CHƯƠNG X BÀN VỀ CHÍNH TRỊ
Vương chính
Lễ trị
Nhạc trị
Vương và bá
Pháp hậu vương
Thiện nhượng và cách mạng
Đạo làm vua
Phú quốc, cường binh
VƯƠNG CHÍNH
Về chính trị, cũng như Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử vẫn theo tư tưởng truyền thống của các tiên vương, vẫn chủ trương vương đạo mà tôn chỉ là:
“Dĩ thân giáo, dĩ đức hoá”
nghĩa là lấy thân ra làm gương mẫu mà dạy dân, lấy đạo đức mà cảm hoá dân, người trên sửa mình để yên trăm họ, kẻ dưới noi theo, sửa mình để thành một người dân tốt.
Nền đức trị lấy sự xây dựng con người từ trên xuống dưới làm cơ sở gọi là nền NHÂN TRỊ:
“Người hay còn thì chính trị hay thi hành được, người hay mất thì chính trị hay cũng mất theo, cho nên trị nước là xây dựng con người” (Kì nhân tồn tắc kì chính cử, kì nhân vong tắc kì chính tức, cố vi chính tại nhân.[203] – Trung Dung).
“Có người làm cho nước hoá trị, chứ không có pháp luật làm cho nước hoá trị (…) Pháp độ của vua Vũ nay vẫn còn mà nhà Hạ không đời đời làm vua. Cho nên pháp không thể một mình nên việc (…) Được người hay thì (pháp) còn, không được người hay thì (pháp) mất” (Hữu trị nhân, vô trị pháp (…) Vũ chi pháp do tồn nhi Hạ bất thế vương, cố pháp bất năng độc lập (…) Đắc kì nhân tắc tồn, thất kì nhân tắc vong.[204] – Tuân Tử, Quân đạo).
Vậy tài đức của người cầm quyền quan trọng hơn pháp luật, pháp luật dở mà người cầm quyền giỏi thì sẽ sửa được pháp luật., pháp luật hay mà người cầm quyền dở thì sẽ bẻ cong hoặc không thi hành pháp luật để mưu lợi riêng cho mình. Xét các chính quyền ngày nay đương đóng cái trò dân chủ thì thấy rõ điều ấy: hiến pháp nước nào cũng tốt đẹp mà dân chúng nước nào cũng bị bọn cầm quyền đục khoét, bịt miệng, trói tay.
LỄ TRỊ
Cả ba Nho gia đời Tiên Tần đều chủ trương đức trị, nhân trị: “dĩ thân giáo, dĩ đức hoá”. Tuy nhiên, phương pháp giáo hoá của ba nhà thì đại đồng mà cái đức làm căn bản của giáo hoá thì khác nhau: Khổng Tử chú trọng đến nhân, nghĩa và lễ. “Thầy nói: Dẫn dắt dân bằng chính lệnh, tề nhất dân bằng hình pháp, dân tránh khỏi tội nhưng không biết xấu hổ., dẫn dắt dân bằng đức (nhân, nghĩa), tề dân bằng lễ, dân biết xấu hổ và tự giác cải hoá” (Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ., đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách.[205] – Luận Ngữ, Vi chính).
Mạnh Tử nói đến nhân, nhất là đến nghĩa nên dẫn nhiều về nghĩa hơn về lễ. Theo ông, vua phải có đức nhân thì mới trị được thiên hạ:
“Đạo vua Nghiêu, vua Thuấn, không dùng nhân chính, không thể bình trị được thiên hạ” (Nghiêu, Thuấn chi đạo, bất dĩ nhân chính, bất năng bình trị thiên hạ.[206] - Mạnh Tử, Li Lâu, thượng).
“Lấy cái lòng “bất nhẫn nhân” (lòng nhân) áp dụng cái chính sách “bất nhẫn nhân” thì trị thiên hạ dễ như trở bàn tay” (Dĩ bất nhẫn nhân chi tâm, hành bất nhẫn nhân chi chính, trị thiên hạ khả vận chi chưởng thượng.[207] – Mạnh Tử, Công Tôn Sửu, thượng).
“Các vua ba đời Hạ, Thương, Chu được thiên hạ vì có lòng nhân, mất thiên hạ vì không có lòng nhân” (Tam đại chi đắc thiên hạ dã dĩ nhân, kì thất thiên hạ dã dĩ bất nhân.[208] – Mạnh Tử, Li Lâu, thượng).
Nhân là đức căn bản của vua mà “nghĩa là con đường thẳng của mọi người” (Nghĩa, nhân chi chính lộ dã.[209] – Mạnh Tử, Li Lâu, thượng).
“Nếu trên dưới (bỏ nhân nghĩa mà) tranh nhau lợi thì nước nguy” (Thượng hạ giao chinh lợi nhi quốc nguy.[210] - Mạnh Tử, Lương Huệ Vương).
Thỉnh thoảng Mạnh Tử mới nói đến lễ, mà theo ông, lễ chỉ có tác dụng “làm cho nhân nghĩa thêm tốt đẹp” (Lễ chi thực, tiết văn tư nhị giả. - Mạnh Tử, Li Lâu, thượng).
Tuân Tử thì đặc biệt chú trọng đến lễ, lễ cơ hồ gồm cả nhân nghĩa:
“Lễ là tiêu chuẩn cực tốt của đạo người” (Lễ giả, nhân đạo chi cực dã. – Tuân Tử, Lễ luận).
Và lễ là đạo trị nước hay nhất:
“Thiên hạ theo lễ thì trị, không theo lễ thì loạn, theo lễ thì yên, không theo lễ thì nguy., theo lễ thì còn, không theo lễ thì mất” (Thiên hạ tòng chi giả trị, bất tòng giả loạn., tòng chi giả an, bất tòng giả nguy; tòng chi giả tồn, bất tòng giả vong.[211] – Lễ luận).
Sở dĩ lễ được Tuân Tử rất coi trọng đối với việc trị đạo như vậy là vì cái tác dụng “phân” của nó. Phân là phân biệt đẳng cấp, phân định nhiệm vụ và quyền lợi. Tuân Tử cho rằng “tính người vốn ác”, “tính người là muốn nhiều”; vả lại “thiên hạ muốn và ghét những vật giống nhau”., “muốn thì nhiều mà vật thì ít” cho nên nếu buông thả tính tình thì, cung không đủ cầu, tất sinh tranh giành mà đưa đến rối loạn., tiên vương sở dĩ chế lễ là để tránh sự tranh giành, rối loạn đó:
“Theo cái dục của người ta thì thế không thể dung nhau, vì vật không thể đủ, cho nên tiên vương xét thấy vậy, mới định chế lễ nghĩa để chia thành trật tự” (Tòng nhân chi dục, tắc thế bất năng dung, vật bất năng thiệm dã., cố tiên vương án chế lễ nghĩa dĩ phân chi.[212] – Vinh nhục).
“Người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm tòi, đòi hỏi., tìm tòi, đòi hỏi mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh, tranh thì loạn, cho nên chế định lễ nghĩa để phân ra trật tự mà nuôi cái muốn của con người, cấp cho con người cái lòng họ muốn”. (Lễ luận).
“Lễ là lí”, là những qui phạm khách quan và công bằng hợp lí:
“Lễ đối với việc quốc gia như quả cân và cán cân đối với sự nặng nhẹ, như dây và mực đối với đường thẳng, đường cong” (Lễ ư chính quốc gia dã như quyền hành chi ư khinh trọng dã, như thằng mặc chi ư khúc trực dã.[213] – Đại lược).
Phân theo lễ là phân định một cách thích đáng, sao cho:
“Đức tất xứng với vị, vị vật tất xứng với lộc, lộc tất xứng với việc giúp được cho đời” (Đức tất xứng vị, vị tất xứng lộc, lộc tất xứng dụng), sao cho sang hèn, già trẻ, giàu nghèo, hiền ngu… đều được xứng với cái phận của mình. Xứng phận thì an phận, không còn kèn cựa, tranh giành.
Với hiệu dụng định phận, tiết dục và dưỡng dục, lễ chính là bài thuốc trị tính ác, là cái thắng bảo đảm cho sự hài hoà và đoàn kết của đời sống tập thể (Quần cư hoà nhất).
“Lễ chẳng những làm cho nước trị, dân yên mà còn làm cho nước trở nên phú cường, làm cho các vương công lấy được thiên hạ, uy danh lừng lẫy nữa” (Lễ giả trị biện chi cực dã, cường quốc chi bản dã, uy hành chi đạo giả, công danh chi tổng dã, vương công do chi sở dĩ đắc thiên hạ dã.[214] – Nghị binh).
Tuân Tử xem lễ như gốc của trị đạo, tuy nhiên, ông cũng đặt nặng vấn đề hình pháp: dùng “pháp chính mà trị, trọng hình mà phạt” (Khởi pháp chính dĩ trị dã, trọng hình phạt dĩ cấm chi[215] - Tính ác[216]), để tài chế những hành vi phi lễ và bảo đảm, tăng cường cái hiệu lực uốn nắn và phân biện của lễ. Có điều là theo ông “hình phạt nên tinh giảm” và “chính lệnh phải rất phân minh” (Hình phạt cơ tỉnh (…) chính lệnh trí minh.[217] – Quân tử). Và ông bảo:
“Đời xưa dùng hình pháp không quá cái tội, ban thưởng tước lộc không vượt cái đức” (Cố giả, hình bất quá tội, tước bất du đức.[218] – Quân tử).
Nghĩa là mặt dầu nhận rằng “Hình là cái gốc của thiên hạ, nó ngăn cấm điều bạo ngược, ghét bỏ cái ác”, ông vẫn dừng lại ở chủ trương lễ trị chứ không đi tới chủ trương pháp trị, chủ trương mà sau này Hàn Phi, học trò ông, hết sức đề cao.
NHẠC TRỊ
Sau hết, Tuân Tử không quên đem nhạc vào chính trị như các thánh vương Trung Hoa thời xưa. Ông thấy rõ cái tác dụng “hoà hợp” và “tiết văn” của nhạc và đã chủ trương dùng tác dụng đó để bổ túc cho tác dụng chính trị lớn lao của lễ là “phân” và “dưỡng” (Xem thiên 8: Bàn về nhạc và văn dịch thiên Nhạc luận (ở phần II).
VƯƠNG VÀ BÁ
Xưa, các đời vua Tam đại (Hạ, Thương, Chu) gọi là vương. Kịp đến khi nhà Chu suy vi thì các chư hầu cũng tiếm xưng là vương.
Cho đến thời Mạnh Tử, người ta vẫn nghĩ rằng muốn thi hành vương chính, điều kiện tất yếu là nước phải lớn (“Đại tắc vi vương, tiểu tắc vi bá” – Mạnh Tử, Đằng Văn Công) và người ta thường gọi vua nước lớn là vương, vua nước nhỏ là bá. Mạnh Tử “chỉnh” lại cái danh vương, bá, bảo:
“Lấy sức trị dân mà mượn cái danh làm điều nhân là bá., bá tất phải có nước lớn. Lấy đức mà thi hành nhân chính với dân là vương., vương chẳng cần phải nước lớn” (Dĩ lực giả nhân giả bá., bá tất hữu quốc đại. Dĩ đức hành nhân giả vương., vương bất đãi đại. – Mạnh Tử, Công Tôn Sửu).
Vương chính trở thành nhân chính, một nền chính trị lấy nhân, nghĩa, lễ, nhạc làm gốc.
Vương chính là lí tưởng chính trị của Nho gia.
Mạnh Tử chủ trương rằng tính người ta vốn thiện, cho nên ông đề cao vương mà mạt sát bá. Trả lời Tề Tuyên vương hỏi về sự nghiệp của hai vị bá đời Xuân Thu là Tề Hoàn công và Tấn Văn công, ông nói: “Học trò ông Trọng Ni (Khổng Tử) không nói sự nghiệp của Tề Hoàn và Tấn Văn, vì thế cho nên đời sau không truyền, tôi không được nghe”. – Mạnh Tử, Lương Huệ vương, thượng).
Tuân Tử cho tính người là ác thì phải chủ trương lấy sức mà trị - dùng bá đạo – mới là thuận lí, vậy mà ông cũng vẫn “truất bá, tôn vương”. Ông nói:
“Học trò Trọng Ni, từ đứa bé năm thước[219] (mươi, mười hai tuổi) cũng lấy làm ngượng, không xưng tụng Ngũ bá, thế là tại làm sao? Đáp: Phải, đáng lấy làm ngượng mà không xưng tụng Ngũ bá thật. Tề Hoàn công đứng đầu Ngũ bá, (thế mà) việc trước thì giết anh[220] mà tranh nước., việc riêng trong nhà thì cô, chị, em không gả chồng đến bảy người, trong chốn khuê môn, hoang dâm, xa xỉ hành lạc, của cải nửa nước Tề cung phụng cũng chưa vừa., việc ngoài thì diệt nước Châu, nước Cử, kiêm tính ba mươi lăm nước. Hành động dâm ô, hiểm độc như vậy thì cố nhiên làm sao xứng đáng được xưng tụng trong môn đình bậc đại quân tử?” (Trọng Ni chi môn nhân, ngũ xích chi thụ tử, ngôn tu xưng hồ Ngũ bá, thị hà dã? Viết: Nhiên. Bỉ thành khả tu xưng dã. Tề Hoàn Ngũ bá chi thịnh giả dã. Tiền sự tắc sát huynh nhi tranh quốc., nội hạnh tắc nhi cô, tỉ, muội chi bất giá thất nhân, khuê môn chi nội, ban lạc xa thái, dĩ Tề chi phân, phụng chi nhi bất túc., ngoại sự tắc tru Châu, tập Cử, tính quốc tam thập ngũ. Kì sự hạnh dã, nhược thị kì hiểm ô, dâm thái, cố hạt túc xưng hồ đại quân tử chi môn tai?[221] – Tuân Tử, Trọng Ni).
Ông chê Ngũ bá “không lo sửa sang cái gốc của chính giáo (lễ nghĩa) (…), họ thủ thắng bằng mưu trá. Họ vờ nhường nhịn để tranh giành, giả nhân giả nghĩa để trục lợi, họ là bọn kiệt hiệt trong đám tiểu nhân” (Bỉ phi bản chính giáo dã (…) trá tâm dĩ thắng hĩ., bỉ dĩ nhượng sức tranh, y hồ nhân nhi đạo lợi giả dã, tiểu nhân chi kiệt dã.[222] - Trọng Ni).
Vương giả thì không thế: “Vương rất hiền mà cứu kẻ hư hỏng, rất mạnh mà khoan dung với kẻ yếu., đánh thì tất làm cho địch nguy, nhưng ngượng không muốn đánh với họ., ung dung, văn nhã để thiên hạ trông vào mà các nước bạo ngược tự cảm hoá., gặp đứa quá quắt lắm thì mới tru phạt, cho nên thánh vương giết rất ít” (Vương giả (…) trí hiền nhi năng dĩ cứu bất tiếu, trí cường nhi năng dĩ khoan nhược., chiến tất năng đãi chi nhi tu dữ chi đẩu. Uỷ nhiên thành văn dĩ thị chi thiên hạ, nhi bạo quốc an tự hoá hĩ., hữu tai mậu giả, nhiên hậu tru chi, cố thánh vương chi tru dã cơ tỉnh hĩ.[223] – Trọng Ni).
“Làm một việc bất nghĩa, giết một người vô tội mà được thiên hạ, bậc nhân giả (vương giả) không làm”. (Vương bá).
Vương chính thật hay, nhưng trong thực tế cũng thật khó thi hành. Chính Tuân Tử cũng nhận rằng phải có thánh vương - bậc “tận luân” (nắm đầy đủ vật lí) và “tận chế” (nắm đầy đủ pháp độ) – thi hành vương chính thì mới được một quốc gia, xã hội thật toàn diện.
Đối với bá, thì tuy ông chê đấy, nhưng khi xét đến chính sự đời Xuân Thu, ông vẫn thừa nhận rằng Ngũ bá có những điểm khả thủ: Họ khéo tổ chức (“hướng phương lược”), chăm lo thực lực, khéo dùng kẻ sĩ, nghiêm việc thưởng phạt và nhất là biết thủ tín, đối với dân chúng cũng như với nước bạn:
“(…) Bá giả thì không thế: (bá giả) khai khẩn ruộng nương, tích trữ đầy kho đụn, chuẩn bị đầy đủ khí giới, dụng cụ, chiêu mộ, lựa chọn một cách nghiêm cẩn những sĩ tốt tinh thông võ nghệ, rồi tưởng lệ để khuyến khích, trừng phạt để sửa sai” (Bỉ bá giả bất nhiên: tích điền giả, thực thương lẫm, tiện bị dụng, án cẩn mộ tuyển duyệt tài sử chi sĩ, nhiên hậu tiệm khánh thưởng dĩ tiên chi, nghiêm hình phạt củ chi.[224] – Vương chế).
“Chính lệnh đã bày ra (công bố) rồi thì dù thấy rõ điều lợi của mình hỏng, cũng không lừa dối dân., hiệp ước đã kí rồi thì dù thấy rõ điều lợi của mình hỏng, cũng không lừa dối nước bạn” (Chính lệnh dĩ trần, tuy đổ lợi bại, bất khi kì dân., ước kết dĩ định, tuy đổ lợi bại, bất khi kì dữ.[225] - Vương chế).
Ý nghĩa về vương và bá, theo họ Tuân, có thể tóm gồm trong tám chữ này:
“Nghĩa lập nhi vương, tín lập nhi bá.”[226] – Vương chế).
Riêng đối với Tề Hoàn công, ông chê thiếu đạo đức, nhưng cũng nhận rằng vị “Ngũ bá thịnh giả” này có “đại tiết”, “đại trí” và “đại quyết”.
Qua lời phê bình về bá chính của Mạnh và Tuân, chúng ta thấy ý kiến của Tuân khách quan và thiết thực hơn ý kiến của Mạnh nhiều. Ý kiến đó gần với ý kiến của Khổng Tử hơn: Trả lời học trò hỏi về Quản Trọng, người đã giúp Tề Hoàn công dựng nên nghiệp bá, Khổng Tử khen Quản là “như kì nhân, như kì nhân” (gọi được là người nhân), mặc dù khi phê bình về phương diện tứ đức, Thầy chê Quản là “khí cục nhỏ”.
PHÁP HẬU VƯƠNG
Mạnh Tử chủ trương “hành đạo tiên vương”, “theo phép tiên vương” (Hành tiên vương chi đạo (…) tuân tiên vương chi pháp. – Mạnh Tử, Li lâu).
Tuân Tử chủ trương “theo phép hậu vương”. Trong thiên Vương chế ông viết:
“Luận về vương đạo, thì chế độ của vương giả không dựa theo các đạo đã có từ trước đời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) mà chỉ theo phép tắc của các hậu vương. Dựa theo đạo cũ có trước đời Tam đại, gọi là “đãng” (bấp bênh, không chắc), không theo phép tắc của các hậu vương, gọi là “không nhã” [227] (Ngôn đạo đức chi cầu, bất nhị hậu vương, đạo quá Tam đại vị chi đãng, pháp nhị hậu vương vị chi bất nhã.[228] – Nho hiệu).
Mạnh Tử “nói là ắt xưng tụng Nghiêu, Thuấn” (Ngôn tất xưng Nghiêu, Thuấn), nhưng đấng tiên vương mà ông chủ trương theo thì chính là Văn vương nhà Chu, ông “lấy Văn vương làm thầy” (Mạc nhược sự Văn vương – Mạnh Tử, Li lâu, hạ), khen “Văn vương biết vui cùng dân”(Dữ dân giai lạc) và “dũng” (Thử Văn vương chi dũng dã – Mạnh Tử, Lương Huệ vương, thượng), “thi hành nhân chính” (Phát chính thi nhân - Mạnh Tử, Lương Huệ vương, thượng), bảo: “Chư hầu có người dùng chính sách của Văn vương thì trong bảy năm tất cai trị cả thiên hạ”(Chư hầu hữu hành Văn vương chi chính giả, thất niên chi nội tất vi chính ư thiên hạ. - Mạnh Tử, Li lâu, hạ).
Tuân Tử chê Mạnh Tử là: “Có lấy tiên vương làm phép tắc đấy, nhưng không biết cái giềng mối chính (tinh thần) của đạo tiên vương (…), đó là tội của Tử Tư và Mạnh Tử” (Lược pháp tiên vương nhi bất tri kì thống, (…) thị tắc Tử Tư, Mạnh Kha chi tội dã.[229] – Phi thập nhị Tử).
Thật ra thì tiên vương của Mạnh[230] và hậu vương của Tuân[231] chỉ là một, đều là Văn vương, Vũ vương nhà Chu., Tuân kết tội Mạnh, không phải vì “theo phép tiên vương”, mà vì “không biết giềng mối chính của đạo tiên vương”.
Thời Xuân Thu, Chiến Quốc, chế độ cũ ngày càng băng hoại, các hiền triết thiết tha với thế đạo, nhân tâm, mỗi khi phát biểu chủ trương bổ cứu các tệ của mình, thường ưa thác lời cổ thánh để được đời chú ý đến hơn. Khổng Tử “tòng Chu” thì dẫn việc Văn, Vũ, Chu công đã đành, Mặc Tử, rồi Lão, Trang, cũng “thác cổ”: Mặc thì dẫn vua Vũ nhà Hạ - xưa hơn Văn, Vũ, Chu công nhà Chu., Lão, Trang dẫn hành sự của những tiền hiền còn xưa hơn cả Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang như Hoàng Đế chẳng hạn. Muốn rõ ràng và muốn nhấn mạnh, Tuân Tử không dùng danh từ “tiên vương” (có thể trỏ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang cũng được) mà dùng hai chữ “hậu vương” để trỏ Văn vương, Vũ vương và nhà Chu.
Nhưng tại sao Tuân Tử chủ trương “pháp hậu vương”?
Trong thiên Phi tướng, ông viết: “Người ngu tối, ngay trong khoảng từ cửa ra sân còn bị lừa dối không thấy rõ, huống hồ những việc từ nghìn đời (thì thấy rõ làm sao?) (…) Trước đời Ngũ đế, không có ai để lại sự tích, không phải thời đó không có người hiền, mà vì quá lâu ngày, nên không còn ai biết rõ. Đời Ngũ đế không để lại chính tích, không phải là thời đó không có nền chính trị tốt, mà là vì quá lâu ngày nên thất truyền. Nền chính trị của vua Vũ, vua Thang có truyền, nhưng không rõ ràng bằng nền chính trị của nhà Chu (…) Lâu đời thì thoát lược, mới thì rõ ràng. Thoát lược thì chỉ còn đại cương, rõ ràng thì đủ cả chi tiết (…) Cho nên nói: “Lễ văn, chế độ, lâu ngày thì tắt” (Vọng nhân giả, môn đình chi gian, do khả vu khi dã, nhi huống ư nhiên thế chi thượng hồ? (…) Ngũ đế chi ngoại vô truyền nhân, phi vô hiền nhân dã. Vũ, Thang hữu truyền chính, nhi bất nhược Chu chi sát dã (…) Truyền giả cửu tắc luận lược, cận tắc luận tường., lược tắc cử đại, tường tắc cử tiểu. Thị dĩ văn cửu nhi diệt.[232]).
Tóm lại, lí do khiến Tuân Tử chủ trương theo phép hậu vương là vì phép của hậu vương còn mới, chưa thất thoát, nói cả chi tiết:
“Muốn xem dấu vết (chính tích) của thánh vương thì xem những dấu vết của thánh vương còn rõ ràng, nghĩa là của các hậu vương” (Dục quan thánh vương chi tích, tắc ư kì sán nhiên giả hĩ, hậu vương thị dã.[233] – Phi tướng).
Thời đó, Lão, Trang cho rằng thời thế nay đã khác xưa, chế độ nhà Chu không thể thi hành được nữa. Sách Trang Tử viết: “Đi nước không gì bằng dùng thuyền, đi cạn, không gì bằng dùng xe., cho rằng thuyền đi nước được mà đẩy nó trên cạn thì hết đời không tiến được vài chục thước. Xưa và nay, chẳng phải là nước và cạn ư? Chu và Lỗ chẳng phải là thuyền và xe ư? Nay muốn thi hành chế độ nhà Chu ở nước Lỗ, thì khác gì đẩy thuyền trên cạn, mệt sức mà chẳng nên công, thân tất bị hại” (Phù, thuỷ hành, mạc như dụng chu, nhi lục hành mạc như dụng xa. Dĩ chu chi khả hành ư dã nhi cầu thôi chi ư lục, tắc một thế bất hành tầm thường. Cổ kim phi thuỷ lục dư? Chu, Lỗ phi chu xa dư? Kim kì hành Chu ư Lỗ, thị do thôi chu ư lục dã, lao nhi vô công, thân tất hữu ương. – Thiên vận).
Tuân Tử không tán đồng quan điểm đó và, cũng như hai nhà đại nho trước, Khổng và Mạnh, ông vẫn ủng hộ nhà Chu, bảo bọn Lão, Trang là đồ ngu, không biết rằng:
“Xưa hay nay thì cũng vậy, chỉ là suy ra, chủng loại của vật không biến thì dù lâu ngày, cái lí của nó vẫn thế, không khác. Cho nên đường hướng có chệch, đạo vẫn không lầm (…)” (Cổ kim nhất đạc dã, loại bất bội, tuy cửu đồng lí. Cố hướng hồ tà khúc nhi bất mê.[234] – Phi tướng).
THIỆN NHƯỢNG VÀ CÁCH MẠNG
Vua Nghiêu không truyền ngôi cho con (Đan Chu) mà truyền ngôi cho ông Thuấn, vua Thuấn không truyền ngôi cho con (Thương Quân) mà truyền ngôi cho ông Vũ. Truyền ngôi cho người hiền như thế gọi là THIỆN NHƯỢNG (Nghiêu, Thuấn thiện nhượng).
Ông Thang đuổi vua Kiệt ra Nam Sào, diệt nhà Hạ; ông Vũ đánh vua Trụ, diệt nhà Thương, chư hầu dùng sức mạnh lấy ngôi của thiên tử như vậy gọi là CÁCH MẠNG (đổi mạng trời).
Đối với hai vấn đề “thiện nhượng” và “cách mạng” này, Tuân Tử cũng như Mạnh Tử đều có phát biểu ý kiến.
Thiện nhượng
Mạnh Tử cho rằng thiên tử không được coi thiên hạ như của riêng của mình, không được muốn nhường ngôi cho ai tuỳ ý: việc thiện nhượng phải thuận theo ý trời và hợp với dân – mà ý dân là ý trời. Muốn được nhường ngôi, phải hội đủ bốn điều kiện:
- có tài đức,
- có kinh nghiệm,
- được chư hầu và nhân dân ngưỡng mộ, qui phụ,
- được thiên tử tiến cử với trời.
Tuân Tử cho việc thiện nhượng là không đúng. Ông nói:
“Người đời nói: “Vua Nghiêu, vua Thuấn “thiện nhượng”. Nói thế không đúng. Thiên tử là bậc “thế vị chí tôn”, không ai sánh được, vậy thì còn có ai để có thể nhường ngôi. Thiên tử là bậc “đạo đức hoàn bị”, trí tuệ cực sáng suốt, ngoảnh mặt về phương Nam mà trị thiên hạ, nhân dân đều phục tòng, cảm hoá. Thiên hạ không có kẻ sĩ đi ẩn, không có người thiện bỏ sót không dùng, theo đúng là thiện, trái khác là sai, (mọi việc tốt đẹp cả) vậy thì cần gì phải thiện nhượng? Nói: “Để chết rồi thiện nhượng”. – Cũng không đúng (…) Thánh nhân mất rồi, thiên hạ không còn thánh nhân, thì cố nhiên chẳng ai đủ tư cách để nhường thiên hạ cho. Thiên hạ còn có thánh nhân mà thánh nhân chính là con của thánh vương thì thiên hạ đâu vẫn đấy, triều đình không đổi ngôi, quốc gia không cải chế, thiên hạ vẫn an nhiên như cũ vậy thôi, - vua Nghiêu kế vị vua Nghiêu (ý muốn nói: người kế vị vua Nghiêu cũng có đức tốt như vua Nghiêu) có gì thay đổi., thánh nhân không phải con thánh vương mà ở trong đám Tam công thì thiên hạ về với như thể về nhà, khác nào suy sút rồi lại phấn chấn, thiên hạ an nhiên như cũ vậy thôi. Vua Nghiêu kế vị vua Nghiêu, có gì thay đổi? Chỉ có việc thay triều cải chế là khó. Cho nên lúc thiên tử sống thì thiên hạ thịnh trị, lấy đạo đức mà định vị thứ., kịp khi thiên tử mất đi thì tất có người gánh vác nổi việc thiên hạ kế vị. Cái đại dụng của lễ là “Phân”, như thế trọn vẹn rồi, cần gì phải thiện vị”(Thế tục chi vi thuyết giả viết: “Nghiêu Thuấn thiện nhượng”! Thị bất nhiên! Thiên tử giả, thế vị chí tôn, vô địch ư thiên hạ, phù hữu thuỳ dữ nhượng hĩ? Đạo đức thuần bị, trí huệ thậm minh, nam diện nhi thính thiên hạ, sinh dân chi thuộc, mạc bất chấn động tòng phục dĩ hoá thuận chi., thiên hạ vô ẩn sĩ, vô dĩ thiện, đồng yên giả thị dã, dị yên giả phi dã, phù hựu ô thiện thiên hạ hĩ? Viết: “Tử nhi thiện chi”. Thị hựu bất nhiên (…) Thánh vương dĩ một, thiên hạ vô thánh, tắc cố mạc túc dĩ thiện thiên hạ hĩ., thiên hạ hữu thánh nhi tại hậu giả, tắc thiên hạ bất li, triều bất dịch vị, quốc bất canh chế, thiên hạ yếm nhiên, dĩ hướng vô dĩ dị dã. Dĩ Nghiêu kế Nghiêu, phù hựu hà biến chi hữu hĩ? Thánh bất tại hậu tử nhi tại Tam công, tắc thiên hạ như qui, do phục nhi chấn chi hĩ, thiên hạ yếm nhiên, dữ hướng vô dĩ dị dã. Dĩ Nghiêu kế nghiêu, phù hựu hà biến chi hữu hĩ? Duy kì tỉ triều cải chế vi nan. Cố thiên tử sinh tắc thiên hạ nhất long, trí thuận nhi trị, luận đức nhi định thứ, tử tắc năng nhậm thiên hạ giả tất hữu chi hĩ. Phù lễ nghĩa chi phân tận hĩ, thiện nhượng ô dụng hĩ tai?[235] – Chính luận).
Có lẽ chúng ta cũng có thể nghĩ rằng: Tuân Tử chủ trương thiên đạo là thiên đạo, nhân đạo là nhân đạo, “thiên nhân bất tương quan”, cho nên trong vấn đề nối ngôi, ông cho “vua Nghiêu kế vị vua Nghiêu” là việc việc tự nhiên và tất nhiên và không xen thêm ý trời vào như Mạnh Tử.
Cách mạng
MẠNH TỬ quí dân, khinh vua và thừa nhận tính cách hợp lí của “cách mạng”, miễn là người làm cách mạng phải có đức và việc thay đổi mạng trời phải theo ý dân, nghĩa là thuận ý trời. Ông nói: “Kẻ làm hại nhân gọi là “tặc” (giặc), kẻ làm hại nghĩa gọi là “tàn”. Kẻ tàn tặc thì gọi là một đứa, một thằng quèn. Nghe nói giết một thằng quèn Trụ, chưa nghe nói giết vua”. – Mạnh Tử, Lương Huệ vương, hạ).
“Việc làm của vua Thang, vua Vũ là chính đáng, không phải là thoán đạt mà là trừ bạo, an dân” (Vũ vương diệc nhất nộ nhi AN THIÊN HA CHI DÂN. - Mạnh Tử, Lương Huệ vương).
TUÂN TỬ tôn quân hơn Mạnh Tử, cho rằng uy quyền một vị thánh vương nên tuyệt đối, nhưng cũng vẫn lấy dân làm gốc:
“Trời sinh dân không phải là vì vua, mà trời lập ra vua là vì dân (Thiên chi sinh dân, phi vị quân dã, thiên chi lập quân, dĩ vị dân dã.[236] – Đại lược).
“Vua phải yêu dân, bảo vệ dân như bảo vệ con đỏ” (Thượng chi ư hạ, như bảo xích tử - Vương bá), thì dân mới thân với và thương như thương cha mẹ (Cố hạ chi thân thượng, hoan như phụ mẫu. – Vương bá).
Vua mà tàn bạo thì “trăm họ khinh như khinh lũ què quặt, ghét như ghét loài quỉ” (Bách tính tiện chi như huỷ, ố chi như quỉ. - Vương bá).
Và “giết ông vua tàn bạo (làm hại nước) thì cũng như giết một đứa phàm phu vậy thôi” (Tru bạo quốc chi quân nhược tru độc phu.[237] – Chính luận[238]). Thế cho nên “ông Thang, ông Vũ không phải là lấy thiên hạ, (các ông) sửa đạo làm nghĩa, dấy mối lợi chung cho thiên hạ, trừ mối hại chung cho thiên hạ thì thiên hạ về với, ông Kiệt, ông Trụ không phải bỏ thiên hạ, (các ông) làm trái cái đức của vua Vũ, vua Thang, làm loạn cái hiệu dụng “phân” của lễ nghĩa (…) thì thiên hạ bỏ. Thiên hạ về với, gọi là vương (vua), thiên hạ bỏ gọi là vong (cũng đọc là vương: mất). Cho nên Kiệt, Trụ không có thiên hạ mà Thang, Vũ không thí vua” (Thang, Vũ phi thủ thiên hạ dã, tu kì đạo, hành kì nghĩa, hưng thiên hạ chi đồng lợi, trừ thiên hạ chi đồng hại, nhi thiên hạ qui chi dã. Thiên hạ qui chi chi vị vương., thiên hạ khứ chi chi vị vong (vương). Cố Kiệt, Trụ vô thiên hạ, nhi Thang, Vũ bất thí quân.[239] – Chính luận).
Tóm lại, Tuân Tử cũng thừa nhận “chính nghĩa cách mạng” như Mạnh Tử, chỉ khác là ông không nói rõ người làm cách mạng có phải hội đủ những điều kiện mà Mạnh Tử đòi hỏi ở một “thiên lại” hay không.
Và câu này của Tuân thật là bất hủ: “Vua là thuyền, dân là nước., nước chở thuyền mà nước cũng lật thuyền”. (Quân giả, chu dã., thứ nhân giả, thuỷ dã., thuỷ tắc tải chu, thuỷ tắc phúc chu.[240] – Vương chế).
ĐẠO LÀM VUA
Năng quần
Tuân Tử định nghĩa chữ QUÂN (vua) như sau:
“Quân giả, thiện quần dã.”[241] (Vương chế) và
“Quân giả, năng quần dã.”[242] (Quân đạo).
Vua là người khéo hợp quần, giỏi hợp quần.
Con người ta, “sức không khoẻ bằng trâu bò, chạy không nhanh bằng ngựa” sở dĩ thắng được loài vật, sai khiến được loài vật là nhờ biết sống hợp quần. Nhưng tính người lại vốn ác, đa dục, nếu nhậm tính, túng dục thì tất tranh đoạt, hết cả hợp quần. Vua là người khéo dùng lễ để chia trên dưới, định phân (nhiệm vụ và quyền lợi) cho mọi người, một cách công bằng, hợp lí (nghĩa), nhờ vậy mà đời sống tập thể được thuận hoà (Nghĩa dĩ phân tắc hoà.[243] – Vương chế) và đoàn kết (quần cư hoà nhất). Thế cho nên bảo vua là người “khéo hợp quần”, “giỏi hợp quần”.
“Khi đạo hợp quần thực thi đúng đắn thì muôn vật đều “đắc kì nghi” (được thoả mãn, như ý), sáu loài gia súc đều “đắc kì trưởng” (được nuôi lớn) và đời sống của quần chúng đều được “đắc kì mệnh” (yên ổn trọn hưởng tuổi trời)” (Quần đạo đáng tắc vạn vật giai đắc kì nghi, lục súc giai đắc kì trưởng, quần sinh giai đắc kì mệnh.[244] – Vương chế).
Vai trò của ông vua quan trọng như vậy, cho nên Tuân Tử đề cao quân quyền, – quân quyền là chí tôn, là tối thượng. – người làm dân phải biết phục tùng triệt để quyền chí tôn tối thượng đó. Tuy nhiên, Tuân Tử vẫn coi dân là gốc của nước, là lí do tồn tại của vua:
“Lập ra vua là vì dân”
muốn giàu mạnh, hiển vinh, tất phải trông cậy cả vào dân:
“Người trị nước, hễ được dân hết sức giúp thì giàu, được dân chết (hi sinh) vì mình thì mạnh, được dân khen ngợi thì hiển vinh. Được đủ ba điều thì thiên hạ về với” (Dụng quốc giả, đắc bách tính chi lực giả phú, đắc bách tính chi tử giả cường, đắc bách tính chi dự giả vinh. Tam đắc giả cụ nhi thiên hạ qui chi.[245] – Vương bá).
Tứ thống
Nhưng thế nào là “năng quần”? Thực thi “quần đạo” thế nào là đúng? Tuân Tử nói:
“Thế nào là “năng quần”? Đáp: (Năng quần) khéo nuôi dân, khéo “ban trị” dân, khéo “hiển thiết” người, và khéo “phiên sức” người. Bốn mối (tứ thống) đó đủ để thiên hạ về với. Như thế gọi là “năng quần” (là khéo hợp quần)” (Năng quần dã giả hà dã? Viết: thiện sinh dưỡng dân giả dã, thiện ban trị dân giả dã, thiện hiển thiết nhân giả dã, thiện phiên sức nhân giả dã (…) Tứ thống giả câu nhi thiên hạ qui chi. Phù thị chi vị năng quần.[246] – Quân đạo).
Trước hết nói về mục KHÉO NUÔI NẤNG:
“Giảm số công thương, tăng số nông phu, cấm việc trộm cướp, trừ quân gian tà, đó là để nuôi nấng người vậy” (Tỉnh công cổ, chúng nông phu, cấm đạo tặc, trừ gian tà, thị sở dĩ sinh dưỡng chi dã.[247] - Quân đạo).
Thời Chiến Quốc, nông nghiệp là nền tảng của Trung Quốc, “giảm số công thương” không hẳn có nghĩa là chủ trương “ức công thương” mà chỉ nên hiểu như là một biện pháp có mục đích “làm mạnh cái gốc” mà thôi.
Cố nhiên không phải chỉ làm có bấy nhiêu việc mà gọi được là “khéo nuôi nấng người”. Mấy việc kể trên chỉ là đưa ra làm lệ. Thật ra, muốn “khéo nuôi nấng người” thì việc phải lo trước nhất là làm cho dân giàu và dạy dỗ dân”.
“Chẳng giàu thì không lấy gì mà nuôi được cái tình (sự ham muốn đòi hỏi) của dân, chẳng dạy thì không lấy gì mà uốn nắn được cái tình (vốn ác) của dân” (Bất phú vô dĩ dưỡng dân tình, bất giáo vô dĩ lí dân tình.[248] – Đại lược).
Đối với dân lành thì như vậy, còn đối với hạng hư hỏng thì, thêm vào, phải cho họ công ăn việc làm:
“Những kẻ nói xằng, làm bậy, đào vong, phản trắc, không yên phận thì cho họ phụ trách mỗi người một chức nghiệp nhất định, giáo dục cho họ theo chức nghiệp riêng của từng người” (Độn đào phản trắc chi dân, chức nhi giáo chi.[249] – Vương chế).
Thứ đến là KHÉO BAN TRỊ
Ban trị có nghĩa là trị biện nhân sự, là thiết lập các phẩm trật, phân định các chức vụ:
“Thiên tử đặt chức tam công, chư hầu đặt một tướng, đại phu chuyên coi việc quan, sĩ giữ chức phận, chẳng ai là chẳng tuân thủ pháp luật, phục vụ cộng đồng. Ấy là để “ban trị” người vậy” (Thiên tử tam công, chư hầu nhất tướng, đại phu thiện quan, sĩ bảo chức, mạc bất pháp độ nhi công. Thị sở dĩ ban trị chi dã.[250] – Vương chế).
Thiên Vương chế, chỗ khác, còn nói rõ hơn nữa về mục này: Ngoài vua ra, có tất cả mười bốn loại quan chức, chuyên coi các công việc: - Thổ mộc và thuỷ lợi, - nông nghiệp, - ngư nghiệp, - lâm nghiệp, - công nghệ, - giao thông, - thương nghiệp, - giáo dục, - âm nhạc, - tư pháp, - quân chính, - cảnh sát, - tư tế và bói toán.
Thứ nữa là KHÉO HIỂN THIẾT.
Hiển thiết có nghĩa là tuyển dụng, cất nhắc người vào công vụ.
“Luận đức mà định vị, lượng tài mà trao chức, người nào việc nấy, sao cho việc làm điều hợp khả năng và mọi người đều được xứng phận: bậc thượng hiền thì trao chức tam công, bậc thứ hiền thì làm chức hầu, bậc hạ hiền thì làm sĩ, đại phu. Ấy là hiển thiết họ vậy” (Luận đức nhi định vị, lượng năng nhi thụ quan, giai sử kì nhân tái kì sự nhi các đắc kì nghi: thượng hiền sử chi vi tam công, thứ hiền sử chi vi chư hầu, hạ hiền sử chi vi sĩ đại phu. Thị sở dĩ hiển thiết chi dã.[251] – Vương chế).
Nguyên tắc tuyển cử là không cần môn đệ, gia thế, không kể cấp trật, không thiên tư bè phái:
“Ngôn hành mà không hợp lễ nghĩa thì dù là con cháu vương công, đại phu cũng gạt xuống hàng thứ nhân., con cháu hạng thứ nhân mà chính trực, có văn học, tài năng và hợp với lễ nghĩa thì cũng được liệt vào hàng khanh tướng, đại phu, sĩ” (Tuy vương công, sĩ đại phu chi tử tôn, bất năng chúc ư lễ nghĩa, tắc qui chi thứ nhân., tuy thứ nhân nhi tử tôn dã tích văn học, chính thân hạnh, năng chúc ư lễ nghĩa, tắc qui chi khanh tướng, sĩ đại phu.[252] – Vương chế).
“Cử người hiền năng, không đợi cấp trật[253], bỏ người kém cỏi, không cần chần chờ” (Hiền năng bất đãi thứ nhi cử., bì bất năng, bất đãi tu nhi phế.[254] - Vương chế).
“Trong, không được nuông con em., ngoài, không được giấu người xa lạ (…) Thế mà riêng cầu khanh tướng, phụ tá, lại không công bằng, chỉ dùng những người gần gụi thân yêu của mình, như thế há chẳng là quá lắm ư (…) Cho nên ông vua phải sáng suốt (…) không lấy tình riêng mà cử quan phân chức” (Nội, bất khả dĩ a tử đệ, ngoại, bất khả dĩ ẩn viễn nhân (…) Nhiên nhi cầu khanh tướng, phụ tá, tắc độc bất nhược thị kì công dã, án duy biền bế thân tị kì giả chi dung dã, khởi bất quá thậm hĩ tai? (…) Cố minh chủ (…) vô tư nhân dĩ quan chức sự nghiệp[255]. – Quân đạo).
Sau cùng là KHÉO PHIÊN SỨC
Phiên sức là che chở, trang hoàng., ở đây, có nghĩa là chế định tước lộc:
“Những hình màu, nét thiêu trên phẩm phục, những đường trạm trổ trên ngọc vàng, đều có sai biệt., đó là để PHIÊN SỨC người vậy” (Phủ phất văn chương, điêu trác, khắc lũ, giai hữu đẳng sai., thị sở dĩ phiên sức chi dã.[256] - Quân đạo).
Thưởng phạt
Thưởng phạt cũng là một mục đích chính của sự nghiệp “thiên quân”. Cố nhiên, vương chính trọng giáo hoá hơn hình phạt, nhưng:
“Chỉ dạy mà không trừng trị, giết chóc thì đám kẻ gian không sợ., chỉ giết chóc mà không thưởng thì người dân cần mẫn không hứng khởi” (Giáo nhi bất tru tắc tắc gian dân bất trừng., tru nhi bất thưởng tắc cần chức chi dân bất khuyến.[257] – Phú quốc).
“Việc tưởng lệ không thể thi hành thì người hiền không tiến lên được., việc trừng phạt không thể thi hành thì kẻ hư không chịu rút lui” (Thưởng bất hành, tắc hiền giả bất khả đắc nhi tiến., phạt bất hành, tắc bất tiếu giả bất khả đắc nhi thoái dã.[258] - Phú quốc).
Thưởng phạt phải cho đúng: “Không có công thì không thưởng, không có tội thì không phạt”. (Phú quốc).
Thưởng mà không xứng công, phạt mà không xứng tội, thì không có gì hại bằng. Nhưng những “tên đại ác thì không phải đợi dạy rồi mới giết” (Nguyên ác bất đãi giáo nhi tru.[259] Vương chế)[260].
Cũng có thể có khi lầm, nhưng lầm mà thưởng quá cái công thì còn được chứ lầm mà phạt quá cái tội thì không hay:
“Thưởng không nên “tiếm”, phạt không nên lạm. Thưởng tiếm thì lợi cho tiểu nhân, phạt lạm thì hại cho người quân tử. Nếu chẳng may thưởng phạt có quá thì thà tiếm chớ đừng lạm. Làm lợi người hư còn hơn làm hại cho người thiện (Thưởng bất dục tiếm, hình bất dục lạm. Thưởng tiếm tắc lợi cập tiểu nhân, hình lạm tắc hại cập quân tử. Nhược bất hạnh nhi quá, ninh tiếm vô lạm: dữ kì hại thiện, bất nhược lợi dâm.[261] – Trí sĩ).
Nói thưởng phạt là nói lợi hại. Thưởng là khuyến khích làm thiện, làm thiện thì có lợi., phạt là cảnh giới chớ làm ác vì làm ác thì bị hại. Nếu cân nhắc thấy cái lợi được thưởng vì làm thiện không bù được cái hại phải chịu vì làm thiện, hay thấy cái hại phải chịu vì làm ác không thấm vào đâu so với cái cái lợi được hưởng vì làm ác, thì chắc chắn người ta hết nghe lời khuyến khích làm thiện và cũng hết e dè trước lời hăm he, cảnh giới đừng làm ác. Thế cho nên dạy lễ nghĩa, uốn nắn cái tính, “hư tĩnh” cái tâm để dân tự giác mà xu thiện, tị ác vẫn hay hơn là thưởng phạt, - thưởng phạt không phải là biện pháp chính yếu trong đạo hợp quần:
“Thường người ta hành động chỉ vì tưởng thưởng thì hễ thấy có hại (hơn lợi) thì ngừng, cho nên tưởng thưởng, hình phạt mà dùng thế lực, mưu trá, thì chẳng đủ để người ta gắng sức, chẳng đủ để người ta hi sinh (…) cho nên cái đạo tưởng thưởng, hình phạt mà dùng thế lực, mưu trá thì chẳng đủ để hợp đại chúng, làm đẹp quốc gia” (Phàm nhân chi động dã, vị thưởng khánh vi chi, tắc kiến thương hại yên chỉ hĩ. Cố thưởng khánh, hình phạt thế trá, bất túc dĩ tận nhân chi lực, trí nhân chi tử (…) Cố thưởng khánh, hình phạt thế trá chi vi đạo giả (…) bất túc dĩ hợp đại chúng, mĩ quốc gia.[262] - Nghị binh).
Dân đã tự giác thì:
“Không dùng tưởng thưởng mà dân vẫn thấy được khuyến khích., không cần hình phạt mà uy quyền vẫn tác động như thường” (Cố thưởng bất dụng nhi dân khuyến, phạt bất dụng nhi uy hành[263]. – Cường quốc).
Ái dân
Dưỡng dân, giáo dân chưa đủ, quân đạo còn đặt nặng vấn đề ÁI DÂN:
“Thương yêu người dưới như giữ gìn con đỏ” (Vương bá).
Có thương yêu dân thật lòng thì dân mới hết sức vì mình, sống chết với mình, thì mình mới được yên vui.
“Cho nên đứng nhân quân yêu dân mà mình được yên” (Cố quân nhân giả ái nhân nhi an.[264] – Quân đạo). Mà nước cũng được yên:
“Mới biết yêu dân là làm cho nước yên” (Trí ái dân chi vi an quốc.[265] – Quân đạo).
“Vua muốn trị yên thì tốt hơn hết là chính sự phải cho công bằng, phải yêu dân., vua muốn vẻ vang thì tốt hơn hết là tôn trọng lễ nghi, kính trọng nhân sĩ., muốn lập công, thành danh thì tốt hơn hết là đề cao người hiền, tin dùng người tài. Đó là ba cái “đại tiết” của đấng nhân chủ. Ba đại tiết đó, giữ được đúng thì kì dư đều đúng hết., ba cái đại tiết đó không giữ được đúng thì kì dư, dù có đúng mấy cũng bằng vô ích” (Cố quân nhân giả dục an tắc mạc nhược bình chính ái dân hĩ., dục vinh tắc mạc nhược long lễ kính sĩ hĩ., dục lập công danh tắc mạc nhược thượng hiền sử năng hĩ. Thị quân nhân giả chi đại tiết dã. Tam tiết giả đáng, tắc kì dư mạc bất đáng hĩ., tam tiết giả bất đáng, tắc kì dư tuy khúc đáng, do tương vô ích dã.[266] – Vương chế).
Trái lại, nếu không yêu dân thì tất diệt vong:
“Cho nên đứng nhân quân yêu dân thì yên, ưa kẻ sĩ thì vinh. Hai điều đó thiếu một thì diệt vong” (Cố quân nhân giả ái dân nhi an, hiếu sĩ nhi vinh. Lưỡng giả vô nhất yên nhi vong.[267] – Quân đạo).
PHÚ QUỐC, CƯỜNG BINH
Trong sách Sử Kí (Mạnh, Tuân liệt truyện) Tư Mã Thiên từng đã nhận định rằng PHÚ QUỐC, CƯỜNG BINH (làm cho nước giàu, quân mạnh) là cái xu hướng của thời đại (Chiến Quốc) mà Mạnh Tử và Tuân Tử đều có xu hướng ấy cả.
Có điều là Mạnh Tử muốn nhấn mạnh vào hai đức căn bản của vương đạo là NHÂN và NGHĨA, nên ông mới mạnh lời công kích “lợi” và “binh” như bảo: “Nhà vua hà tất nói đến lợi, cũng chỉ có nhân nghĩa mà thôi” và:
“Làm cho kho đụn đầy, xưa gọi thế là bậc lương thần, nay thì gọi thế là quân hại nước (…) lâm chiến là phải thắng, xưa gọi thế là bậc lương thần, nay thì gọi thế là quân hại nước”.
Tuân tuy lấy lễ nghĩa làm gốc trị đạo, nhưng ông không kiêng nói đến việc làm cho nước giàu, binh mạnh.
PHÚ QUỐC (làm cho nước giàu)
Mục đích tối thượng và tối đại của trị đạo là “nuôi cái dục của nhân dân và thoả mãn nhu cầu của nhân dân” (Dưỡng nhân chi dục, cập nhân chi cầu). Mục đích đó không thể đạt được nếu tài vật không đủ dùng. Cho nên làm cho nước giàu là một trong những mối quan tâm chính yếu của bậc minh quân.
Đạo làm cho nước giàu của Tuân Tử nằm gọn trong mười mấy chữ: “TIẾT DỤNG, DỤ DÂN NHI THIỆN, TÀNG KÌ DƯ. TIẾT DỤNG DĨ LỄ, DỤ DÂN DĨ CHÍNH”[268], nghĩa là tiết chế việc tiêu xài, cho dân dư dả mà khéo dành dụm phần còn lại. Tiết chế việc tiêu xài bằng lễ, cho dân dư dả bằng chính sách.
Tiết chế việc tiêu xài bằng lễ
Nói tiết chế việc tiêu xài là nói chung cho cả nhân dân và chính phủ. Nhân dân phải dè xẻn mà chính quyền thì không được lãng phí công như:
“Người dưới xài đúng mức (lấy lễ mà tiết chế)” (Hạ dĩ lễ tiết dụng chi.[269] – Phú quốc).
“Đấng minh chủ (…) điều tiết cái dong (tức tiết dụng), khơi mở cái nguồn (tức tài nguyên để dân được dư dả)” (Cố minh chủ (…) tiết kì lưu khai kì nguyên.[270] – Phú quốc[271]).
Nói “bằng lễ” là nói ĐÚNG MỨC: chớ bắt người dân khắc khổ quá, đến nổi vi phạm cả cái nguyên tắc “dưỡng dục, cấp cầu”. Người cầm quyền cũng không nên tiết chế quá mức mà mang tiếng là tham lợi, chắt bóp:
“Nếu người trên tiết dụng một cách phi lễ tất mang tiếng là tham lợi, chắt bóp” (Dĩ vô lễ tiết dụng chi, tắc tất hữu tham lợi củ kiểu chi danh.[272] - Phú quốc).
Việc tiết dụng đầu tiên chính phủ phải làm là sa thải những viên chức không thiết dụng hoặc bất lực, vì:
“Quá nhiều đại phu thì nước nghèo” (Đại phu chúng tắc quốc bần.[273] - Phú quốc).
Làm cho dân dư dả bằng chính sách
Cần cho dân dư dả vì nhiều lẽ.
Thứ nhất, để cho dân có thể thoả mãn được gần hết những nhu cầu chính đáng của họ.,
Thứ hai, dân có no đủ thì năng suất của họ mới gia tăng, có dư dả thì mới phấn khởi mà thêm nhiều sáng kiến có lợi cho sự nghiệp phú cường chung của quốc gia:
“Dân giàu có thì đất hoang sẽ được khai khẩn, đất hoang được khai khẩn thì thóc gạo sẽ sản xuất được gấp bội” (Dân phú tắc điền phì dĩ dị., điền phì dĩ dị tắc xuất bách bội.[274] - Phú quốc).
CHÍNH SÁCH cho dân dư dả bắt nguồn từ nhận định: GỐC CÓ VỮNG THÌ NGỌN MỚI TƯƠI., GỐC MÀ LỎNG THÌ NGỌN SẼ HÉO:
“Dưới nghèo thì trên nghèo, dưới giàu thì trên mới giàu” (Hạ bần tắc thượng bần, hạ phú tắc thượng phú.[275] – Phú quốc).
“Làm cho thiên hạ dư dả thì người trên khỏi lo không đủ” (Sử thiên hạ tất hữu dư, nhi thượng bất ưu bất túc.[276] – Phú quốc).
Đây là mấy chính sách làm cho dân dư dả:
“Giảm nhẹ thuế ruộng đất, bỏ thuế chợ, thuế quan, giảm số người đi buôn, bắt dân làm xâu ít đi, đừng làm lỡ thời tiết canh tác (thời vụ)[277] của dân. Như thế thì nước giàu, như thế là dùng lương chính (chính sách tốt) làm cho dân dư dả” (Khinh điền dã chi thuế, bình quan thị chi chính, tỉnh thương cổ chi số., hãn hưng lực dịch, vô đoạt nông thời. Như thị tắc quốc phú hĩ. Phù thị chi vị DĨ CHÍNH DỤ DÂN.[278] - Phú quốc).
Những tiết mục “dụ dân” còn được nhắc lại trong thiên Vương bá:
“Hàng hoá nơi quan khẩu, chỉ kiểm soát những đồ quốc cấm, chớ không đánh thuế. Ngay thẳng áp dụng luật pháp để trừ gian mà không thiên tư, như thế thì chẳng người buôn bán nào mà chẳng đôn hậu, cẩn tín, chẳng ai còn đối trá. Thợ thuyền đốn rừng theo mùa, hoãn hạn kì cho đôi chút mà làm lợi cho kỉ xảo của họ, như thế thì chẳng thợ thuyền nào là chẳng bền bỉ. Đánh nhẹ thuế điền địa., bỏ bớt các tạp thuế., đừng bày nhiều lực dịch., chớ đoạt thì giờ làm mùa của nông dân, như thế thì chẳng nhà nông nào là chẳng làm cật lực, là còn ngồi[279] việc khác”(Quan thị ki nhi bất chinh, chất luật cấm chỉ nhi bất thiên, như thị tắc thương cổ mạc bất đôn xác nhi vô trá hĩ. Bách công tương thời trảm phạt, điêu kì kì nhật nhi lợi kì xảo nhiệm, như thị tắc bách công mạc bất trung tín nhi bất khổ hĩ. Huyện bỉ tương khinh điền dã chi thuế, tỉnh đao bố chi liễm, hãn cử lực địch, vô đoạt nông thời, như thị tắc nông phu mạc bất phác lực nhi quả năng hĩ.[280] - Vương bá).
Khéo dành dụn phần thừa
Nho gia cho “KIỆM (nết dành dụm) là một mĩ đức”, bổ túc cho đức cần. Kiệm để tránh cái khó nó sẽ “bó cái khôn”. Dân phải kiệm, mà quốc gia cũng phải kiệm mới giàu được. Có điều là Tuân Tử lạc quan về tài nguyên thiên nhiên và ông tin vào sức lao động sáng tạo của con người (“nhân vi lực hành”): Biết làm thì thừa chứ không thể thiếu, cho nên ông không đề cao quá mức nết tiết kiệm mà chỉ chú trọng cổ võ “lực hành”. Mặc Tử lo thiếu thốn, Tuân Tử bảo: “Không đủ ăn, đủ mặc đâu phải là mối lo chung của thiên hạ. Mặc Tử quá lo đó thôi! Ruộng đất kia trồng được ngũ cốc, nếu người khéo làm thì một mẫu mấy bồn, mỗi năm lại thu hoạch hai vụ. Rồi thì dưa, đào, táo, mận, mỗi cây ra hàng bồn quả., rau cỏ có thể mọc đầy chằm., chim muông lục súc có thể sinh sản chất đầy xe., cá, ba ba, lươn, trạch mùa nào giống ấy, mỗi giống có thể sinh sản thành đàn., chim le le, vịt giời nhiều vô kể (…) Trời đất sinh muôn vật vốn thừa đủ để nuôi người mà., dây gai, dây sắn, tơ tằm, lông chim, lông muông, da loài vật vốn thừa để đủ làm đồ mặc cho người mà!” (Phù bất túc phi thiên hạ chi công hoạn dã, đặc Mặc Tử chi tư ưu quá kế dã. Kim thị thổ chi sinh ngũ cốc dã, nhân thiện trị chi, tắc mẫu sổ bồn, nhất tuế nhi tái hoạch chi. Nhiên hậu qua, đào, táo, lí nhất bản sổ dĩ bồn cổ. Nhiên hậu huân, thái bách sơ dĩ trạch lương. Nhiên hậu lục súc cầm thú, nhất nhi chuyên xa., ngoan, đà, ngư, miết, thu, chiên dĩ thời biệt, nhất nhi thành quần. Nhiên hậu phi điểu, phù, nhạn nhược yên hải (…) Phù thiên địa chi sinh vạn vật dã, cố hữu dư, túc dĩ thực nhân hĩ. Ma, cát, kiển ti, điểu thú chi vũ mao xí cách dã, cố hữu dư, túc dĩ y nhân hĩ.[281] – Phú quốc).
Sản vật không thiếu. Vấn đề là ta có biết “chế thiên, dụng thiên”, “hoá vật” hay không? có “thiên trị” hay không? Và Tuân Tử vạch luôn cho ta phương pháp “thiên trị”, cả về hai phương diện tiêu cực và tích cực.
Đại khái về phương diện tiêu cực thì:
“Đang mùa có cây đâm chồi nẩy lộc, cấm rìu búa không được vào rừng, lên núi làm hại sự sinh trưởng của chúng. Đang mùa các loài cá, ba ba, lươn trạch chửa đẻ, cấm lưới vó, thuốc độc không được vào miền chuôm chằm làm hại sinh trưởng của chúng” (Thảo mộc vinh hoa tư thạc chi thời, tắc phủ cân bất nhập sơn lâm, bất yểu kì sinh, bất tuyệt kì trưởng dã. Ngoan, đà, ngư, miết, thu, chiên dựng biệt thời, võng cổ, độc dược bất nhập trạch, bất yểu kì sinh, bất tuyệt kì trưởng dã.[282] – Vương chế).
“Lệnh cấm ban ra được tuân hành cẩn thận thì loài thuỷ tộc sinh sôi nhiều mà dân có thừa thức ăn., việc đốn chặt cây cối không trái mùa thì núi rừng không trọc trụi mà dân có thừa gỗ dùng”. (Vương chế).
Về phương diện tích cực thì:
“Mùa xuân cày bừa, mùa hạ làm cỏ, mùa thu gặt hái, mùa đông tàn trữ, bốn công việc đó được làm đúng mùa (nghĩa là không bị những nhu cầu lực dịch của chính quyền làm xáo trộn, cản trở), cho nên năm giống thóc không tuyệt mà trăm họ có thừa thức ăn” (Xuân canh, hạ vân, thu thu, đông tàng, tứ giả bất thất thời, cố ngũ cốc bất tuyệt nhi bách tính hữu dư thực dã.[283] – Vương chế).
*
* *
Trở lên là đại cương đạo phú quốc của Tuân Tử.
Đạo phú quốc đó đại khái không mới mẻ gì hơn chính sách kinh tế của Mạnh Tử. Cả hai đều thoát thai từ mấy nguyên tắc chính mà vị sáng lập ra Nho gia đã đề cập:
“Tiết dụng”: tiêu dùng dè xẻn.,
“Thứ chi, phú chi”: làm cho dân đông, cho dân giàu.,
“Bất hoạn quả[284] nhi bất hoạn quân”: chẳng lo ít dân mà lo không đều. – (Luận Ngữ, Quí thị).
Phản đối những thủ đoạn vơ vét (tụ liễm) của dân (Khổng Tử mắng Nhiễm Hữu đã vơ vết cho chủ).
Mạnh Tử chủ trương “bạc kì thuế liễm” (đánh nhẹ thuế) thì Tuân Tử hô hào “Khinh điền dã chi thuế, bình quan thị chi chinh”; Mạnh Tử chủ trương cho dân có hằng sản (Dân chi vi đạo dã, hữu hằng sản giả hữu hằng tâm. – Mạnh Tử, Đằng Văn công) thì Tuân Tử hô hào “dụ dân” (làm cho dân dư dả); Mạnh Tử chủ trương: “Vua hiền tất phải cung kiệm” (Thị cố hiền quân tất cung kiệm. - Mạnh Tử, Đằng Văn công) thì Tuân Tử hô hào: “Tiết dụng dĩ lễ” v.v… Có lẽ trong thời gian năm sáu chục năm, từ Mạnh Tử đến Tuân Tử, với hoàn cảnh chiến tranh ngày càng thêm ác hoá, điều kiện sinh hoạt xã hội và dữ kiện kinh tế của người dân Trung Quốc không thay đổi bao nhiêu, cho nên trong lãnh vực kinh tế, nhãn quan của Tuân Tử không khỏi bị lịch sử giới hạn[285].
Tuy nhiên, giữa hai chính sách kinh tế của Mạnh và Tuân, cũng có điểm khác nhau đáng chú ý: Mạnh Tử cổ võ tái thiết lập chế độ “tỉnh điền” quân sản, mà Tuân Tử thì không thấy đề cập chế độ này. Phải chăng thời Tuân Tử, chính sách chia đất cho dân của Thương Ưởng đã được phổ biến, nên chế độ “tỉnh điền” trở thành lỗi thời rồi chăng?
CƯỜNG BINH (làm cho quân mạnh)
Khổng Tử và Mạnh Tử không coi trọng vấn đề quân sự lắm. Khổng Tử tuy có trả lời học trò: “Đủ ăn, đủ quân và dân tin” là ba mục tiêu chính trị, nhưng bất đắc dĩ phải lựa chọn, giữ hai bỏ một thì ông bảo bỏ mục thứ hai. Mạnh Tử thì kết tội bọn khéo liên minh kết ước, bảo vua mình mà mở mang đất đai, “ra quân tất thắng” là “phường giặc dân”.
Trong các nhà Nho đời Tiên Tần[286], đối với vấn đề quân sự thì chỉ có Tuân Tử là ra ngoài khuôn sáo cũ. Ông quan tâm tới việc dụng binh và viết cả một thiên – thiên Nghị binh – bàn về sức mạnh đích thực của một đạo quân. Ông quan niệm sức mạnh quân sự khác hẳn các binh gia đương thời. Tuy ông có nhận rằng sức mạnh này tuỳ thuộc vào tinh thần của quân và vào thực lực kinh tế nữa: khí giới phải bén và tiện (Giới dụng binh cách công hoàn tiện lợi giả cường. – Nghị binh)., tướng phải nắm vững và thi hành cẩn thận Lục thuật, Ngũ quyền và Tam chí[287]., quân phải giữ kỉ luật cho nghiêm (Dân tề giả cường)., thực lực kinh tế phải hùng hậu (Tích điền giả, thực th?