CHƯƠNG IX TU DƯỠNG
Mục tiêu tu dưỡng: thành thánh nhân
Cương lãnh tu dưỡng: tri minh, hành tu
Đường lối tu dưỡng
MỤC TIÊU TU DƯỠNG: THÀNH THÁNH NHÂN
Trong các thiên Phi thập nhị Tử, Đại lược, Giải tế, Phi tướng, Tính ác, Tuân Tử chia nhân cách ra làm nhiều đẳng cấp. Trên hết là thánh nhân, thứ đến là quân tử, sĩ, thấp nhất là tiểu nhân[186].
Thánh nhân là người tài đức tột vời, có cái học “năng toàn, năng tận, năng tuý” (Trọn vẹn, suốt khắp, tinh vi, thuần nhất) như Khổng Tử, có cái biết “quán thông thấu triệt cái qui luật tính nội tại của sự vật” (Giải tế) và đủ bốn đức Hậu (trọng hậu), Đại (lớn lao), Cao (cao cả), Minh (sáng suốt) (Lễ luận). Cảnh giới của thánh nhân (hay chí nhân) là cảnh giới “Duy tinh, duy nhất” (Giải tế), ở cảnh giới đó, “thánh nhân cảm thông thần minh” mà “tham tán trời đất” (Tính ác).
Thánh nhân có thể học tập mà thành, cảnh giới thánh nhân có thể tu dưỡng mà tới. Thánh nhân là người thường nhờ công phu “tích nguỵ” mà thành (Thánh nhân giả, nhân chi sở tích nhi trí hĩ.[187] – Tính ác).
Mà nhân cách ấy, cảnh giới ấy phải là MỤC TIÊU TU DƯỠNG của người thường không cam tâm tự bạo, tự khí:
“Kẻ có học cố nhiên là học làm thánh nhân” (Cố học giả, cố học vi thánh nhân dã.[188] – Lễ luận).
CƯƠNG LÃNH TU DƯỠNG: TRI MINH, HÀNH TU
Cương lãnh học tập, tu dưỡng, theo Tuân Tử, nói gọn trong bốn chữ “TRI MINH, HÀNH TU”.
TRI MINH là trí tuệ sáng suốt, hiểu mọi lẽ phải trái, hay dở, trị loạn: “Học vấn mà không phân biệt được trái phải, đoán định được cong ngay, biện giải được lẽ trị loạn (…) thì dù có tài năng cũng chẳng ích lợi cho ai, không tài năng thì cũng không thiệt thòi cho ai” (Nhược phù phi phân thị phi, phi tri khúc trực, phi biện trị loạn (…) tuy năng chi vô ích ư nhân, bất năng, vô tổn ư nhân.[189] – Giải tế).
“TRI MINH là biết chọn lấy “một” mà chuyên nhất vào đó” (Cố tri giả, trạch nhất nhi nhất yên.[190] – Giải tế), rồi từ đó suy ra bằng phương pháp “THAO ƯỚC” (Suy đạc: “lấy một biết muôn, lấy nay biết xưa v.v…) mà hiểu rõ.
Biết chỉ quí ở chỗ đem ra thực hành, hành để biết thêm rành rọt:
“Tri lí mọi việc thì cái biết thêm rành” (Dĩ tán kê vật tắc sát.[191] – Giải tế).
HÀNH TU là kiểm điểm lại mình mà sửa sang hành vi cho tốt đẹp, sao cho đừng lỗi lầm:
“Người quân tử học cho rộng mà ngày ngày xét nét nhiều lần động tác của thân tâm thì trí tuệ sáng suốt mà hành vi được sửa sang, không phạm lỗi lầm” (Quân tử bác học nhi nhật tham tỉnh hồ kỉ, tắc tri minh nhi hành vô quá hĩ.[192] – Khuyến học).
ĐƯỜNG LỐI TU DƯỠNG
Học:
1. Muốn TRI MINH thì phải làm sao? theo đường lối nào?
Thứ nhất, phải HỌC. Học cho khỏi ngu lậu. Tuân Tử nhắc đi nhắc lại: ngu lậu là cái mối lo của người ta, là hoạ lớn của thiên hạ. Phải đọc sách, đọc Thi, Thư rồi đọc Lễ. Cần nhất là đọc Lễ:
“Học đến Kinh Lễ là đến chỗ cùng tận. Đó là điểm cao nhất của đạo đức” (Học chí hồ lễ chi hĩ, phù thị chi vị đạo đức chi cực.[193] – Khuyến học).
Rồi, để bổ túc cho học, phải KINH NGHIỆM việc đời:
“Trải nhiều sự biến (…) chịu tu dưỡng, tìm hiểu mà thành được thánh vương”. – Vinh nhục).
Dưỡng tâm:
Thứ nhì: Phải dưỡng tâm cho nó luôn luôn ở trong trạng thái “hư nhất nhi tĩnh”. Tâm có “hư”, “nhất” nhi “tĩnh” thì mới vượt lên trên được những tương quan mâu thuẫn của sự vật nó che lấp nhau, mà thấy rõ được chân tướng sự vật.
Trái hay phải là do con tâm phán đoán: “Trị hay loạn là do phán đoán của con tâm đúng lí hay không đúng lí”. (Chính danh). (Xem chương 11: Vấn đề tri thức: Giải tế, kiêm quyền và hư nhất nhi tĩnh).
Mà cách dưỡng tâm thì “tốt nhất là luyện đức thành”.
“Người quân tử dưỡng tâm thì không gì tốt bằng luyện đức thành. Hễ thành rồi thì còn việc gì làm hại tâm nữa. Chỉ thành tâm giữ lấy điều nhân, chỉ thành tâm làm theo điều nghĩa. Hễ thành tâm giữ lấy điều nhân thì niềm thành tâm tất hiện ra ngoài mà tất có hiệu lực thần diệu, thần diệu thì cảm hoá được người. Hễ thành tâm làm điều nghĩa thì tất thấu lí, thấu lí thì sáng, sáng thì tất biến đổi được lòng người, biến hoá được khí chất, biến hoá được khí chất thì đức sánh được với trời” (Quân tử dưỡng tâm mạc thiện ư thành. Trí thành tắc vô tha sự hĩ. Duy nhân chi vi thủ, duy nghĩa chi vi hành. Thành tâm thủ nhân tắc hình, hình tắc thần, thần tắc năng hoá hĩ. Thành tâm hành nghĩa tắc lí, lí tắc minh, minh tắc năng biến hĩ. Biến hoá đại hưng, vị chi thiên đức.[194] – Bất cẩu).
“Người quân tử (…) thuận đạo trời được là vì biết “thận độc”[195] chuyên thành” (Quân tử (…) thuận mệnh dĩ thận kì độc giả dã.[196] – Bất cẩu).
2. Muốn HÀNH TU thì phải làm sao?
Kiên nhẫn, cương quyết
Khi trí đã minh, đã thấy rõ, thấy đúng thế nào là lễ nghĩa, thì cứ cương quyết chuyên tâm làm điều lễ nghĩa, cứ theo qui phạm khách quan và xác định là lễ mà làm:
“Không phải lễ, chớ nghe, không phải lễ, chớ nhìn, không phải lễ, chớ nói, không phải lễ, chớ hành động”, như lời Khổng Tử đã dạy trong sách Luận Ngữ.
Và “phải lấy pháp độ của thánh vương làm chuẩn đích”. (Giải tế).
Công phu tu dưỡng đòi hỏi đức KIÊN NHẪN, CƯƠNG QUYẾT:
“Hành nhẫn tính tình, nhiên hậu năng tu”. (Nho hiệu).
“Nửa bước chẳng ngừng thì con ba ba què lết mãi không nghỉ cũng tới được đích xa ngàn dặm”.
Lấy thầy bạn, chọn hoàn cảnh
Hai điều kiện rất cần thiết cho việc tu dưỡng nữa là LỰA THẦY BẠN và CHỌN HOÀN CẢNH.
LỰA THẦY BẠN: Phải gần thầy tốt, bạn giỏi:
“Người ta dù có tính chất hơn người và tâm biện biệt sáng suốt, tất vẫn phải tìm thầy hiền mà thờ, chọn bạn tốt mà chơi. Được thầy hiền mà thờ thì nghe toàn đạo vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang… được bạn tốt mà chơi thì thấy toàn hành vi trung tín, kính nhượng, thân hằng ngày tiến vào đường nhân nghĩa mà không tự biết, ấy là vì cảm nhiễm xui nên” (Phù nhân tuy hữu tính chất mĩ nhi tâm biện tri, tất tương cầu hiền sư sự chi, trạch lương hữu nhi hữu chi. Đắc hiền sư sự chi, tắc sở văn giả Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang chi đạo giả., đắc lương hữu nhi hữu chi, tắc sở kiến giả trung, tín, kính, nhượng chi hạnh giả., Thân nhật tiến ư nhân nghĩa nhi bất tự tri dã giả, ma sử nhiên dã.[197] – Tính ác).
“Phàm thuật trị khí dưỡng tâm, mau có kết quả nhất là theo lễ, cần thiết nhất là được thầy tốt, thần diệu nhất là một lòng một dạ yêu điều thiện” (Phàm trị khí dưỡng tâm chi thuật, mạc kính do lễ, mặc yếu đắc sư, mạc thần nhất hiếu.[198] – Tu thân).
Thầy cần thiết nhất là vì lễ tuỳ thời đổi thay (hình thức) để giữ vẹn tính chất “bất khả dịch” của nó là chiết trung hợp lí., nếu không có thầy hiền thì ai vạch cho biết lễ là đúng hay sai? Không có thầy thì ai dạy cho hiểu sâu sắc tinh lí của lễ, những gì là lễ ở ngoài lễ.
“Lễ để dựa vào mà sửa mình, thầy để học hỏi mà sửa lễ cho đúng. Không có lễ thì dựa vào đâu mà sửa mình? Không có thầy thì sao biết thế nào là đúng lễ? (Lễ giả, sở dĩ chính thân, sư giả sở dĩ chính lễ dã. Vô lễ, hà dĩ chính thân? Vô sư, ngô an tri lễ chi vi thị dã?[199] – Tu thân).
CHỌN HOÀN CẢNH
Cần lựa chọn cho mình một hoàn cảnh tốt. Hoàn cảnh tốt là một nhân tố ngoại bộ rất cần cho công việc tu dưỡng, tức công việc “khởi nguỵ, hoá tính” – từ thân phận một con người sinh ra vốn tính ác trở thành một thực thể “tận thiện, tận luân” (thánh nhân).
“Cho nên người quân tử, ở tất chọn làng, chơi tất chọn kẻ sĩ, đề phòng chuyện tà bậy mà gần sự trung chính” (Cố quân tử, cư tất trạch hương, du tất tựu sĩ, sở dĩ phòng tà tịch nhi cận trung chính dã.[200] – Khuyến học).
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, không thiếu gì tỉ dụ nói lên ảnh hưởng mạnh mẽ của hoàn cảnh.
“Tập tục làm thay đổi chí, nếp sống làm thay đổi chất (…) ở Sở hoá (theo người) Sở, ở Việt hoá (theo người) Việt, ở “hạ” (nơi văn hóa cao) hoá (theo người) “hạ”, đó chẳng phải tính trời, đó là do tiêm nhiễm dùi mài lâu ngày mà trở thành vậy” (Tập tục di chí, an cửu di chất (…) cư Sở nhi Sở, cư Việt nhi Việt, cư hạ nhi hạ, thị phi thiên tính dã, tích ma sử nhiên dã.[201] – Nho hiệu).
Trong hoàn cảnh tốt, được thầy bạn hay, dưới sự hướng dẫn của bộ óc sáng suốt, của con tâm luôn luôn ở trong trạng thái “đại thanh minh”, hăng say nghĩ hoài về mối nhất quán của sự lí, làm mãi những điều nhân nghĩa theo tiêu chuẩn lễ., trước còn phải gắng, phải nhẫn, phải tự cảnh giới, lâu dần rồi “chí an công”, “hành an tu”., đã tới trình độ “vô cưỡng”, “vô nhẫn”, “vô vi”, “vô nguy” ấy thì cảnh giới “bất mộ vãng”, “bất mẫn lai”[202] của thánh nhân ở ngay đấy rồi.
[186] Tiểu nhân: Cặn kẻ hơn nữa, ông còn chia:
Nho gia ra đại nho, nhã nho, tiểu nho, tục nho (Nho hiệu)
Quân tử ra quân tử thông đạt, quân tử công chính, quân tử cương trực, quân tử cẩn tín (Bất cẩu)
Sĩ ra hiền sĩ, năng sĩ (Vương bá)
Trí ra trí thánh nhân, trí sĩ quân tử, trí tiểu nhân, trí dịch phu (Tính ác)
Dũng ra thượng dũng, trung dũng, hạ dũng (Tính ác), dũng quân tử, dũng tiểu nhân, dũng của lái buôn, trộm cắp, dũng của đồ cẩu trệ (Vinh nhục)
Quân (vua) ra thượng quân, trung quân (Vương chế)
Thần (tôi) ra thánh thần, công thần, soán thần (loạn thần), thái thần (Thần đạo) [Chữ “soán” 篡 (thần), ở sau, có chỗ phiên âm là “thoán” (thần). (Goldfish)].
[187] 聖人者,人之所積致矣。
[188] 故學者,固學爲聖人也。
[189] 若夫非分是非,非治曲直,非辨治亂 (…) 雖能之無益於人,不能,無損於人。
[190] 故知者,擇一而壹焉 。
[191] 以贊稽物 則察。(Goldfish).
[192] 君子博學而日參省乎己,則知明而行無過矣。
[193] 學至乎禮而止矣,夫是之謂道德之極。
[194]君子養心莫善於誠。致誠則無它事矣。惟仁之爲守,惟義之爲行。誠心守仁則形,形則神,神則能化矣。誠心行義則理,理則明,明則能變矣。變化代興,謂之天德。
[195] Thận độc: Tự cảnh giới cả những lúc chỉ có một mình, không ai hay ai biết hành vi tư tưởng của mình. Phương Hiếu Bác hiểu khác, bảo “thận độc” là chuyên nhất.
[196] 君子 (…)順命,以慎其獨者也。
[197]夫人雖有性質美而心辯知,必將求賢師而事之,擇良友而友之。得賢師而事之,則所聞者堯,舜,禹,湯之道也。得良友而友之,則所見者忠,信,敬,讓之行也。身日進於仁義而不自知也者,靡使然也。
[198] 凡治氣養心之術,莫徑由禮,莫要得師,莫神一好。
[199] 禮者,所以正身也,師者,所以正禮也。無禮何以正身?無師,吾安知禮之爲是也?
[200] 故君子, 居必擇鄕, 游必就士,所以防邪辟而近中正也。
[201]習俗移志,安久移質 (…)居楚而楚,居越而越,居夏而夏。是非天性也,積靡使然也。(Goldfish).
[202] Bất mẫn lai: Những chữ có dấu ngoặc kép trong câu này đều rút từ thiên Nho hiệu và Giải tế:
“Chí an công”: Ý nghĩ tự nhiên công bằng,
“Hành an tu”: Hành vi tự nhiên tốt đẹp.