← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XI BÀN VỀ TRI THỨC

Định nghĩa tri thức

Sự phát sinh của tri thức

Mục địch của tri thức

Phương pháp tự biện

Nguyên nhân phát sinh lầm lẫn

“Giải tế”, “kiêm quyền” và “hư nhất nhi tĩnh”

Vấn đề tri và hành

ĐỊNH NGHĨA TRI THỨC

Học giả Trung Hoa hiện đại Đường Quân Nghị, tác giả Triết Học Khái Luận, định nghĩa tri thức luận:

“Tri thức luận là môn học tìm hiểu cái năng tri (năng lực hiểu biết) của chúng ta liên quan với cái sở tri (sự vật, đối tượng của năng tri) ra làm sao để cấu thành tri thức”.

Trong thiên Chính danh, Tuân Tử, từ 22 thế kỉ trước, cũng đã nói tương tự:

“Cái ở người nhờ nó mà người ta hiểu biết gọi là “tri”! “Tri” tiếp xúc với sự vật gọi là “Tr픓 (Sở dĩ tri chi tại nhân dã, vị tri tri, tri hữu sở hợp vị chi trí)[295].

“Tri” trong câu này tức là năng lực hiểu biết, là cái mà họ Đường, mượn danh từ nhà Phật, gọi là “năng tri”., “cái tiếp xúc”, tức là cái nhà Phật gọi là “sở tri”., chữ “trí”, Tuân Tử dùng ở đây trỏ tri thức.

Đối với tri thức con người, Tuân Tử không hoài nghi, dè dặt, như Trang Tử chẳng hạn, - mà tin chắc rằng con người quả có khả năng hiểu biết được sự sự vật và sự vật quả có cái lí để có thể hiểu biết:

“Có khả năng biết là tính của con người., có thể biết được là lí của vật” (Phàm dĩ tri, nhân chi tính dã., khả dĩ tri, vật chi lí dã.[296] – Giải tế).

SỰ PHÁT SINH CỦA TRI THỨC

Cái “tri”, nhờ đó mà người ta hiểu biết, tiếp xúc với sự vật mà cấu thành tri thức. Nhưng sự tiếp xúc đó xảy ra cách nào và tri thức phát sinh như thế nào?

Cơ sở của tri gồm ngũ quan và tâm. Tâm, theo Tuân Tử chỉ là một năng lực, tương đương với ý thức của nhà Phật. Ngũ quan tiếp nhận ấn tượng, tâm thì phân biệt, kiểm nghiệm các ấn tượng đã biết. Hai phần: ngũ quan và tâm đó phải đủ cả thì mới hay biết., thiếu một không xong. Bất cứ tri thức nào về sự vật ngoại giới cũng do đường ngũ quan mà vào, rồi nhờ tác dụng của tâm mà thành tri thức. Tuân Tử nói:

“Tai, mắt, miệng, mũi, hình thể đều có khả năng tiếp xúc với bên ngoài, nhưng không có khả năng thay thế nhau. Như thế gọi là thiên quan., tâm ở giữa, hư, tĩnh để trị (làm chủ) ngũ quan, như thế gọi là thiên quân”[297]. (Nhĩ, mục, khẩu, tị, hình thái các hữu tiếp nhi bất tương năng dã, phù thị chi vị thiên quan. Tâm cư trung hư, dĩ trị ngũ quan, phù thị chi vị thiên quân.[298] – Thiên luận).

“Nhờ cái gì mà con người biết đạo? – Nhờ cái tâm” (Phù hà dĩ tri? – Viết: Tâm. – Giải tế).

“Tâm có cái tác dụng “trưng tri” (do kinh nghiệm tích luỹ mà phản tỉnh, phân biệt được sự vật). Có tác dụng trưng tri thì do tai mà biết được tiếng, do mắt mà biết được hình. Tuy nhiên, cái tác dụng trưng tri tất phải nhờ ngũ quan tiếp xúc với vật và ghi nhận cảm giác mà sau mới biết” (Tâm hữu trưng tri, trưng tri tắc duyên nhĩ nhi tri thanh khả dã, duyên mục nhi tri hình khả dã., nhiên nhi trưng tri tất tương đãi thiên quan chi đương bạ kì loại, nhiên hậu khả dã.[299] – Chính danh).

“Con tâm không sử dụng thì trắng đen trước mắt còn chẳng trông thấy, trống lớn bên cạnh còn chẳng nghe thấy (…)” (Tâm bất sử yên, tắc bạch hắc tại tiền nhi mục bất kiến, lôi cổ tại trắc nhi nhĩ văn (…).[300] – Giải tế).

Ngũ quan tiếp xúc với vật ở ngoại giới và ghi nhận các ấn tượng: mắt ghi ấn tượng của hình sắc, tai ghi ấn tượng của âm thanh… Ghi ấn tượng chưa phải là biết. Tri thức chỉ phát sinh, sau khi có sự can thiệp của tâm. Với năng lực “trưng tri” sẵn có, tâm “triệu tập” (trưng) những kinh nghiệm đã có sẵn về những ấn tượng do ngũ quan vừa cung cấp ấy rồi phân biệt loại mà biết chúng. Tỉ dụ: Có người gọi cửa, tai nghe thấy tiếng gọi, nhưng chưa “biết” là tiếng ai., chỉ sau khi tâm, nhờ kinh nghiệm mà phối kiểm nhớ lại rồi, mới “biết” tiếng gọi đó là tiếng ông X. Tâm không “sử dụng”, không can thiệp thì dù ngũ quan tiếp xúc với ngoại giới, tri thức vẫn không phát sinh. Nhưng sự hoạt động của tâm không thể không nương tựa vào những ấn tượng do ngũ quan nhận được của ngoại giới.

Về sự phát sinh tri thức, chủ trương của Tuân Tử khiến người ta nhớ lại chủ trương của Phật gia. Phật gia cũng cho rằng ngũ căn (phù trần và tịnh sắc, tức ngũ quan và thần kinh) tiếp xúc với ngũ trần (hình sắc, thanh âm, mùi, vị, xúc giác – đối tượng của ngũ quan) mà không có thêm tác dụng của ý thức thì tri thức phát sinh. Duy có điều đôi bên khác nhau là: theo Phật gia, tác dụng của ý thức gia nhập vào ngũ thức để phát sinh tri thức là tác dụng “tự chứng” (tự giác), còn theo Tuân Tử thì tâm sở dĩ “trưng tri” là nhờ kinh nghiệm tích luỹ của nhận thức hàng ngày (chứ tâm không “tự chứng”).

MỤC ĐÍCH CỦA TRI THỨC

Các triết gia Tây phương phần nhiều bàn đến tri thức vì bản thân tri thức. Các triết gia Trung Hoa, nói chung, và Nho gia, nói riêng, thực tế hơn: Tri thức, đối với họ, không được coi là cứu cánh mà chỉ được coi là phương tiện: biết không phải chỉ để biết mà để mưu cầu hạnh phúc cho cuộc sống trần gian, - hạnh phúc cho mình và hạnh phúc cho nhân quần, xã hội.

Tính cách thực tế đó hiển nhiên đặc biệt trong toàn bộ học thuyết Tuân Tử. Ông chủ trương dùng cái tâm “nhân tri” để trị cái tính đa dục (ác) của con người, cho nên ông trọng tri hết sức. Ông bảo: “Biết thì là thánh nhân” (Tri chi vi thánh nhân – Nho hiệu)[301]. Có điều là tuy thừa nhận cái biết về sự vật là rất cần, ông vẫn coi cái biết suy nghĩ (trí lự) là hệ trọng bậc nhất: có biết suy nghĩ thì mới biết đạo. Mà “tâm không thể không biết đạo, tâm không biết đạo thì chẳng cho đạo là phải., lại cho là phải cái không phải đạo (…) Tâm biết đạo rồi sau mới cho đạo là phải., cho đạo là phải rồi sau mới có thể ôm lấy đạo và cấm tuyệt cái phi đạo” (Cố tâm bất khả dĩ bất tri đạo, tâm bất tri đạo, tắc bất khả đạo nhi khả phi đạo (…) Tâm tri đạo nhiên hậu khả đạo., khả đạo nhiên hậu năng thủ đạo dĩ cấm phi đạo.[302] – Giải tế).

Biết đạo là biết lễ nghĩa, là biết cái nguyên lí sự vật. Cái biết đó giúp ta biết rõ sự vật hơn:

“Sành một việc thì trị lí được một việc, sành về đạo thì kiêm trị mọi việc. Chuyên chú vào đạo thì cái biết đúng., trị lí mọi việc thì cái biết thêm rành” (Tinh vu vật giả dĩ vật vật, tinh vu đạo giả kiêm vật vật. Cố quân tử nhất vu đạo nhi dĩ tận kê vật. Nhất vu đạo tắc chính, dĩ tán kê vật tắc sát.[303] – Giải tế).

Vậy mục đích của tri thức là cầu đạo, tức hiểu cái “đại lí” của sự vật, đại lí của sự vật nắm được rồi thì cân nhắc, phán định thị phi sẽ không sai.

PHƯƠNG PHÁP TỰ BIỆN

Thế nào là tin được là không sai? Họ Tuân bảo:

“Biện luận thì phải trọng sự phù hợp với chứng nghiệm (như hai phần của một con dấu chia đôi đem hợp lại). Cho nên ngồi mà nói, đứng lên mà xếp đặt và có thể thi hành được” (Phàm luận giả quí kì hữu biện hợp hữu phù nghiệm., cố toạ nhi ngôn chi, khởi nhi khả thiết, trương nhi khả dĩ hành.[304] – Tính ác).

Biện luận là diễn tả tư tưởng, tư tưởng đúng, biện luận mới đúng., ngược lại, biện luận đúng cũng là dấu hiệu của tư tưởng đúng. Cho nên Tuân nói “biện luận” mà ta có thể hiểu là “tư biện”. Phương pháp tư biện của Tuân Tử có điểm đặc biệt là luôn luôn qui hướng về thực tế: nói phải nghĩ đến làm, làm có được hãy nói, đúng như lời dạy “ngôn có hành, hành có ngôn” của Khổng Tử, người sáng lập ra đạo Nho.

Phương pháp BIỆN HỢP PHÙ NGHIỆM của Tuân sau được học trò ông là Hàn Phi nói rõ hơn, trong chủ trương “tham nghiệm cầu chứng”.

NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH LẦM LẪN

- Nguyên nhân phát sinh lầm lẫn là “TẾ VU NHẤT KHÚC”: bị thiên kiến, thành kiến che lấp. Tuân nói:

“Mối lo của người ta là bị thành kiến che lấp, làm cho chỉ thấy một khía cạnh sự vật mà không rõ được toàn diện chân lí” (Phàm nhân chi hoan, tế vu nhất khúc nhi am vu đại lí.[305] – Giải tế).

“Hạng người “khúc tri” (thiên kiến) mới có cái nhìn cục bộ, thấy được một khía cạnh, chứ chưa thấy được toàn diện của đại đạo mà đã cho là thấy đủ, rồi điểm tô cho lí thuyết của mình, tự mình đã lầm lẫn, lại còn mê hoặc người, trên che lấp dưới, dưới che lấp trên: Đó là cái hoạ vì bị che lấp, tự bưng bít mà chuốc lấy vậy” (Khúc tri chi nhân quan vu đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc nhi sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi hoạ dã.[306] – Giải tế).

Nhìn theo một khía cạnh thì chỉ thấy một phần bộ, rồi, vì không hiểu, vội cho phần bộ đó là toàn thể và tự giam mình trong thiên kiến, không còn thấy rõ được gì hơn. Lối nhìn lệch lạc đó trở thành thói quen rồi, rồi, từ đó, “tự tư” cái “khúc tri” của mình mà cho rằng chỉ sở kiến của mình mới là phải, là đúng, không chịu xét kiến giải của người khác nữa:

“Đem lòng riêng tư đối với thói quen (mình ưa), chỉ sợ người nghe chê thói quen ấy là dở., dựa vào lòng riêng tư mà xét các đạo thuật khác (với đạo thuật mình chuộng) thì chỉ sợ nghe người khen cái đạo thuật ấy là hay” (Tư kì sở tích, duy khủng văn kì ác dã., ỷ kì sở tư dĩ quan dị thuật duy khủng văn kì mĩ hĩ.[307] – Giải tế).

Chẳng những không chịu mình lầm, lại còn không chịu nhận người đúng., bởi khư khư giữ thiên kiến như vậy, cho nên khó đạt đến chân tri. Nguyên nhân sai lầm là ở đây, là ở chỗ bị che lấp.

Thế nhưng tại sao bị che lấp?

“Tại sở dục làm cho bị che lấp., tại sở ố làm cho bị che lấp, tại chỗ bắt đầu làm cho bị che lấp, tại chỗ chấm dứt[308] làm cho bị che lấp., tại xa làm cho bị che lấp, tại gần làm cho bị che lấp[309]., tại rộng làm cho bị che lấp, tại nông làm cho bị che lấp[310]., tại xưa làm cho bị che lấp, tại nay làm cho bị che lấp[311]. Phàm muôn vật khác nhau, chẳng vật nào là chẳng che lấp lẫn nhau” (Dục vi tế, ố vi tế., thuỷ vi tế, chung vi tế., viễn vi tế, cận vi tế., bác vi tế, thiển vi tế., cổ vi tế, kim vi tế. Phàm vạn vật, dị tắc mạc bất tương vi tế[312]. – Giải tế).

Hễ có đối lập, mâu thuẫn là có che lấp. Có đối lập, mâu thuẫn là thấy phía này, không thấy phía khác, rõ mặt mặt nọ, bỏ sót mặt kia. Nói tóm, nhìn sự vật một chiều, xét sự vật một cạnh thì tất sai sót, không thấy rõ được cái tương quan đích thực và toàn diện giữa các sự vật.

- Nguyên nhân phát sinh sai lầm là “KÌ TÂM NỘI KHUYNH”.

Sự lầm lẫn còn nguyên nhân quan trọng nữa, đó là tình trạng “nội khuynh” của tâm:

“Tâm mà phân thì chẳng còn biết gì, nghiêng lệch thì cái biết không còn tinh tế, không chuyên nhất thì nghi hoặc (…) Con tâm người ta ví như mâm (hoặc thùng) nước: mâm ngay ngắn nước không sóng sánh thì cặn lắng mà mặt nước trong sáng, có thể soi rõ từng kẻ tóc, chân tơ., gió nhẹ lướt qua cặn vẩn lên, mặt nước động thì những vật lớn soi cũng không thật. Con tâm cũng vậy: hướng dẫn nó bằng lí (lễ nghĩa), giữ gìn, nuôi dưỡng nó trong, không để ngoại vật làm cho nó nghiêng lệch thì nó định rõ được phải trái, giải quyết được hiềm nghi., một vật nhỏ dẫn dụ thì sự vật bên ngoài đổi thay chân tướng và con tâm bên trong mất thế bình chính mà không quyết đoán được mọi lẽ” (Tâm chi tắc vô tri, khuynh tắc bất tinh, nhị tắc mê hoặc (…) Cố nhân tâm thí như bàn thuỷ, chính thố nhi vật động, tắc trạm trọc tại hạ nhi thanh minh tại thượng, tắc túc dĩ kiến tu mi sát lí hĩ., vi phong quá chi, trạm trọc động hồ hạ, thanh minh loạn vu thượng tắc bất khả dĩ đắc đại hình chi chính dã. Tâm diệc như thị hĩ, cố đạo chi dĩ lí, dưỡng chi dĩ thanh, vật mạc chi khuynh, tắc túc dĩ định thị phi, quyết hiềm nghi hĩ., tiểu vật dẫn chi, tắc kì chính ngoại dịch, kì tâm NỘI KHUYNH, tắc bất túc dĩ quyết thứ lí hĩ.[313] – Giải tế).

Tâm có định thì tri thức mới có chính xác, tâm mà phân, khuynh thì bị giằng co, lênh đênh giữa những tương phản chằng chịt, làm sao thấy rõ được “đại lí”?

Tuân Tử còn nói thêm về cái tâm trạng hồ nghi bất định:

“Đại phàm xét vật, có chỗ hồ nghi, con tâm bất định, thì ngoại vật không rõ rệt. Suy nghĩ chưa ra thì chẳng nên quyết đoán nên chăng, phải trái. Đi trong đêm tối, thấy khối đá nằm, ngỡ là con cọp nép., nom lùm cây, ngỡ có bóng người theo: đó là bóng tối che mất cái sáng láng vậy. Kẻ say rượu vượt cái ngòi trăm bộ, ngỡ bước qua cái rãnh vài gang., khom lưng qua cổng thành, ngỡ chui cái cửa nhỏ: đó là men rượu làm mê man tâm thần vậy. Ấn mắt rồi nhìn thì một trông ra hai., bịt tai mà nghe, thì không tiếng động, vẫn thấy ù ù: đó là sự thế nó làm cho giác quan rối loạn vậy. Cho nên từ trên núi nhìn xuống, bò nom ngỡ trừu (…): đó là tầm xa che lấp bề to vậy. Từ dưới núi nhìn cây (trên cao), cây mười “nhận”[314] còn bằng chiếc đũa (…): đó là tầm cao che lấp bề dài vậy. Nước động mà bóng lay, người không biết chắc bóng xấu hay đẹp: đó là thế nước làm hoáng mắt ta vậy. Người đui ngửa mặt trông mà chẳng thấy sao (…): đó là mắt hỏng làm cho người ấy lầm vậy. Ở trong những tình trạng như thế mà toan xét đoán sự vật thì quả thật là con người ngu nhất đời! Nghi mà quyết đoán, quyết đoán tất không đúng, đã không đúng thì có thể nào không lỗi lầm?” (Phàm quan vật hữu nghi, trung tâm bất định, tắc ngoại vật bất thanh., ngô lự bất thanh, tắc vị khả định nhiên phủ dã. Minh minh nhi hành dã, kiến tẩm thạch dĩ vi phục hổ dã, kiến thực lâm dĩ vi hậu nhân dã: minh minh tế kì minh dã. Tuý giả việt bách bộ chi câu, dĩ vi khuể bộ chi khoái dã., phủ nhi xuất thành môn, dĩ vi tiểu chi khuê dã: tửu loạn kì thần dã. Áp mục nhi thị giả, thị nhất dĩ vi lưỡng., yểm nhĩ nhi thính giả, thính mạc mạc dĩ vi hung hung: thế loạn kì quan dã. Cố tòng sơn thượng vọng ngưu giả nhược dương (…): viễn tế kì đại dã; tòng san hạ vọng mộc giả, thập nhận chi mộc nhược trứ (…): cao tế kì trường dã[315]. Thuỷ động nhi ảnh dao, nhân bất dĩ định mĩ ác: thuỷ thế huyễn dã. Cổ giả ngưỡng thị nhi bất kiến tinh, nhân bất định hữu vô: dụng tinh hoặc dã. Hữu nhân yên dĩ thử thời định vật, tắc thế chi ngu giả dã. Bỉ ngu giả chi định vật, dĩ nghi quyết nghi, quyết tất bất đáng, phu cẩu bất đáng, an năng vô quá hồ?[316] – Giải tế).

Xưa nay, bao nhiêu lỗi lầm lớn nhỏ, từ những tà thuyết của các nhà lập ngôn, đến những tội ác của các bạo quân, loạn thần, ngoan phụ, tặc tử… đều bắt nguồn từ cái nạn bị “khúc kiến” che lấp cả. Tuân Tử đã đưa ra đầy đủ thí dụ trong thiên Giải tế (Xem phần phiên dịch).

Nói tóm lại, những nguyên nhân của nạn “tế tắc”, theo Tuân Tử, có thể chia ra ba loại:

Loại có tính cách vật lí,

loại có tính cách sinh lí và

loại có tính cách tâm lí.

Luận giải của họ Tuân về vấn đề này khá rành mạch và gọn gàng.

“GIẢI TẾ”, “KIÊM QUYỀN” VÀ “HƯ NHẤT NHI TĨNH”

Tuân Tử cho rằng người ta sở dĩ không tới được chân tri, sở dĩ lầm lẫn, là vì có những cái nó che lấp, không cho thấy rõ và vì con tâm phân tán, thiên lệch, không thể quyết nghi, biện biệt được mọi lẽ. Muốn tới được chân tri, thì phải cởi bỏ, trừ khử những che lấp (giải tế), cân nhắc cả cái hay lẫn cái dở, cả cái lợi lẫn cái hại của mọi sự vật (kiêm quyền) và nuôi con tâm cho trong sáng, luôn luôn ở trong trạng thái “hư nhất nhi tĩnh”.

Giải tế

Tuân Tử nói: “Thánh vương biết mối lo của tâm thuật, thấy mối hoạ của những cái làm che lấp, cho nên, để khỏi thiên trệ về một phía, mới không ưa, ghét, không chấp trước trước sau, - gần xa, - rộng hẹp, - nông sâu, - xưa nay., coi muôn vật đồng đều, cầm thẳng cán cân mà nhắc sự vật. Cho nên những sự vật khác nhau không che lấp lẫn nhau mà làm rối lí, cán cân đó là gì? – Là Đạo” (Thánh nhân tri tâm thuật chi hoạn, kiến tế chi hoạ, cố vô dục, vô ố., vô thuỷ vô chung., vô cận vô viễn., vô bác vô thiển., vô cổ vô kim., kiêm trần vạn vật nhi trung huyền hành yên. Thị cố chúng dị bất đắc tương tế dĩ loạn kì luân dã. Hà vi hành? Viết đạo.[317] – Giải tế).

Nhất thiết sự vật đều tương quan đối lập: dài với ngắn đối lập, đẹp với xấu đối lập… Nếu chúng ta chấp trước cái trạng thái đối lập đó mà thiên về một phía thì tất ta bị che lấp mà sự phán đoán của ta mất hết tính cách công bằng. Phải làm sao cho sự vật đối với ta mất hết cái ma lực che lấp, phải làm sao thoát ra ngoài, vượt lên trên những tương phản mâu thuẫn, để có thể xét đoán sự vật theo cái chuẩn hành khách quan mà họ Tuân gọi là đạo, tức lễ nghĩa.

Kiêm quyền và Hư nhất nhi tĩnh

Phải làm thế nào? Tuân bảo phải: “Kiêm quyền” và “hư nhất nhi tĩnh”.

“Cân nhắc cái ưa, cái ghét, cái lấy, cái bỏ: thấy cái mình ưa, tất phải suy trước, tính sau, nghĩ đến chỗ đáng ghét của nó, thấy cái lợi[318] tất phải suy trước, tính sau, nghĩ đến chỗ hại của nó. Cân nhắc đủ cả hay dở, lợi hại., suy trước tính sau cho kĩ, rồi mới quyết định đáng ưa hay đáng ghét, đáng lấy hay đáng bỏ. Như thế thì thường không thất thố. Mối lo của người ta là ở chỗ vì xét sự vật một phía mà bị tổn thương: thấy cái mình ưa thì không xét đến cái chỗ đáng ghét của nó., thấy cái lợi thì không xét đến chỗ hại của nó, cho nên cử động thường thất thố, hành vi thường bị nhục (…) Đó là mối lo vì xét sự vật một phía mà bị tổn thương” (Dục ô, thủ, xả chi quyền: kiến kì khả dục dã, tắc tất tiền hậu lự kì khả ố dã giả., kiến kì khả lợi dã, tắc tất tiền hậu lự kì khả hại dã giả, nhi kiêm quyền, thục kế chi, nhiên hậu định kì khả dục, ô, thủ, xả. Như thị tắc thường bất thất hãm hĩ. Phàm nhân chi hoạn, thiên thương chi dã. Kiến kì khả dục dã, tắc bất lự kì khả ố dã giả., kiến kì khả lợi dã, tắc bất cố kì khả hại dã giả, thị dĩ động tắc tất hãm, vị tắc tất nhục, thị thiên thương chi hoạn dã.[319] – Bất cẩu).

Sự vật không bao giờ toàn lợi. Lợi và hai tương nhân, tương duyên và gắn liền với nhau: trong cái lợi, nằm sẵn cái hại. Có những cái lợi, cái hại sờ sờ dễ thấy, có những cái lợi, cái hại tiềm ẩn khó nhận ra, cái hại nằm gọn, giấu kín trong cái lợi. Lại có khi hoặc thiếu sáng suốt, hoặc trong xung động của thất tình, thấy hại nên bỏ, mà không cưỡng lại được, vẫn làm, vẫn lấy. Thế cho nên phải đắn đo, cân nhắc lợi hại, so sánh thấy lợi nhiều, hại ít thì làm, thì lấy., (lợi chi trung thủ đại, hại chi trung thủ thiểu.,) tạm dùng thuật ngữ của Nhân minh (nhà Phật) mà nói: hãy dùng phép “tương vi quyết định”[320] mà quyết định làm hay không, lấy hay bỏ.

Về công phu dưỡng tâm “hư nhất nhi tĩnh”, Tuân Tử nói thật cặn kẻ:

“Nhờ cái gì mà con người biết đạo? – Nhờ cái tâm. Cái tâm làm sao mà biết đạo? – Bởi tâm “hư” (trống không), “nhất” (chuyên nhất) và “tĩnh” (an định). Tâm chưa từng bao giờ không chứa đựng, nhưng vẫn có cái trạng thái gọi là “hư”., tâm chưa từng bao giờ không biết hai việc của một lúc, nhưng vẫn có cái trạng thái gọi được là “nhất”., tâm chưa từng bao giờ không động, nhưng vẫn có cái trạng thái gọi được là “tĩnh”. Người ta sinh ra là có cái biết (tri), có cái biết thì có cái nhớ (chí), cái nhớ tức là cái biết chứa chất ở trong tâm., tuy nhiên tâm vẫn có cái trạng thái gọi được là “hư”: chẳng vì cái đang chất chứa mà hại đến cái sắp tiếp nhận, như thế gọi là “hư”. Tâm sinh ra là có cái biết, biết mà phân biệt dị đồng, phân biệt dị đồng tức là cùng một lúc biết gồm (nhiều thứ), biết gồm là đồng thời biết ít nhất hai điều., tuy nhiên tâm vẫn còn có cái trạng thái gọi được là “nhất”: chẳng lấy một điều biết nào làm hại một điều biết nào, như thế gọi là “nhất”. Tâm, ngủ thì mộng mị, sểnh ra thì tự ý lông bông, khi được dùng thì suy tính, cho nên chưa từng bao giờ không hoạt động., tuy nhiên tâm vẫn có cái trạng thái gọi được là “tĩnh”: không vì mộng mị mà vơ vẩn, buồn phiền, làm cho cái biết rối loạn, như thế gọi là “tĩnh”. Chưa được đạo mà cầu đạo thì bảo: hãy dưỡng cái tâm cho nó “hư”, “nhất” và “tĩnh”, lập thành chuẩn tắc mà theo (…). Giữ được tâm trong trạng thái “hư”, “nhất” và “tĩnh” ấy là tâm tới cảnh giới “đại thanh minh” (rất sáng suốt) (…). Trong cảnh giới “rất sáng suốt” của tâm đó, muôn vật không có vật nào có hình mà không hiện rõ chân tướng., không vật nào hiện rõ chân tướng mà không biện luận rành mạch được cái lí của nó., không một vật nào, cái lí của nó đã biện luận được rành mạch mà lại bị đánh giá sai lầm. Ngồi ở nhà mà biết khắp bốn bể, ở đời nay mà hiểu việc lâu dài” (Nhân hà dĩ tri đạo? Viết tâm. Tâm hà dị tri? Viết hư nhất nhi tĩnh. Tâm vi thường bất tang dã, nhiên nhi hữu sở vị hư., tâm vi thường bất lưỡng dã, nhiên nhi hữu sở vị nhất., tâm vi thường bất động dã, nhiên nhi hữu sở vị tĩnh. Nhân sinh nhi hữu tri, tri nhi hữu chí., chí dã giả tang dã, nhiên nhi hữu sở vị hư: bất dĩ kỉ[321] sở tang hại sở tương thu, vị chi hư. Tâm sinh nhi hữu tri, tri nhi hữu dị, dị dã giả đồng thời kiêm tri chi, đồng thời kiêm tri chi, lưỡng dã., nhiên nhi hữu sở vi nhất: bất dĩ phù nhất hại thử nhất, vị chi nhất. Tâm ngoạ tắc mộng, thâu tắc tự hành, sử chi tắc mưu, cố tâm vị thường bất động dã, nhiên nhi hữu sở vị tĩnh: bất dĩ mộng kịch loạn tri, vị chi tĩnh. Vị đắc đạo nhi cầu đạo giả, vị chi hư nhất nhi tĩnh, tác chi tắc (…) Hư nhất nhi tĩnh vị chi đại thanh minh. Vạn vật mạc hình nhi bất hiện, mạc hiện nhi bất luận, mạc luận nhi bất vị. Toạ ư thất nhi kiến tứ hải, xử ư kim nhi luận cửu viễn.[322] – Giải tế).

Nói theo danh từ thông dụng ngày nay, “hư” là rũ bỏ hết thành kiến, giả thiết, tập quán…, “nhất” là chuyên tâm chú ý, tập trung tư tưởng., “nhất” không đồng nghĩa với thiên chấp đi ngược lại phương lược cầu tri căn bản., “nhất” là điều kiện căn bản đặc biệt thiết yếu để nghiên cứu đến độ tinh vi. “Tĩnh” là ung dung, tự tại, vượt lên trên những xung động của tình cảm, thoát ra ngoài những cám dỗ, mê hoặc của ngoại vật.

Chủ trương “giải tế” của Tuân Tử làm người ta nhớ lại lời của triết gia Bacon khuyên: “Hãy gạt bỏ hết sự chi phối của những thần tượng”. Phương pháp “hư, tĩnh” của ông cũng làm cho ta nhớ lại công phu “toạ vong” – hay “tâm trai” của Trang Tử. “Toạ vong” hay “Tâm trai” cũng nhằm đạt tới trạng thái “hư, tĩnh” của tâm. Có điều mục đích tối hậu của của phương pháp “hư nhất nhi tĩnh” khác mục đích tối hậu của công phu “toạ vong” hay “tâm trai”: Tâm của Tuân “hư, tĩnh” để biện biệt thị phi, quyết đoán mọi lẽ (quyết thứ lí)., còn tâm của Trang thì hư, tĩnh “hoà chi dĩ thị phi nhi hưu hồ thiên quân”[323] (Tề Vật Luận), nghĩa là: để mặc cho vạn vật tương thị, tương phi; vẫn không bỏ thị phi (nghĩa là vẫn nhận có thị phi) nhưng vượt khỏi chúng (Bất phế thị phi nhi siêu quá chi) như Phùng Hữu Lan giải thích.

Tóm lại, theo Tuân Tử, sở dĩ người ta xét đoán sự vật lầm lẫn là vì sự vật trong tương quan đối lập, luôn luôn che lấp lẫn nhau. Muốn cho sự xét đoán đó được công bằng, chính xác, thì phải giải trừ mọi che lấp giữa các sự vật. Phương pháp là:

Về khách quan:

- Căn cứ vào cái tiêu chuẩn ngoại tại là lễ nghĩa mà xét nét sự vật dưới mọi khía cạnh, lợi cũng như hại, hay cũng như dở.

Về phương diện chủ quan:

- Dùng công phu tu dưỡng nội tại, giữ cho con tâm được bình chính, luôn luôn rất sáng suốt, trong trạng thái “hư nhất nhi tĩnh”.

VẤN ĐỀ TRI VÀ HÀNH

Trong triết học Trung Hoa, đại khái có bốn thuyết về mối tương quan giữa tri và hành:

- Thuyết CHỦ HÀNH, lấy HÀNH làm cơ sở cho tri.,

- Thuyết CHỦ TRI, lấy TRI làm cơ sở cho hành.,

- Thuyết TRI HÀNH HỢP NHẤT, nhận rằng TRI với HÀNH chỉ là một, và

- Thuyết TRI NAN HÀNH DỊ, cho rằng biết khó, làm dễ.

Vấn đề này, Tuân Tử có ý kiến riêng, khác với cả bốn thuyết vừa nói. Ông vừa rất trọng hành lại vừa rất trọng tri. Nếu kể được là một thuyết, thì đó là thuyết TRI HÀNH TỊNH TRỌNG[324].

Ông cho rằng tính người vốn ác, nhờ thông minh, hiểu biết mà “hoá” tính thành thiện, vậy thì ông trọng tri là lẽ đương nhiên. Ông nói:

“(…) Phải chăng chỉ nhờ vào học! (Có ba hạng người): Hạng người học mà thực hành được là kẻ sĩ., hạng người thực hành mà cố gắng là bậc quân tử và hạng người học, biết hết mà hành được hết là thánh nhân” (…Kì duy học hồ! Bỉ học giả hành chi, viết sĩ dã., đôn mộ yên, quân tử dã., tri chi, thánh nhân dã.[325] – Nho hiệu).

Cái biết của thánh nhân là cái biết sâu sắc, cái biết từ nguyên tắc, từ tinh lí biết đi, - cái biết mà Tuân Tử bảo là “Tri thông thống loại”, - nghĩa là biết lấy đạo nghĩa làm nguyên tắc căn bản để rồi từ đó suy ra. Cái biết đó hơn hẳn cái biết của người thường. Tỉ dụ: người thường biết hiếu với cha, trung với vua là nghe theo mệnh lệnh của cha, của vua., “tri thông thống loại” là biết “theo đạo chẳng theo vua, theo nghĩa chẳng theo cha, đó mới là cái hạnh lớn nhất của con người” (Tòng đạo bất tòng quân, tòng nghĩa bất tòng phụ, nhân chi đại hạnh dã.[326] – Tử đạo).

“Người có hiếu có ba lí do “bất tòng mệnh” (không theo ý người thân):

a) Tòng mệnh thì người thân nguy, bất tòng mệnh thì người thân yên, (gặp trường hợp này) người con hiếu bất tòng mệnh là “chung” (衷: đúng, phải)[327].,

b) Tòng mệnh thì người thân nhục, bất tòng mệnh thì người thân vinh, (gặp trường hợp này) người con hiếu bất tòng mệnh là nghĩa.,

c) Tòng mệnh thì không thì không khác cầm thú, bất tòng mệnh thì hợp lễ giáo, (gặp trường hợp này) người con hiếu bất tòng mệnh là kính.,

Cho nên tòng mà bất tòng là bất hiếu., không nên tòng mà tòng là bất “chung” (Hiếu tử sở bất tòng mệnh hữu tam: Tòng mệnh tắc thân nguy, bất tòng mệnh tắc thân an, hiếu tử bất tòng mệnh nãi chung., tòng mệnh tắc thân nhục, bất tòng mệnh tắc thân vinh, hiếu tử bất tòng mệnh nãi nghĩa., tòng mệnh tắc cầm thú, bất tòng mệnh tắc tu sức, hiếu tử bất tòng mệnh nãi kính. Cố khả dĩ tòng nhi bất tòng, thị bất tử dã., vị khả dĩ tòng nhi tòng, thị bất chung dã.[328] – Tử đạo).

Không hiểu sâu sắc sâu sắc ý nghĩa của việc mà làm thì có khi tưởng làm đúng mà hoá sai., dù ngẫu nhiên có đúng, việc làm không ý thức được trọn vẹn vẫn không có giá trị bằng việc làm đã có ý thức được trọn vẹn.

Nhưng dù là cái biết của bậc thánh nhân đi nữa, nếu chỉ biết mà không làm thì cái biết đó cơ hồ cũng chẳng có giá trị bao nhiêu. Cho nên cái biết của các bậc đại nho, thánh nhân là: miệng nói ra được, thân thực hành được:

“Miệng có thể nói, thân có thể thực hành, là “quốc bảo” (của báu của nước)., miệng không nói, thân có thể thực hành, là “quốc khí” (đồ dùng của nước)” (Khẩu năng ngôn chi, thân năng hành chi, quốc bảo dã., khẩu bất năng ngôn, thân năng hành chi, quốc khí dã[329]. – Đại lược).

Chỉ biết suông mà không làm thì chẳng thà làm mà không biết còn hơn, ý đó được Tuân Tử diễn tả rõ ràng trong mấy câu dưới đây:

“Biết (suông) không bằng làm, học đến làm được mới thôi” (Tri chi bất nhược hành chi, học chi ư hành chi nhi hĩ.[330] – Nho hiệu) và

“Cái học của người quân tử lọt vào tai, ghi vào tâm, truyền ra chân tay, biểu hiện ra hành động (lúc làm, lúc nghỉ). Cho nên những lời nói đoan chính, những động tác tế vi của người quân tử đều đủ làm khuôn mẫu cho người đời. Kẻ tiểu nhân học cái học qua lỗ tai ra lỗ miệng, cách nhau chỉ bốn tấc (cái học ấy dù hay chăng nữa) làm sao bổ ích được cái thân bảy thước?” (Quân tử chi học dã, nhập hồ nhĩ, trước hồ tâm, bố hồ tứ thể, hình hồ động tĩnh, đoan nhi ngôn, nhuyễn nhi động, nhất khả dĩ vi pháp tắc. Tiểu nhân chi học dã, nhập hồ nhĩ, xuất hồ khẩu, khẩu nhĩ chi gian, tắc tứ thốn nhĩ, hạt túc dĩ mĩ thất xích chi khu tai?[331] – Khuyến học).

Học để biết, biết để làm: “Có làm rồi mới rành, rành là thánh nhân. Thánh nhân lấy nhân nghĩa làm gốc, biết đúng điều phải trái, tề nhất ngôn và hành, không lỡ lầm mảy may. Đạo của thánh nhân không có gì khác, chỉ là thực hành điều sở học. Biết mà không làm, dù biết thật nhiều, tất cũng vấp kẹt” (Hành chi minh dã, minh chi vi thánh nhân. Thánh nhân dã giả, bản nhân nghĩa, đáng thị phi, tề ngôn hành, bất khả thất hào li, vô tha đạo yên, dĩ hồ hành chi hĩ.[332] – Nho hiệu).

Không học để mở mang tri thức thì hủ lậu. Tuân Tử bảo “hủ lậu là mối lo chung của thiên hạ, là cái đại hoạ, đại hại của cá nhân” (Lậu dã giả, thiên hạ chi công hoạn dã, nhân chi đại ương, đại hại dã.[333] – Vinh nhục).

Nhưng cái học “vào lỗ tai, ra lỗ miệng” chẳng ích gì cho thân tâm mình, chẳng ích gì cho nhân quần, xã hội thì cái học, cái biết đó, Tuân Tử vẫn cho là của hạng tiểu nhân.

Chủ trương của họ Tuân đúng là TRI HÀNH TỊNH TRỌNG vậy.

[295]所以知之在人者,謂之知,知有所合謂之智。

[296]凡以知,人之性也;可以知,物之理也。

[297] Thiên quan, thiên quân: Quan là giữ một nhiệm vụ (như mắt chỉ trông mà không nghe được, tai chỉ nghe mà không trông được), quân là chủ tể. Trong sách Tuân Tử “thiên quân” thì gồm cả ngũ quan lẫn tâm.

[298]耳,目,口,鼻,形態各有接而不相能也,夫是之谓天官。心居中虚,以治五官,夫是之谓天君。

[299]心有徵知,徵知則緣耳而知聲可也,緣目而知形可也; 然而徵知必將待天官之當簿其類,然後可也。[Chữ “bạ” 簿, Thiều Chữu đọc là “bộ” hoặc “bạc”. (Goldfish)].

[300]心不使焉,則白黑在前而目不見,雷鼓在側而耳不聞(…)

[301] Theo các trang chữ Hán trên mạng thì câu “Tri chi vi thánh nhân” 知之爲聖人 ở trong sách Luận Ngữ, thiên Vi chính; còn trong sách Tuân Tử, thiên Nho hiệu thì có câu tương tự: “Tri chi, thánh nhân dã” 知之,聖人也. (Goldfish).

[302]故心不可以不知道。心不知道,則不可道而可非道(…)心知道然後可道;可道然後能守道以禁非道。

[303]精于物者以物物,精于道者兼物物。故君子壹于道而以贊稽物。壹于道則正,以贊稽物則察。

[304]凡論者貴其有辨合有符驗。故坐而言之,起而可設,張而可施行。

[305]凡人之漶,蔽于一曲,而闇于大理。 [漶: ở đây phiên âm là “hoan”, Thiều Chửu phiên âm là “hoán”. Chữ tương ứng trong các bản chữ Hán trên mạng chép là: 患 (Thiều Chửu đọc là “hoạn”). (Goldfish).

[306]曲知之人觀于道之一隅,而未之能識也,故以爲足而飾之,內以自亂,外以惑人,上以蔽下,下以蔽上,此蔽塞之禍也。

[307]私其所積,唯恐聞其惡也;倚其所私以觀異術唯恐聞其美也。

[308] “Chỗ bắt đầu” và “chỗ chấm dứt”: trỏ sự sống và sự chết (Sinh, nhân chi thuỷ dã., tử, nhân chi chung dã. – Tuân Tử, Lễ luận). Hậu với sự sống, bạc với sự chết, hay ngược lại, đều trái ngược với đạo người quân tử, là lệch.

[309] Xa, gần làm cho che lấp: Ta có câu: “Bụt chùa nhà không thiêng”. Tầu có câu: “Hoà thượng từ nơi xa lại thì ưa đọc kinh” (Viễn lai hoà thượng hiếu độc kinh).

[310] Rộng, nông làm cho bị che lấp: Tuân Tử từng định nghĩa: “Nhiều kiến văn là rộng, ít là nông” (Đa văn viết bác, thiểu văn viết thiển). [Câu này (多聞曰博,少聞曰淺) trong thiên Tu thân. (Goldfish)].

[311] Xưa, nay làm cho bị che lấp: Quá nệ cổ, quá sính kim đều là sai lầm.

[312]欲爲蔽;惡爲蔽,始爲蔽,終爲蔽;遠爲蔽,近爲蔽;博爲蔽,淺爲蔽;古爲蔽,今爲蔽。凡萬物,異則莫不相爲蔽。

[313]心枝則無知,傾則不精, 二則迷惑 (…)故人心譬如槃水,正錯而勿動,則湛濁在下,而清明在上。 則足以見須眉而察理矣;微風過之,湛濁動乎下,清明亂于上,則不可以得大形之正也。心亦如是矣,故導之以理,養之以清,物莫之傾,則足以定是非、決嫌疑矣;小物引之,則其正外易,其心內傾,則不足以決庶理矣。

[314] Nhận: trong cuốn Trang Tử - Nam Hoa Kinh, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc là “nhẫn” và chú giải như sau: “Mỗi nhẫn là tám thước thời đó, mỗi thước khoảng một gang tay”. (Goldfish).

[315] Sách in: “viễn tế kì trương dã”, tôi sửa lại thành: “viễn tế kì đại giả; tòng san hạ vọng mộc giả, thập nhận chi mộc nhược trứ (…): cao tế kì trường dã”. (Goldfish).

[316]凡觀物有疑,中心不定,則外物不清;吾慮不清,則未可定然否也。冥冥而行者,見寢石以爲伏虎也,見植林以爲後人也:冥冥蔽其明也。醉者越百步之溝,以爲跬步之澮也。俯而出城門,以爲小之閨也:酒亂其神也。厭目而視者;視一以爲兩;掩耳而聽者,聽漠漠以爲匈匈;勢亂其官也。故从山上望牛者若羊(…):遠蔽其大也;从山下望木者,十仞之木若箸 (…):高蔽其長也。水動而影搖,人不以定美惡:水勢玄也。瞽者仰視而不見星,人不以定有無:用精惑也。有人焉以此時定物,則世之愚者也。彼愚者之定物,以疑決疑,決必不當, 夫苟不當,安能無過乎?

[317] 聖人知心術之患,見蔽塞之禍,故無欲,無惡;無始、無終;無近,無遠;無博,無淺;無古,無今;兼陳萬物而中縣衡焉。是故眾異不得相蔽以亂其倫也。 何謂衡?曰:道。

[318] Mấy chữ: “tất phải suy trước, tính sau, nghĩ đến chỗ đáng ghét của nó, thấy cái lợi” do tôi chép thêm theo theo bản dịch thiên Bất cẩu (trong phần dịch). (Goldfish).

[319]欲惡,取,舍之權:見其可欲也,則必前後慮其可惡也者;見其可利也,則必前後慮其可害也者,而兼權,孰計之,然後定其欲惡,取,舍。如是則常不失陷矣。凡人之患,偏傷之也。見其可欲也,則不慮其可惡也者;見其可利也,則不顧其可害也者。 是以動則必陷,爲則必辱,是偏傷之患也。

[320] Quyết định: Nhân minh nhà Phật nói đến ba mươi ba sự lỗi lầm, trong đó có sáu “bất định quả” mà “tương vi quyết định” là một. Hai bên chống nhau đều có lí do vững chắc mà quyết định bên phải, bên trái là “tương vi quyết định”.

[321] Dĩ kỉ: có bản chép là DĨ 已 thay vì KỈ 己 - Chúng tôi theo bản đời Nguyên. [“Bất dĩ kỉ sở tang…” 不以己所臧…: các bản trên mạng chép là: “Bất dĩ sở dĩ tang…” 不以所已臧… (Goldfish).]

[322]人何以知道?曰心。心何以知?曰虛壹而靜。心未嘗不臧也,然而有所謂虛;心未嘗不兩也,然而有所謂壹;心未嘗不動也,然而有所謂靜。人生而有知,知而有志;志也者臧也,然而有所謂虛:不以己所臧害所將收,謂之虛。心生而有知,知而有異,異也者同時兼知之,同時兼知之,兩也;然而有所謂一:不以夫一害此一,謂之壹。心臥則夢,偷則自行,使之則謀,故心未嘗不動也,然而有所謂靜:不以夢劇亂知,謂之靜。未得道而求道者,謂之虛壹而靜,作之則(…)虛壹而靜,謂之大清明。萬物莫形而不見,莫見而不論,莫論而失位。坐於室而見四海,處於今而論久遠。

[323] Câu “Thị dĩ thánh nhân hòa chi dĩ thị phi nhi hưu hồ thiên quân” (是以聖人和之以是非而休乎天鈞), trong cuốn Trang Tử - Nam Hoa Kinh, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Cho nên thánh nhân dung hoà, coi thị phi là một, mà theo luật quân bình tự nhiên”. (Goldfish).

[324] Tức tri và hành đều được trọng như nhau. (Goldfish).

[325]其唯學乎!彼學者行之,曰士也;敦慕焉,君子也;知之,聖人也。(Goldfish).

[326] 從道不從君,從義不從父,人之大行也。(Goldfish).

[327] Chữ 衷, Thiều Chửu đọc là “trung”. (Goldfish).

[328]孝子所不從命有三:從命則親危,不從命則親安,孝子不從命乃衷;從命則親辱,不從命則親榮,孝子不從命乃義;從命則禽獸,不從命則修飾,孝子不從命乃敬。故可以從命而不從,是不子也;未可以從而從,是不衷也。(Goldfish).

[329]口能言之,身能行之,國寶也。 口不能言,身能行之,國器也。(Goldfish).

[330]知之不若行之,學之於行之而止矣。(Goldfish).

[331]君子之學也,入乎耳,著乎心,布乎四體,形乎動靜。端而言,蝡而動,一可以爲法則。小人之學也,入乎耳,出乎口;口耳之間,則四寸耳,曷足以美七尺之軀哉? (Goldfish).

[332]行之明也,明之爲聖人。聖人也者,本仁義,當是非,齊言行,不失豪釐,無他道焉,已乎行之矣。(Goldfish).

[333]陋也者,天下之公患也,人之大殃,大害也。(Goldfish).