← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI BÀN VỀ LÒNG DỤC

DỤC (LÒNG MUỐN) CÓ THỨ ĐÁNG ĐỀ CAO

DỤC có thứ đáng quí, đáng đề cao, có thứ không nên trọng mà phải canh chừng.

Cái DỤC LẬP, DỤC ĐẠT cho mình và cho người của bậc nhân giả[127], cái DỤC NGHĨA của Mạnh Tử[128], cái DỤC CAO QUÍ của Krishnamurti muốn đạt chân lí và đức hạnh[129]… đó là những lòng dục thuộc loại đáng quí, đáng đề cao. Còn những thức dục khác, những lòng dục thấp kém, những tư dục vì “vô minh”, sản phẩm của lòng tham, sân, si, thứ lòng dục mà Vương Dương Minh mệnh danh là “quân giặc ở trong lòng ta”[130] thì không nên trọng mà phải canh chừng.

QUAN NIỆM DỤC CỦA TUÂN TỬ

Tuân Tử thấy cái thứ dục thứ hai này hại người ta nhiều lắm, nó hay đi quá trớn đưa tới sự tranh giành lẫn nhau, làm rối loạn trật tự xã hội. Sở dĩ ông khẳng định tính người là ác, chính vì “chất” của tính người là thứ lòng dục này. Ông nhận rằng:

1/ DỤC (lòng muốn) là thành phần tâm lí CÓ TÍNH CÁCH TỰ NHIÊN:

“Người ta sinh ra là có lòng muốn” (Nhân sinh nhi hữu dục.[131] – Lễ luận).

2/ DỤC không thể bỏ

Vì DỤC là “chất” của tính, tính không thể bỏ, nên DỤC cũng KHÔNG THỂ BỎ:

“Cho nên dù là người coi cổng thành (địa vị kém nhất) cũng không thể bỏ được lòng dục, bởi dục là cái biểu hiện cụ thể của tính” (Cố tuy vi thủ môn, dục bất khả khứ, tính chi cụ dã.[132] – Chính danh).

3/ DỤC không thể thoả mãn hết

“Dù là thiên tử (địa vị sang nhất) cũng không thể thoả mãn hết được lòng dục” (Tuy vi thiên tử, dục bất khả tận[133] – Chính danh). Một là vì lòng dục không biết giới hạn, được một lại muốn mười, chẳng hề biết chán:

“Tình người ta, ăn muốn có thịt (loài ăn cỏ, ăn thóc), mặc muốn có đồ thêu, đi muốn có xe, có ngựa, lại muốn thừa tiền của, súc tích làm giàu. Vậy mà hết đời, trọn kiếp vẫn không biết đủ. Đó là tính người ta” (Nhân chi tình, thực dục hữu sô hoạn, y dục hữu văn tú, hành dục hữu dư mã, hựu dục phù dư tài, súc tích chi phú dã, nhiên nhi cùng niên luỹ, thế bất tri túc. Thử nhân chi tính dã.[134] – Vinh nhục).

Hai là lòng dục ai cũng như ai: “ai cũng muốn đẹp, muốn giòn”, ai cũng muốn hay, muốn hơn:

“Sang làm thiên tử, giàu, có thiên hạ, tính người đều như nhau, muốn được thế cả”.

Giả sử “vật” cũng vô hạn như “dục”, thì có thể để mặc mọi người muốn gì thì muốn, muốn bao nhiêu cũng được. Khốn nỗi “dục” vô cùng, mà “vật” lại hữu hạn, cho nên cái thế bắt buộc không thể thoả mãn hết được lòng dục.

4/ TIẾT DỤC, đạo dục

Lòng dục đã không thể thoả mãn hết, thì lòng dục phải đòi hỏi:

“Người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm tòi, đòi hỏi” (Nhân sinh nhi hữu dục, dục nhi bất đắc, tắc bất năng vô cầu. – Lễ luận).

Lòng dục vốn mù quáng: “Tìm tòi, đòi hỏi mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh, tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng” (Cầu nhi vô độ, vô lượng, tắc bất năng bất tranh, tranh tắc loạn, loạn tắc cùng. – Lễ luận).

Lòng dục đã không thể bỏ, lại không thể nuông, không thể “túng” được: “Buông thả lòng ham muốn mà không gặp giới hạn thì lòng dân xung động, nổi lên tranh giành, không thể thuyết phục (làm cho vui lòng) được (…), sự túng dục sẽ làm hại thiên hạ” (Túng dục nhi bất cùng, tắc dân tâm phấn nhi bất khả duyệt dã (…) Thiên hạ hại sinh túng dục[135] – Phú quốc).

Tiến lui đều gặp ngõ cụt, phải đối phó làm sao bây giờ? Tuân Tử không chủ trương “quả dục” (ít lòng dục) như Mạnh Tử, bởi ông thấy “dục” nhiều là tính tự nhiên của con người, chê Tống Kiên lầm khi bảo rằng “tính người ta muốn ít”, ông nói:

“…Người xưa không nghĩ vậy, (người xưa) cho rằng tình người ta muốn nhiều, chứ không muốn ít, cho nên thưởng thì cho (thêm) giàu có, mà phạt thì rút bớt đi” (…Cổ chi nhân vi chi bất nhiên, dĩ nhân vi tình vi dục đa, nhi bất dục quả, cố thưởng dĩ phú hậu, nhi phạt dĩ sái tổn.[136]– Chính luận).

Và ông chủ trương Tiết dục, Đạo dục. Ông nói:

“Lòng dục tuy không thể bỏ, nhưng vẫn có thể tiết chế nó mà cầu thoả mãn” (Dục tuy bất khả khứ, cầu khả tiết dã.[137] – Chính danh).

“Tiết dục” trái ngược với “túng dục” mà cũng không đồng nghĩa với “quả dục”. “Quả dục” là không cho “đa dục”. “Tiết dục” thì thừa nhận rằng “đa dục” là tự nhiên, nhưng trong trường hợp bất đắc dĩ, thế không thoả mãn được hết lòng dục thì nên tuỳ nghi hạn chế sự đòi hỏi của lòng dục:

“Lòng dục tuy không thể thoả mãn hết, nhưng vẫn có thể thoả mãn gần hết (…) Người có đạo thì, tiến có thể thoả mãn gần hết lòng dục, thoái có thể tiết chế sự mưu cầu” (Dục tuy bất khả tận, khả dĩ cận tận dã (…) Đạo giả, tiến tắc cận dã, thoái tắc tiết cầu.[138] – Chính danh).

“Đạo dục” là dẫn dắt lòng dục, sao cho “dục trúng lí”, nghĩa là đúng với lễ, đừng thái quá, cũng chẳng cầu bất cập.

“Đạo dục” là việc của tâm. Tâm phải sáng suốt để dẫn dắt lòng dục cho nó đúng mức:

“Cho nên, khi cái dục thái quá (quá mức lễ nghĩa cho phép) mà hành động bất cập, là vì cái tâm ngăn lại. Con tâm cho là phải mà phán đoán của con tâm đúng lí thì cái dục tuy nhiều cũng không hại gì cho việc trị. Cái dục bất cập mà hành động thái quá, là bởi con tâm sai khiến. Con tâm cho là phải mà phán đoán của con tâm không đúng lí thì cái dục tuy ít cũng không ngăn được mối loạn. Cho nên trị hay loạn là do phán đoán của con tâm đúng lí hay không đúng lí, chứ không phải do cái muốn của tình nhiều hay ít” (Cố dục quá chi nhi động bất cập, tâm chỉ chi dã. Tâm chi sở khả trúng lí, tắc dục tuy đa, hề thương ư trị? Dục bất cập nhi động quá chi, tâm sử chi dã. Tâm chi sở khả thất lí, tắc dục tuy quả, hề chỉ ư loạn? Cố trị loạn tại ư tâm chi sở khả, vô ư tình chi sở dục.[139] – Chính danh[140]).

5/ DƯỠNG DỤC

Đặc biệt hơn nữa, Tuân Tử còn chủ trương DƯỠNG DỤC:

DƯỠNG DỤC là NUÔI LÒNG DỤC. Muốn tiết dục được như ý, muốn ít ra cũng thoả mãn được gần hết lòng dục, thì điều kiện tất yếu hẳn là phải tăng gia sản xuất, đối tượng của lòng dục, càng nhiều càng hay. Dục cũng chính là động cơ sáng kiến, thúc đẩy sản xuất. Cho nên, không như Mạnh Tử, sợ lòng dục làm thui chột “bốn đầu mối” (nhân, lễ, mghĩa, trí), Tuân Tử bảo phải: “DƯỠNG DỤC” mà “CẤP CẦU”:

“Tiên vương (…) nuôi cái muốn của con người, cấp cho con người cái mà lòng họ muốn, khiến cho cái muốn không đến cùng kiệt các vật, (nghĩa là phải có giới hạn), các vật không làm cùng kiệt cái muốn. Hai cái đó (muốn và vật) phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng” (Tiên vương (…) dưỡng nhân chi dục, cấp nhân chi cầu, sử dục tất bất cùng hồ vật, vật tất bất khuất ư dục, lưỡng giả tương trì nhi trưởng.[141] – Lễ luận).

Thuyết “dưỡng dục” và “cấp cầu” đồng thời cũng tiết dục, đạo dục của Tuân Tử thực vừa độc đáo vừa đầy đủ. Dân tộc Trung Hoa chỉ tiết dục (theo chủ trương đại đa số các triết gia của họ) mà không dưỡng dục nên kinh tế không phát triển, mặc dầu xã hội được ổn định, các dân tộc Âu, Mĩ chỉ dưỡng dục và cấp cầu nên kinh tế, kĩ nghệ hai thế kỉ nay phát triển rất mạnh, phú cường hơn Trung Hoa nhiều, nhưng họ lại không biết tiết dục, đạo dục, tạo thêm hoài nhu cầu, sản xuất cho thật nhiều, để tiêu thụ cho thật mạnh, nên hiện nay họ và cả thế giới đương lo cái nạn nhân mãn, nạn tinh cầu nhiễm uế và nạn khô cạn tài nguyên, chỉ trong nửa thế kỉ nữa sẽ tới cái mức bi đát, gây nên những xáo trộn không tưởng tượng nổi trên thế giới.

Biện pháp tiết dục, đạo dục và dưỡng dục mà thành công là, một mặt, nhờ vào công phu tu dưỡng của chủ thể, để con tâm luôn luôn sáng suốt, trúng lí, mặt khác, nhờ có tiêu chuẩn khách quan ngoại bộ là lễ mà tinh thần là trung và tác dụng lớn nhất, theo Tuân Tử, là phân (xem chương sau).

[127] Nhân giả: “Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân” (Luận Ngữ - Ung dã): Người nhân là người mình muốn tự lập mà cũng giúp cho người tự lập, mình muốn thông đạt mà cũng giúp cho người thông đạt.

[128] Dục nghĩa của Mạnh Tử: “Sinh diệc ngã sở dục dã, nghĩa diệc ngã sở dục dã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xá sinh nhi thủ nghĩa giả dã” (Mạnh Tử - Cáo Tử): Sống là điều ta muốn, nghĩa cũng là điều ta muốn, nếu hai cái đó không thể cùng có, thì ta bỏ cái sống mà giữ cái nghĩa.

[129] Đức hạnh: “Toutes les formes du désir jusqu’au noble désir de vérité et de vertu, deviennent un processus psychologique au moyen duquel l’esprit construit l’idée du moi” (La Première et Dernier Liberté – Stock, Paris 1955, page 109): Tất cả hình thức của DỤC, kể cả lòng DỤC cao quí muốn đạt chân lí và đức hạnh đều trở thành quá trình hoạt động tâm lí, nhờ đó tâm linh kiến tạo cái ý niệm về bản ngã.

[130] Trong lòng ta: “Phá sơn trung chi tặc dị, phá tâm trung chi tặc nan” (Vương Dương Minh – Vương Văn Thành Công Toàn Thư): Phá giặc trong núi dễ, phá giặc trong lòng khó.

[131] 人生有而欲。

[132] 故雖爲守門,欲不可去,性之具也。

[133] 雖爲天子,欲不可盡。

[134] Nguyên văn câu trước thì đã chép trong chương V: Tính ác; còn câu cuối thì trong sách không chép thêm; các bản trên mạng chép là: 是人之性也 (Thị nhân chi tính dã). (Goldfish)].

[135] 縱欲而不窮,則民心奮而不可說也 (…) 天下害生縱欲。

[136] 古人之爲之不然,以人之情爲欲多,而不欲寡,故賞以富厚,而罰以殺損。

[137] 欲雖不可去,求可節也。

[138] 欲雖不可盡,可以近盡也(…)道者,進則近盡也,退則節求。

[139]故欲過之而動不及,心止之也。心之所可中理,則欲雖多,奚傷於治?欲不及而動過之,心使之也。心之所可失理,則欲雖寡,奚止於亂?故治亂在於心之所可,無於情之所欲。

[140] Chính danh: sách in là “Chính luận”.

[141] 先王(…)養人之欲,給人之求,使欲必不窮乎物,物必不屈於欲,兩者相持而長。