CHƯƠNG VIII BÀN VỀ NHẠC
Nền chính giáo lễ nhạc cổ truyền
Định nghĩa của nhạc
Tính chất và tác dụng của nhạc
Sức mạnh của nhạc đối với sự nghiệp giáo dục
Ảnh hưởng của âm nhạc đối với sinh hoạt xã hội
Ảnh hưởng của ạm nhạc đối với chính trị
Nhạc tăng cường và bổ túc cho tác dụng của lễ
NỀN CHÍNH GIÁO LỄ NHẠC CỔ TRUYỀN
Chế độ Lễ Nhạc ở Trung Hoa được thiết lập vào sơ kì Tây Chu. Từ đó, hai quan niệm coi như cơ sở của nền vương chính:
“Lấy lễ tề nhất, dùng nhạc giáo hoá”.
nay, được các triết gia, học giả bàn đến khá nhiều[169]. Riêng Nho gia coi Lễ và Nhạc vốn cùng chung một gốc là đức Nhân[170] và cùng nâng dựa lẫn nhau như đôi cánh của con chim, không thể lìa nhau thiếu một.
“Đạt đến lễ mà không đạt đến nhạc, gọi là mộc mạc, đạt đến nhạc mà không đạt đến lễ, gọi là lệch lạc” (Đạt ư lễ nhi bất đạt ư nhạc, vị chi tố, đạt ư nhạc nhi bất đạt ư lễ, vị chi thiên.[171] – Lễ Kí, Trọng Ni yên cư).
Cho nên học phái này hễ bàn đến lễ là bàn đến nhạc và ngược lại. Nho gia bàn về lễ nhạc, nhiều và rõ nhất là Tuân Tử. Ông viết cả một thiên Lễ luận (Bàn về lễ) và cả một thiên Nhạc luận (Bàn về nhạc). Tuân Tử chú trọng nhiều về công hiệu của nhạc, tức là có tinh thần trọng thực dụng. Mà trọng thực dụng thì không ai bằng Mặc Tử. Nhưng về nhạc thì ý kiến đôi bên trái ngược nhau: Tuân trọng nhạc, Mặc “phi nhạc”, và thiên Nhạc luận của Tuân viết ra chính là để biện chính chủ trương “phi nhạc” của Mặc.
ĐỊNH NGHĨA CỦA NHẠC
Chữ NHẠC của Tuân dùng ở đây không trỏ riêng âm nhạc mà còn cả vũ nữa[172]. Ông nói:
“Nhạc là “lạc”, nghĩa là vui, một tình cảm mà người ta không thể không có (…) Niềm vui phát ra âm thanh, bộc lộ thành cử động (Phù nhạc giả, lạc dã, nhân tình chi sở tất bất miễn dã. Lạc tắc tất phát ư thanh âm, hình ư động tĩnh[173] – Nhạc luận).
TÍNH CHẤT VÀ TÁC DỤNG CỦA NHẠC
Nhạc có tính chất trung hoà, do đó, tác dụng của nó là kết hợp, điều tiết và văn sức. Những tác dụng đó có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp giáo dục, sinh hoạt xã hội và chính trị.
SỨC MẠNH CỦA NHẠC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
Nhạc trước hết giải toả được tình ưa ghét chất chứa trong tâm tư mà cải thiện được lòng người:
“Nhạc là cái thánh nhân lấy làm vui, nó có thể cải thiện được tâm tình dân chúng, vì sức cảm hoá lòng người rất sâu xa, nó có thể di phong dịch tục dễ dàng. Tiên vương dẫn dắt dân bằng lễ nhạc mà dân hoà mục. Có người dân nào mà chả có tình ưa ghét, nếu không khéo khơi dậy niềm mừng vui, nỗi tức giận để thuận ứng những tình cảm đó thì tất sẽ hỗn loạn. Tiên vương ghét sự hỗn loạn, cho nên sửa hạnh cho tốt đẹp, sửa nhạc cho nghiêm chỉnh để thiên hạ thuận tòng” (Nhạc giả, thánh nhân chi sở lạc nhi khả dĩ thiện dân tâm, kì cảm nhân thâm, kì di phong dịch tục. Cố tiên vương đạo chi dĩ lễ nhạc nhi dân hoà mục. Phù dân hữu hiếu ố chi tình nhi vô hỉ nộ chi ứng tắc loạn. Tiên vương ố kì loạn dã, cố tu kì hạnh, chính kì nhạc, nhi thiên hạ thuận yên.[174] – Nhạc luận).
Nghe nhạc, tập vũ, không phải chỉ để cảm quan của chúng ta thêm linh mẫn, cho động tác của chúng ta thêm hoạt bát, uyển chuyển, nhạc và vũ còn rèn luyện ý chí ta, ảnh hưởng tới tư tưởng ta: nhạc và vũ nhu hoà làm phấn phát những tình tự âu yếm, nhạc và vũ hùng tráng làm sôi sục ý chí đấu tranh.
“Sức cảm hoá nhân tâm của âm nhạc rất sâu xa, cho nên tiên vương cẩn thận làm cho nhạc tốt đẹp. Âm nhạc mà trung chính thì dân hoà nhã mà không buông thả quá trớn, âm nhạc nghiêm trang thì dân có kỉ luật mà không hỗn loạn” (Phù thanh nhạc chi nhập nhân dã thâm, kì hoá nhân giả tốc, cố tiên vương cẩn vi chi văn. Nhạc trung bình tắc dân hoà nhi bất lưu, nhạc túc trang tắc dân tề nhi bất loạn.[175] – Nhạc luận).
“Nghe âm thanh Nhã, Tụng thì ý chí rộng mở, cầm khiên cầm búa tập cúi ngửa, co duỗi thì dung mạo trang nghiêm, đi đứng vào nhịp thì hàng ngũ ngay ngắn, tiến lui chỉnh tề. Cho nên có thể dùng nhạc, ngoài, để thảo phạt, trong, để vái nhường, thảo phạt hay vái nhường, ý nghĩa vẫn là một” (Thính kì Nhã, Tụng chi thanh, nhi chí ý đắc quảng yên, chấp kì càn thích, tập nhi phủ ngưỡng khuất thân, nhi dung mạo đắc trang yên, hành kì xuyết triệu, yêu kì tiết tấu nhi hành liệt đắc chính yên, tiến thoái đắc tề yên. Cố nhạc giả, xuất sở dĩ chính tru dã, nhập sở dĩ ấp nhượng dã, chính tru, ấp nhượng, kì nghĩa nhất dã.[176] – Nhạc luận).
ẢNH HƯỞNG CỦA ÂM NHẠC ĐỐI VỚI SINH HOẠT XÃ HỘI
Âm nhạc cũng như thi ca là thứ nghệ thuật đi thẳng vào tâm hồn người, ít cần đến trung gian của lí trí. Nó run động bằng tiết điệu, bằng ảnh tượng, hơn là bằng lời. Thế cho nên nó thao túng tình cảm ta rất dễ, chi phối ý chí ta rất mạnh, nó gợi cả cái thiện lẫn cái mĩ trong linh thức của ta và ta có cảm giác lâng lâng chơi vơi như cất cánh bay về biên duyên vô cực của nó. Nhận thức của họ Tuân về cái tác dụng huyền diệu này của nhạc thật là tinh vi, sâu sắc:
“Âm nhạc “lành mạnh” mà thịnh hành thì ý chí người ta thanh khiết, lễ nghĩa được chân chính và những nết hay thói tốt có thể dưỡng thành, phong tục được sửa đổi, thiên hạ được an ninh, cái mĩ, cái thiện đều được người ta vui thích” (Nhạc hành nhi chí thanh, lễ tu nhi hạnh thành (…) di phong, dịch tục, thiên hạ giai ninh, mĩ thiện tương lạc.[177] - Nhạc luận).
Khi mọi người nhờ lễ nhạc đã đều có được những điều kiện sinh lí, tâm lí quân bình và kiện khang như vậy thì đời sống tập thể trong cảnh thanh bình tất nhiên phải đẹp đẽ vô cùng rồi. Quả thật “vàng đá, tơ trúc là cái dìu dắt đức tốt” và quả thật “nhạc (tốt lành) mà thịnh hành thì dân hướng về nghĩa” (Kim thạch ti trúc sở dĩ đạo đức dã… nhạc hành nhi dân hướng phương hĩ. Cố nhạc giả trị nhân chi thịnh giả dã.[178] – Nhạc luận).
“Âm thanh Nhã Tụng (…) đủ cảm lòng người mà kích thích những ý thiện không cho những tà niệm, tục khí có chỗ dậy lên (…) cho nên nhạc tấu nơi tôn miếu, vua tôi, trên dưới cùng nghe thì chẳng ai là chẳng thuận hoà tương kính, nhạc tấu nơi khuê môn, cha con, anh em cùng nghe, thì chẳng ai là chẳng thuận hoà tương thân, nhạc tấu nơi hương đảng, già trẻ cùng nghe, thì chẳng ai là chẳng thuận hoà tương nhượng” (Nhã, Tụng chi thanh (…) túc dĩ cảm động nhân chi thiện tâm, sử phù tà ố chi khí vô do đắc tiếp yên (…) Cố nhạc tại tôn miếu chi trung, quân thần thượng hạ đồng thanh chi, tắc mạc bất hoà kính, khuê môn chi nội, phụ tử huynh đệ đồng thính chi, tắc mạc bất hoà thân, hương lí tộc trưởng chi trung, trưởng thiếu đồng thính chi, tắc mạc bất hoà thuận.[179] – Nhạc luận).
Như đã nói ở trên, tính chất HOÀ của nhạc có tác dụng giúp ta giải toả những ẩn ức, tháo gỡ những hiểu lầm, xoá bỏ những hiềm nghi mà mở đường thông cảm. Trong đám đông, nhạc hiện diện như một thể xúc tác, khiến cho mọi người dễ nhích lại gần nhau, dễ nhường nhịn nhau, bước đầu đi tới chỗ tương thân, tương ái, chẳng những giữa những người vốn có liên lạc mật thiết hoặc thường hằng với nhau như vua tôi, cha con, anh em, xóm làng… mà có thể còn cả giữa những người xa lạ ít gặp gỡ nữa. Những cuộc cải vã, đánh lộn thường xảy ra nhiều trong tửuquán (cũng có nhạc vui?) chứ ít khi nghe to tiếng, thấy đấm đá trong các trà thất dặt dìu những khúc tình ca.
ẢNH HƯỞNG CỦA ÂM NHẠC ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ
“Nhạc biến hoá khí chất”, có thể “di phong dịch tục”, cho nên chế nhạc một cách có ý thức mà dìu dắt ý tình quần chúng thì có thể dập tắt được mầm loạn, tiến tới cảnh trị bình.
“Âm nhạc mà trung chính thì dân hoà nhã mà không buông thả quá trớn, âm nhạc nghiêm trang thì dân sẽ có kỉ luật mà không hỗn loạn. Dân mà hoà nhã, trật tự thì binh mạnh, thành bền, nước địch không dám xúc phạm, thì trăm họ vui sống ở dưới, trong cảnh làng xóm, vua quan vui trị ở trên, mà sau thanh danh được sáng tỏ, vinh quang được rực rỡ, nhân dân trong bốn bể chẳng không ai là không muốn coi (bậc vương giả ấy) làm sư trưởng của mình. Đó là khởi điểm, là đầu mối của vương nghiệp” (Nhạc trung bình tắc dân hoà nhi bất lưu, nhạc túc trang tắc dân tề nhi bất loạn, dân hoà tề tắc binh kính, thành cố, địch quốc bất cảm anh dã. Như thị, tắc bách tính mạc bất an kì xử, lạc kì hương dĩ chí túc kì thượng hĩ. Nhiên hậu, danh thanh ư thị bạch, quang huy thị đại, tứ hải chi dân mạc bất nguyện đắc dĩ vi sư. Thị vương giả chi thuỷ dã.[180]– Nhạc luận).
Chế nhạc, dùng nhạc phải phép khiến cho trăm họ vui sống, các nước địch phải kiêng gờm, như thế là “tiên vương đã dùng văn sức (tô điểm) cái vui, văn sức cái giận vậy” (Tiên vương chi sở dĩ sức hỉ dã (…) tiên vương chi sở dĩ sức nộ dã.[181] – Nhạc luận).
Âm nhạc ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị, ngược lại, chính trị đắc thất cũng biểu lộ rõ ràng bằng âm thanh:
“Đặc trưng của thời loạn (…) là âm nhạc nhố nhăng (hiểm quái)” (Loạn thế chi trưng (…) kì thanh nhạc hiểm.[182] – Nhạc luận).
Nhận xét này cũng ghi lại đậm nét trong sách Nhạc Kí:
“Âm nhạc của đời trị thì êm ả, vui vẻ, vì chính trị hoà dịu, âm nhạc của đời loạn thì oán hận, giận dữ, vì chính trị ngang trái, nhạc của nước bị mất thì thương xót và nhớ nhung, vì dân khốn khổ. Cái đạo thanh âm vốn tương quan, tương thông với chính trị vậy” (…Trị thế chi âm an dĩ lạc, kì chính hoà, loạn thế chi âm, oán dĩ nộ, kì chính quái, vong quốc chi âm ai dĩ tư, kì dân khốn. Thanh âm chi đạo dĩ chính thông hĩ.[183] – Nhạc bản).
“Cái đạo thanh âm tương quan, tương thông với chính trị” cho nên “xét nhạc biết được chính mình” (thẩm nhạc dĩ tri chính.[184] – Nhạc bản).
Vì hiệu lực mạnh mẽ của nhạc đối với sự nghiệp giáo dục và vì ảnh hưởng lớn lao của nhạc đối với sinh hoạt xã hội, chính trị, cho nên các tiên vương rất xem trọng nhạc. Nhạc còn được xem trọng vì một lẽ nữa:
NHẠC TĂNG CƯỜNG VÀ BỔ TÚC CHO TÁC DỤNG CỦA LỄ
“Nhạc là cái HOÀ bất khả biến, lễ là cái lí bất khả dịch. Nhạc vốn hoà để hợp, lễ theo lí mà phân. Lễ, nhạc là giường mối chính, nó có thể bảo quản lòng người. Tác động sâu xa đến tận gốc rễ, thích ứng linh động với mọi chuyển biến, đó là cái tình thực của nhạc, giãi bày niềm trung thành, trừ khử thói dối trá, đó là phép thường của lễ” (Thả nhạc dã giả, hoà nhi bất khả biến giả dã, lễ dã giả, lí chi bất khả dịch dã. Nhạc hợp đồng, lễ biệt dị, lễ nhạc chi thống quản hồ nhân tâm hĩ. Cùng bản cực biến, nhạc chi tình dã, trước thành khử nguỵ, lễ chi kinh dã[185] – Nhạc luận).
“Lễ theo lí mà phân”, lí thường lạnh lùng, phân mà rõ quá, gắt quá thì dễ li dù là giữa người thân cũng vậy. Nhạc thì hoà, nặng về tình, tình có thể giúp lí mà hàn gắn mọi li tán, ngăn ngừa mọi đổ vỡ.
Vả lại, sức tác dụng của lễ là từ ngoài tới, sức tác dụng của nhạc là từ trong ra. Sách Lễ Kí, Văn vương thế tử nói: “Nhạc để sửa sang bên trong, lễ để sửa sang bên ngoài” (Nhạc sở dĩ tu nội dã, nhạc sở dĩ tu ngoại dã). Nhạc Thư cũng nói: “Cho nên nhạc tác động ở bên trong, lễ tác động ở bên ngoài” (Cố nhạc dã giả, động ư nội giả dã, lễ dã giả, động ư ngoại dã).
Sức tác động từ ngoài của lễ có thể là rõ ràng nhưng thường không bền, sức tác động ở bên trong của nhạc tuy vô hình nhưng thường thấm thía bền vững. Cái tác động thấm thía, bền vững của nhạc ấy rất cần để tăng cường bổ túc cho cái tác động của lễ tuy rõ rệt nhưng có khi hời hợt mong manh.
*
* *
Tuân Tử rất đề cao nhạc, cho nên ông lấy làm quái về cái chủ trương “phi nhạc” của Mặc gia vì Mặc kết tội nhạc là thứ nhạc của bọn cần quyền, xa xỉ, không ích gì cho dân, mà tốn của dân. Trái lại, Tuân Tử năm lần, bảy lượt, nhắc đi nhắc lại câu hỏi: “Mặc Tử chê nhạc nghĩa là làm sao?” (Nhi Mặc Tử phi chi nại hà?). Và ông kết luận: Mặc đáng làm tội: “Thế mà Mặc Tử lại cho lễ nhạc là không phải thì thật đáng làm tội” (Nhi Mặc Tử phi chi, cơ ngộ hình dã).
Thật ra, kết tội Mặc thì oan cho Mặc. Không phải Mặc không biết trọng lễ nhạc. Không phải Mặc chỉ thấy cái lợi của cái “hữu” mà không thấy cái dụng của cái “vô”. Cũng không phải Mặc không biết cái lẽ “ngựa kéo mãi không nghĩ, cung dương mãi không buông, giống có huyết khí ai mà chịu nổi” (Lời Trịnh Phồn phê bình chủ trương “phi nhạc” của Mặc trong Tam Biện). Sở dĩ Mặc “phi nhạc” là vì dân chúng đương thời cùng khổ quá mà đối với trăm họ đói rét thì cơm áo cấp thiết hơn âm nhạc, ca vũ và các bộ môn nghệ thuật khác nhiều. Có lẽ chỉ giản dị như thế thôi!
[169] Khá nhiều: Nho gia, Mặc gia, những học phái tích cực hữu vi, rất quan tâm đến trị đạo, bàn đến Lễ Nhạc, đã đành; Đạo gia chủ trương “phóng nhiệm vô vi” mà cũng bàn đến Lễ Nhạc, cố nhiên theo quan điểm khác. Trang Tử coi “nhân nghĩa, thị phi là một mối bòng bong” (Nam Hoa Kinh – Tề Vật Luận): Nhân nghĩa chi đoan, thị phi chi đồ, phàn nhiên hào loạn”), thế mà khi bàn đến Nhạc thì ông bàn rất hay, bảo: “Thứ nhạc tuyệt vời là thứ nhạc không âm thanh” (Chí nhạc vô thanh). Thì ra mười thế kỉ trước Bạch Lạc Thiên, ông đã cảm thấy cái “vô thanh” thắng cái “hữu thanh” mà Tư Mã Giang Châu, đêm Tầm Dương đã nói đến (Tì Bà Hành: “Tòng thử vô thanh thắng hữu thanh”). [Các bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị đang lưu hành trên mạng và trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê đều chép là: “Thử thời (此時) vô thanh thắng hữu thanh”. (Goldfish)].
[170] Đức nhân: chứ không phải là “ngọc lụa và chuông trống”. Khổng Tử nói: “Lễ ư! lễ ư! đâu phải chỉ là ngọc và lụa, nhạc ư! nhạc ư! đâu phải chỉ là chuông và trống” – (Luận Ngữ, Dương Hoá) và “Người mà chẳng có đức nhân, thì dùng thế nào được lễ! Người mà chẳng có đức nhân thì dùng thế nào được nhạc!” – (Luận Ngữ, Bát dật).
[171] 達於禮而不達於樂,謂之素,達於樂而不達於禮,謂之偏。
[172] Ca vũ nữa: Nhạc của Mặc Tữ, trong danh từ “Phi nhạc” cũng trỏ chung âm nhạc, cả vũ và các bộ môn nghệ thuật khác (Xin xem chuyết tác Đại cương triết học Trung Quốc – cùng tác giả).
[173] 夫樂者,樂也,人情之所必不免也。樂則必髮於聲音,形於動靜。
[174]樂者,聖人之所樂而可以善民心,其感人深,其移風易俗。故先王導之以禮樂而民和睦。夫民有好惡之情而無喜怒之應則亂;先王惡其亂也,故修其行,正其樂, 而天下順焉。
[175]夫聲樂之入人也深,其化人也速,故先王謹爲之文。樂中平則民和而不流,樂肅莊則民齊而不亂。
[176]聽其雅頌之聲,而志意得廣焉,執其干戚,習其俯仰屈伸,而容貌得莊焉,行其綴兆,要其節奏,而行列得正焉,進退得齊焉。故樂者,出所以徵誅也,入所以揖讓也,徵誅揖讓,其義一也。
[177]樂行而志清,禮修而行成 (…)移風易俗,天下皆寧,美善相樂。
[178] 金石絲竹所以道德也… 樂行而民向方矣。故樂者治人之盛者也。
[179] 雅頌之聲(…)足以感動人之善心,使夫邪汙之氣無由得接焉 (…) 故樂在宗廟之中,君臣上下同聽之,則莫不和敬,閨門之内, 父子兄弟同聽之,則莫不和親,鄉里族長之中,長少同聽之,則莫不和順。
[180]樂中平則民和而不流,樂肅莊則民齊而不亂。民和齊則兵勁城固,敵國不敢嬰也。如是,則百姓莫不安其處,樂其鄉,以至足其上矣。然後,名聲於是白,光輝於是大,四海之民莫不愿得以爲師,是王者之始也。
[181] 先王之所以飾喜也 (…) 先王之所以飾怒也。
[182] 亂世之徵 (…) 其聲樂險。
[183] 治世之音安以樂,其政和,亂世之音怨以怒,其政乖,亡國之音哀以思,其民困。聲音之道,與政通矣。
[184] 審樂以知政。
[185]且樂也者,和之不可變者也,禮也者,理之不可易者也。樂合同,禮別異,禮樂之統管乎人心矣。窮本極變,樂之情也,著誠去偽,禮之經也。