] – Trí sĩ).
“Ăn, uống, mặc, ở, cử động, nghỉ ngơi theo lễ thì điều hoà chừng mực” (Ẩm thực, y phục, cư xử, động tĩnh do lễ tắc hoà tiết.[160] – Tu thân).
“Ưa, ghét nhờ lễ mà đúng mức, mừng giận nhờ lễ mà thích đáng” (Hiếu ố dĩ tiết, hỉ nộ dĩ đáng.[161] – Lễ luận).
LỄ LÀ VĂN, LÀ LÀM CHO ĐẸP
“Lễ là cắt dài, nối ngắn, rút bớt chỗ thừa, thêm vô chỗ không đủ, đạt đến chỗ văn vẻ của lòng ái kính mà giúp cho việc hành nghĩa thêm đẹp” (Lễ giả, đoạn trường, tục đoản, tổn hữu dư, ích bất túc, đạt ái kính chi văn nhi tư thành hành nghĩa chi mĩ dã.[162] – Lễ luận).
Tác dụng tiết, văn của lễ, các Nho gia đều đề cập. Duy hai tác dụng dưỡng và phân của lễ là “đặc sản” của Tuân.
TÁC DỤNG DƯỠNG
Tuân chủ trương dưỡng dục, nuôi lòng dục, khiến cho “dục” và “vật” đua nhau mà sinh trưởng, để dục không vì vật ít mà “kẹt”, vật không vì dục nhiều mà cạn. Muốn “dưỡng dục” thành công, Tuân Tử bảo: hãy nuôi con tâm cho sáng suốt để “đạo dục” (dẫn dắt lòng dục, mặt khác hãy theo đúng tiêu chuẩn lễ mà tiết chế lòng dục cho vừa chừng. Tuân Tử nói khá dài về điểm này trong thiên Lễ luận (bàn về lễ) (có trích dịch ở phần II). Ở đây, chỉ xin trích một đoạn:
“…Muốn mà không được thì không thể không tìm tòi, đòi hỏi, tìm tòi đòi hỏi mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh, tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng... Tiên vương ghét loạn cho nên chế định lễ, nghĩa để phân ra trật tự mà “nuôi” (dưỡng) cái muốn của con người, cấp cho con người cái mà lòng họ muốn (…). Cho nên lễ là nuôi (dưỡng)[163]“. (Lễ luận).
TÁC DỤNG CỦA PHÂN
Tác dụng của phân quan trọng hơn hết, không phân thì không tiết, văn, dưỡng được.
Phân là phân biệt phải trái:
“Lễ rất mực rành mạch vì nó phân biệt lời phải lẽ trái” (Chí văn dĩ hữu biệt, chí sát dĩ hữu thuyết[164]. – Lễ luận).
Phân là phân biệt giá trị, địa vị:
“Cho nên tiên vương dùng lễ nghĩa để phân biệt trên dưới, khiến cho sang hèn có đẳng cấp, già trẻ có sai biệt, trí ngu, tài giỏi, kém cỏi đều có phận vị khác nhau” (Cố tiên vương án vi chi chế lễ nghĩa dĩ phân chi, sử hữu quí tiện chi đẳng, trưởng ấu chi sai, trí ngu, năng bất năng chi phân[165]. – Vinh nhục).
Phân còn là phân chia chức vụ, công tác:
“Nhiên hậu, kẻ nông phu chia ruộng mà cày, kẻ đi buôn chia hàng mà bán, các tay thợ chia việc mà làm, sĩ đại phu chia chức vụ mà đảm nhiệm, các vua chư hầu dựng nước chia đất mà giữ, chức tam công bàn về chính sự thuộc phạm vi mình thì thiên tử chỉ cần trang nghiêm ngồi tại vị. Đó là cái tác dụng phân chia lớn lao của lễ pháp” (Nhiên hậu, nông phân điền nhi canh, cổ phân hoá nhi bản, bách công phân sự nhi khuyến, sĩ đại phu phân chức nhi thính, kiến quốc chư hầu chi quân phân thổ nhi thủ, tam công tổng phương nhi nghị, tắc thiên tử cung kỉ nhi dĩ[166](…) Lễ pháp chi đại phân dã.[167] – Vương bá).
Có phân như vậy, ai cũng có địa vị, có nhiệm vụ, có quyền lợi riêng thì mới không tranh nhau, không tranh thì hoà đồng được, hoà hợp được, cho nên lễ có tác dụng phân biệt mà cũng là hợp nhất.
Chẳng những phân chức giữa người và người, lễ còn phân chức giữa người và trời nữa.
“Rõ được đâu là phần trời, đâu là phần người thì có thể gọi được là chí nhân” (Minh thiên nhân chi phận, tắc khả vị chí nhân hĩ.[168] – Thiên luận).
Công năng lớn lao của lễ trong lãnh vực chính trị chính nhờ tác dụng phân này. Công năng của lễ với tác dụng phân đó được nói đầy đủ hơn trong phần chính trị quan ở dưới (Chương 10).
[142] Bất cập giả, sí nhi cập chi: các bản chữ Hán trên mạng chép là “bất chí yên giả, kì nhi cập chi” (不至焉者,跂而及之). (Goldfish).
[143] Vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, ông Thang đuổi vua Kiệt, Vũ vương đánh vua Trụ: Vua Vũ trước đời nhà Hạ, vua Vũ sau đời nhà Chu. (Godfish).
[144] Ghét muốn: Theo nhà phật thì bảy tình là mừng, giận, lo, sợ, yêu, ghét, muốn.
[145]禮有三本:天地者,生之本也,先祖者,類之本也,君師者,治之本也。無天地,惡生?無先祖,惡出?無君師,惡治?三者偏亡焉,無安人。故禮,上事天,下事地,尊先祖,隆君師。是禮之三本也。
[146]礼起於何也?曰:人生而有欲,欲而不得,則不能無求,求而無度量分界,則不能不爭,爭則亂,亂則窮。先王惡其亂也,故制禮義以分之,以養人之欲,給人之求。
[147]治氣養心之術:血氣剛強,則柔之以調和;知慮漸深,則一之以易良;勇膽猛戾,則輔之以道順;齊給便利,則節之以動止;狹隘褊小,則廓之以廣大;卑溼重遲貪利,則抗之以高志;庸眾駑散,則劫之以師友;怠慢僄棄,則炤之以禍災;愚款端愨,則合之以禮樂,通之以思索。凡治氣養心之術,莫徑由禮。
[148] 君子寬而不僈,廉而不劌 (…)察而不激 (…)堅彊而不暴,柔從而不流, 恭敬謹慎而容。夫是之謂至文。Vi Chính Thông (tác giả Tuân Tử Cổ Đại Triết Học) cắt nghĩa: “Được trung là nhờ lễ, cho nên nói “chí văn” (Đắc trung do lễ, cố viết chí văn).
[149] 宜於時通,利以處窮。
[150] 禮者, 人道之極也。
[151] 故人無禮則不生,事無禮則不成,國家無禮則不寧。
[152] 禮者,所以正身也。
[153] 故禮 及身而 行修。
[154] 禮之中焉,能思索,謂之能慮。
[155] 君子 (…) 說不貴苟察 (…) 惟其當之爲貴。
[156] 所以養生安樂者,莫大乎禮義。
[157] 禮者 (…)王公由之所以得天下,不由所以隕社稷。
[158] 天地以合,日月以明,四時以序,星辰以行,江河以流。Giang hà dĩ lưu: Đại ý Tuân muốn nói: Các hiện tượng tự nhiên không tác hại được, công việc sinh sản phát đạt được cũng là nhờ trên dưới biết theo lễ (Quân tử lí thiên địa).
[159] 禮者, 節之準 也。
[160] 飮食,衣服,居處,動靜由禮則和節。
[161] 好惡以節,喜怒以當。
[162] Chi mĩ dã: Mạnh Tử cũng đã nói: “Lễ văn tư nhi dã”: Lễ là để thực hành nhân nghĩa một cách đẹp đẽ.
[163] 故禮者養也。
[164] 至文以有別,至察以有說。(Goldfish).
[165] 故先王案爲之製禮義以分之,使有貴賤之等,長幼之差,知愚,能不能之分。
[166]然後,農分田而耕,賈分貨而販,百工分事而勸,士大夫分職而聽,建國諸侯之君分土而守,三公總方而議,則天子共己而已。
[167] 禮法之大分也。(Goldfish).
[168] 明天人之分,則可謂至人矣。