CHƯƠNG XIII BIỆN THUYẾT
Định nghĩa
Biện thuyết với Tuân Tử
Lí do buộc người quân tử phải biện thuyết
Phạm vi biệt thuyết
Phương pháp biện thuyết
Thái độ biện thuyết
ĐỊNH NGHĨA
Trong triết học Trung Hoa, thuật ngữ BIỆN có hai nghĩa:
- BIỆN là tranh biện, biện luận để tranh phải, trái, và
- BIỆN là biện thuyết, bàn luận để làm cho sáng tỏ điều phải lẽ trái, điều hơn lẽ thiệt, để phanh phui, tách bạch những chỗ dị đồng. Nhờ có biện thuyết mà xét ra cái lí của “danh” và “thực”, danh và thực không lẫn lộn, thì trị loạn sẽ ra manh mối.
BIỆN THUYẾT VỚI TUÂN TỬ
Khổng Tử ít chú trọng đến “biện”. Ông bảo: “Thiên hà ngôn tai, tứ thời hành yên…”: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn tiếp tục…”.
Mạnh Tử có nói qua loa đến “biện”: “Đấng thánh vương chẳng dấy lên, chư hầu buông tuồng, kẻ xử sĩ (trí thức không chịu ra làm quan) bàn ngang, nói ngược (…) Ta vì thế mà sợ (…) Ta cũng muốn chính lại lòng người, ngăn chặn những tà thuyết, chống lại những hạnh sai lệch, trừ tuyệt những lời bậy bạ nhảm nhí, để tiếp tục sự nghiệp của tam thánh (trỏ Hạ Vũ, Chu Công và Khổng Tử). Ta há ưa biện thuyết? Chẳng qua là bất đắc dĩ mà phải nói thôi” (Thánh vương bất tác, chư hầu phóng tứ, xử sĩ hoành nghị (…) Ngô vị thử cụ (…) Ngã diệc dục chính nhân chi tâm, tức tà thuyết, cự bí hành, phóng dâm từ dĩ thừa tam thánh giả. Khởi hiếu biện tai? Dư bất đắc dĩ dã.[366] – Mạnh Tử, Đằng Văn Công, hạ).
Họ Mạnh mặc nhiên thừa nhận tác dụng tốt của “biện”, nhưng có lẽ ông ngại mang tiếng a dua với bọn biện giả (thuyết khách) đương thời, cho nên ông tự thanh minh là không ưa biện thuyết và ông không bàn về thuật biện thuyết thật, nhưng ông biện thuyết rất nhiều và rất hăng.
Trong đám Nho gia thời Tiên Tần, chỉ có một mình Tuân Tử là giống Mặc gia[367] bàn khá rõ về BIỆN.
Tuân Tử cho rằng đặc sắc của con người, cái làm cho con người khác với cầm thú là khả năng phân biệt lẽ phải trái, điều lễ nghĩa – khả năng mà ông gọi là “HỮU BIỆN”:
“Con người sở dĩ là người, là tại sao? – Là tại có khả năng phân biệt lẽ phải trái, điều lễ nghĩa” (Nhân chi sở vi nhân giả, hà dĩ dã? - Viết: Dĩ kì HỮU BIỆN dã.[368] – Phi tướng).
Hiện tượng tâm lí “hữu biện” đó phát ra lời nói thì Tuân Tử gọi là “biện” hay “biện thuyết”. Thế cho nên ông rất trọng biện thuyết. Và ông bảo:
“Người quân tử tất phải biện thuyết” (Quân tử tất biện. – Phi tướng).
LÍ DO BUỘC NGƯỜI QUÂN TỬ PHẢI BIỆN THUYẾT
Người quân tử phải biện thuyết vì hai lí do:
Một là để trừ tuyệt những lời bậy bạ, nhảm nhí mà ông gọi là những gian ngôn. (Mạnh Tử gọi là “tà thuyết, dâm từ”).,
Hai là để tuyên dương điều nghĩa.
Ai cũng có khả năng biết lẽ phải trái, điều hơn thiệt, nhưng khả năng đó không đồng đều nơi mọi người mà lại còn có thể, hoặc ít, hoặc nhiều, bị lòng dục phương ngại, cho nên mới phân ra kẻ trí, người ngu:
“Sở khả dị dã, trí ngu phân” (Phú quốc).
“Biết phải là phải, gọi là trí., phải cho là trái, trái cho là phải, gọi là ngu” (Thị thị, phi phi, vị chi trí., phi thị, thị phi, vị chi ngu.[369] – Tu thân).
Phải, trái lẫn lộn là nguyên nhân phát sinh và điều kiện dung dưỡng những gian ngôn, tà thuyết. – đầu mối của hoạ loạn. Bởi thế kẻ trí giả hữu tâm, bậc quân tử ý thức trách nhiệm mình đối với trị, loạn, tất phải biện thuyết để làm sáng tỏ lẽ phải trái mà giữ gìn điều lễ nghĩa., nếu không thì không phải là “kẻ sĩ có lòng thành”.
“Nay thánh vương qua đời, thiên hạ rối loạn, những lời xằng bậy dấy lên, người quân tử không có uy thế để chế ngự, không có hình phạt để cấm đoán cho nên mới biện thuyết” (Kim thánh vương một, thiên hạ loạn, gian ngôn khởi, quân tử[370] vô thế dĩ lâm chi, vô hình dĩ cấm chi, cố biện thuyết dã.[371] – Chính danh).
“Phàm lời nói mà không hợp với đạo tiên vương, không thuận với điều lễ nghĩa thì là lời gian, dù có nói rành rọt, người quân tử cũng chẳng nghe theo. Theo đạo tiên vương, thuận điều lễ nghĩa, thân cận người có học, thế mà lại không ưa nói, không thích nói thì tất không phải là kẻ sĩ có lòng thành (…) Cho nên người quân tử tất phải biện thuyết cho lẽ phải trái được rõ ràng. Làm người chẳng ai là không thích nói điều mình cho là phải, mà người quân tử lại càng thích thế lắm, cho nên lấy lời nói tặng người quí hơn vàng đá, châu ngọc, lấy lời nói khuyên người, đẹp đẽ hơn nét thêu thùa, nghe người nói lời hay, vui hơn nghe chuông trống, đàn cầm, đàn sắt., cho nên người quân tử đối với lời nói hay, không bao giờ chán” (Phàm ngôn bất hợp tiên vương, bất thuận lễ nghĩa, vị chi gian ngôn, tuy biện, quân tử bất thính. Pháp tiên vương, thuận lễ nghĩa, đảng học giả, nhiên chi bất hiếu ngôn, bất lạc ngôn, tắc tất phi thành sĩ dã (…) Cố quân tử tất biện. Phàm nhân, mạc bất hiếu ngôn kì sở thiện, nhi quân tử vi thậm, cố tặng nhân dĩ ngôn, trọng ư kim thạch, châu ngọc., khuyến[372] nhân dĩ ngôn, mĩ ư phủ phất văn chương., thính nhân dĩ ngôn, lạc ư chung cổ, cầm sắt., cố quân tử chi ư ngôn vô yếm.[373] – Phi tướng).
Trở lên là lí do, - đồng thời cũng là mục đích của sự biện thuyết, - lí do và mục đích đó, Tuân Tử gọi chung là “tượng đạo”:
“Biện thuyết dã giả, tâm chi tượng đạo dã (…) tâm hợp ư đạo, thuyết hợp ư tâm”[374]. (Chính danh).
“Tượng đạo” nghĩa là “tâm phù hợp với đạo, nói phù hợp với tâm”.
Mà “đạo” của Tuân Tử, như mọi người đều biết, là cái đạo làm người để ra trị nước, - cái đạo lấy lễ nghĩa làm thực chất.
PHẠM VI BIỆN THUYẾT
Kẻ trí giả, bậc quân tử có trách nhiệm biện thuyết, nhưng biện thuyết phải biết chỗ ngừng:
“Người quân tử gọi là trí, không phải là biết tất cả được những gì mọi người biết, người quân tử gọi là biện luận giỏi, không phải là biện luận được tất cả những gì mọi người biện luận (…) Người quân tử là người biết chỗ ngừng” (Quân tử chi sở vị trí giả, phi năng biến tri nhân chi sở tri chi vị dã., quân tử chi sở vị biện giả, phi năng biến biện nhân chi sở biện chi vị dã (…) Hữu sở chỉ[375] hĩ.[376] – Nho hiệu).
Phạm vi biện thuyết của bậc quân tử là:
- Ngờ thì không nói (Quân tử nghi tắc bất ngôn[377]. – Đại lược).,
Chưa biết điều mình muốn biện thuyết có đích xác hợp lễ nghĩa, - “tượng đạo” – hay không mà cứ biện thuyết thì việc làm chẳng những có thể vô ích, mà có khi còn gây trở ngại cho trị đạo nữa.
- Không đúng điều nhân thì không biện luận:
“Nói không trúng điều nhân thì im còn hơn nói, biện thuyết mà không trúng điều nhân thì vụng mồm còn hơn hùng biện” (Ngôn nhi phi nhân chi trúng dã, tắc kì ngôn bất nhược kì mặc dã, kì biện bất nhược kì nột dã.[378] – Phi tướng).
“Nói mà đúng là biết, im mà đúng cũng là biết, cho nên biết im cũng như biết nói” (Ngôn đáng tri giả, mặc nhi đáng diệc tri dã., cố tri mặc do tri ngôn dã.[379] – Phi thập nhị Tử).
- Không bổ ích cho việc trị bình thì không biện thuyết:
“Những cuộc biện thuyết vô dụng, những cái lối nói tinh vi lắt léo không cần kíp thì bỏ đi, không cần xét đến. Còn như nghĩa vua tôi, tình cha con, đạo vợ chồng thì là những điều hằng ngày phải trao giồi, không bỏ được” (Vô dụng chi biện, bất cập chi sát, khí nhi bất trì. Nhược phù quân thần chi nghĩa, phụ tử chi thân, phu phụ chi biệt, tắc nhật thiết tha nhi bất xả dã.[380] – Thiên luận).
Tuân Tử vừa trọng biện luận lại vừa trọng im lặng, tuỳ theo biện thuyết hay im lặng có ích lợi thực tế cho nhiệm vụ “tượng đạo” sự nghiệp trị bình hay không?
“Không biện biệt lẽ trị loạn, không sửa sang đạo làm người” (Phi biện trị loạn, phi trị nhân đạo.[381] – Giải tế) chính là cái lằn mức ngừng của biện thuyết vậy.
PHƯƠNG PHÁP BIỆN THUYẾT
Biện thuyết của Tuân Tử không được phong phú bằng biện thuyết luận của Mặc gia. Tuy nhiên, phương pháp biện thuyết của ông cũng có những điểm thật đáng ghi lại:
- Danh từ phải dùng chính xác:
“Chính lại cái danh mà biểu tả cái thực, nếu hình chất cái thực nó gợi lên được cái danh của nó thì nhân đó sự hiểu biết được thêm dễ dàng” (Chính danh nhi kì, chất thỉnh nhi dụ.[382] – Chính danh).
- Danh từ phải dùng theo cái nghĩa thông thường:
“Những danh ước định quen dùng mới diễn tả được rõ ràng”.
- Phải trình bầy cho hết những lí do biện minh cho chủ trương và lập trường của mình (Biện tắc tận cố.[383] – Chính danh).
- Biện luận cần theo phép loại suy:
Thánh nhân lấy ý mình suy ra ý người. “Cho nên lấy người “đo” (suy) người, lấy tình đo tình, lấy loại đo loại, lấy ngôn thuyết đo công nghiệp, lấy đại đạo suy ra muôn lẽ., xưa hay nay thì cũng vậy: chỉ là suy ra” (Cố dĩ nhân đạc nhân, dĩ tình đạc tình, dĩ loại đạc loại, dĩ thuyết đạc công, dĩ đạo quan tận. Cổ kim nhất đạc dã.[384] – Phi tướng).
Cũng trong thiên Phi tướng, Tuân Tử còn nói:
“Muốn xem việc nghìn năm thì xem việc ngày nay, muốn hiểu ức vạn thì xét một hai (…) Do gần biết xa, do một biết muôn, do cái vi tế, biết cái minh hiển, là nghĩa như vậy” (Dục quan thiên tuế, tắc số kim nhật, dục tri ức vạn, tắc thẩm nhất nhị (…) Cố viết: dĩ cận tri viễn, dĩ nhất tri vạn, dĩ vi tri minh, thử chi vị dã.[385]- Phi tướng).
Cũng ý ấy được nhắc lại trong thiên Vương chế:
“Lấy loại mà biết tạp, lấy một mà nắm được then chốt của muôn” (Dĩ loại hành tạp, dĩ nhất hành vạn[386]).
Nếu đem đối chiếu với luận lí học của Tây phương ngày nay, người ta thấy phương pháp loại suy của họ Tuân gồm cả ba phép:
- Loại tỉ suy lí: Suy từ một sự vật này, biết một sự vật khác (“Dĩ nhân đạc nhân, dĩ tình đạc tình”…!).,
- Diễn dịch suy lí: Suy từ phổ biến mà biết đặc thù (“Dĩ loại hành tạp, dĩ nhất hành vạn”, - “Dĩ nhất tri vạn”, - “Dĩ nhất trì vạn”[387]).,
- Qui nạp suy lí: Suy từ đặc thù mà biết phổ biến (Dục tri ức vạn, tắc thẩm nhất nhị…”).
Phương pháp loại suy của Tuân Tử cũng được gọi là phương pháp THAO ƯỚC[388].
THÁI ĐỘ BIỆN THUYẾT
Biện thuyết là để làm sáng tỏ lẽ phải trái, điều lễ nghĩa, với mục đích tối hậu là mưu cầu trị bình. Đối với bậc quân tử, kẻ trí giả, biện thuyết là một nhiệm vụ tất yếu và cao đẹp. Thế cho nên khi biện thuyết, cần phải giữ thái độ xứng đáng, trang nghiêm. Thái độ biện thuyết mà Tuân Tử chủ trương có thể chia làm hai phần: tích cực và tiêu cực.
Trước hết, xin nói về phần tích cực.
Thiên Chính danh ghi:
“Lấy lòng nhân mà biện thuyết, lấy lòng kính sợ mà lắng nghe, lấy lòng công bằng mà phân biệt phải trái, chẳng vì chúng nhân khen chê mà nao núng, chẳng cốt làm choáng loà tai mắt người nghe, chẳng mua chuộc kẻ quyền cao thế mạnh, chẳng ưa phao truyền những lời thiên lệch, kì dị., cho nên có thể một lòng theo sát đạo, cất tiếng là không bắt bẻ được, hoà nhã mà không quá lời, trọng lẽ công chính mà xem khinh lối tranh thắng, đó là sự biện thuyết của bậc sĩ, quân tử” (Dĩ nhân tâm thuyết, dĩ học tâm thính, dĩ công tâm biện, bất động hồ chúng nhân chi phi dự, bất dã quan giả chi nhĩ mục, bất lộ quí giả chi quyền thế, bất lợi truyền tích giả chi từ, cố năng xử đạo nhi bất nhị, khuất nhi bất đoạt, lợi nhi bất lưu, quí công chính nhi tiện bỉ tranh, thị sĩ quân tử chi biện thuyết dã.[389] – Chính danh).
Thiên Phi tướng ghi:
“Cái thuật biện thuyết là phải giữ cho nghi dung được trang trọng, lí luận được thành thực, chính trực., phải kiên quyết giữ vững lập trường, phân biệt cho hiểu, thí dụ cho vỡ lẽ., vui vẻ, ngọt ngào mà đưa ra chủ trương, tăng tiu thuyết của mình mà kính trọng như có tính cách linh diệu. Như thế thì lời mình nói thường không bao giờ không được chấp nhận., dù người có không vừa lòng, người vẫn quí trọng” (Đàm thuyết chi thuật, căng trang dĩ lị chi, đoan thành dĩ xử chi, kiên cường dĩ trì chi, phân biệt dĩ dụ chi, thí xưng dĩ minh chi., hân hoan, phân hương dĩ tống chi, bảo chi, trân chi, quí chi, thần chi. Như thị tắc thuyết thường vô bất thụ., tuy bất duyệt[390] nhân, nhân mạc bất quí.[391]).
Biện thuyết là nói cho người đối thoại hiểu mà theo điều mình tin chắc là hay, là đúng. Muốn đạt kết quả đó dễ dàng hơn, luận cứ trình bày mạch lạc, tỉ dụ đưa ra rõ ràng chưa đủ, còn cần tỏ rõ một thái độ thành khẩn và khiêm cung: Thành khẩn, khiêm cung không có nghĩa là nhu nhược, “hương nguyện”: gặp trường hợp đối phương ngoan cố, mình phải kiên quyết giữ vững lập trường, không lùi trước áp lực, không ngã trước cám dỗ.
Về phương diện tiêu cực, thái độ biện thuyết do Tuân Tử chủ trương gồm ba điểm: không tranh, - không cầu thắng, - không tinh vi lắt léo một cách không đâu (Bất tranh, - bất kì thắng, - bất cầu sát).
- Không tranh
Tuân Tử nói: “Người quân tử biện bạch cho ra lẽ, chứ không tức khí cố hơn lời” (Quân tử biện nhi bất tranh.[392] – Bất cẩu).
Chẳng những khi biện thuyết không tức khí cố hơn lời, mà gặp người hiếu thắng thì không biện thuyết với (Hữu tranh khí giả, vật dữ biện dã.[393] – Khuyến học).
Là vì tranh lấy phần thắng, cố cãi lấy được, thì tình cảm sẽ bị xung động và, trong điều kiện ấy, “con tâm nghiêng lệch, không đủ xét đoán được mọi lí” (Giải tế).
- Không cầu thắng
Biện thuyết của Tuân Tử, xét về tính chất có giống với biện thuyết trong Nhân minh nhà Phật: biện thuyết để “khai ngộ” tuyệt nhiên không tranh chấp và không bao giờ cầu thắng đối phương. Tuân Tử ghét thậm tệ cái hạng người ưa “cãi cối, cãi chày” để thắng người đối thoại., ông gọi bọn đó là đồ “dịch phu”, “hạ dũng”. Thiên Tính ác nói:
“Không kể phải trái, không luận cong ngay, chủ ý chỉ muốn thắng người cho bằng được, ấy là cái trí của đứa dịch phu.
Không kể phải trái, đúng hay không đúng, chỉ muốn thắng người cho bằng được, ấy là hạ dũng, - cái dũng hạng bét”. (Bất tuất thị phi, bất luận khúc trực, dĩ kì thắng nhân vi ý, thị dịch phu chi trí dã. Bất tuất thị phi, nhiên bất nhiên chi tình, dĩ kì thắng nhân vi ý, thị hạ dũng dã[394]).
“Cãi cối, cãi chày” chỉ chứng tỏ một khí cục hẹp hòi, một nhân cách thấp kém. Biện thuyết cái lối “cả vú lấp miệng em” ấy, chẳng những vô bổ cho sự thật và thường khi còn làm cho thị phi điên đảo nữa. Kẻ “thắng cuộc” như thế đâu phải là người hữu lí, kẻ thắng cuộc như thế chỉ là người dài hơi, “người ngưng miệng sau cùng” trong câu chuyện bịa, ỡm ờ, khá thú vị sau đây của Hàn Phi Tử:
“Nước Trịnh có người cãi nhau về tuổi tác. Một người nói: “Ta đồng niên tuế với vua Nghiêu”. Một người nói: “Ta đồng niên tuế với anh vua Hoàng Đế”. Cãi nhau mãi không xong, người ngừng miệng sau cùng được kể là kẻ thắng cuộc”.
- Không tinh vi[395] lắt léo một cách không đâu
Biện thuyết tinh vi, lắt léo nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa phải kể đám Danh gia, trong đó có Công Tôn Long. Sách Trang Tử, thiên Thiên hạ, chép lại thuyết của họ - mà Tuân Tử nhắc lại:
“Núi và vực[396] bằng nhau, trời và đất gần[397] nhau (…), trứng có lông…” (Sơn uyên bình, thiên địa tị (…), noãn hữu mao…”.[398] – Bất cẩu).
Tuân Tử nhận những thuyết này “khó chống đỡ”, nhưng ông bảo:
“Người quân tử (…) nói chẳng chọn lối lí luận quá tinh vi, lắt léo mà không hợp với lễ nghĩa, chỉ cái gì chính đáng (hợp lễ nghĩa) mới chuộng (…). Huệ Thi và Đặng Tích chống đỡ được những thuyết đó. Nhưng mà người quân tử không quí vì không bổ ích cho điều lẽ nghĩa” (Quân tử thuyết bất quí cầu sát (…) duy kì đáng chi vi quí (…). Nhi Huệ Thi, Đặng Tích năng trì[399] chi. Nhiên nhi quân tử bất quí giả, phi lễ nghĩa chi trúng dã.[400] – Bất cẩu).
“Biện thuyết tinh vi lắt léo mà không thuận lợi cho điều lễ nghĩa” (Thậm sát nhi bất huệ[401])[402] “không cấp thiết cho sự nghiệp trị bình” (Bất khả dĩ vi trị cương kỉ)[403] thì tinh vi lắt léo tất thành quái đản! – (Nho hiệu).
Lối biện thuyết không nhằm mục đích “tượng đạo” ấy bị một người theo chủ nghĩa thực dụng như Tuân Tử chê bai, cho là “không đâu” là lẽ tất nhiên.
Nói tóm lại, người biện thuyết phải phục vụ thiện, hộ vệ lễ nghĩa – nền tảng của trị đạo - và phải giữ thái độ hoà nhã, cẩn nghiêm.
Phương pháp biện thuyết ấy, Tuân Tử gọi là LONG CHÍNH[404].
[366]聖王不作,諸侯放恣。處士橫議 (…)五爲此懼 (…)我亦欲正人心,息邪說,距詖行,放淫辭,以承三聖者。豈好辯哉?予不得已也。(Goldfish).
[367] Mặc gia: Xin xem chuyết tác Đại Cương Triết Học Trung Quốc, quyển hạ, trang 665, 670.
[368] 人之所以爲人者何已也?曰:以其有辨也。(Goldfish).
[369]是是,非非,謂之智;非是、是非,謂之愚。(Goldfish).
[370] Quân tử: trong sách không có hai chữ này. (Goldfish).
[371]今聖王沒,天下亂, 姦言起,君子無勢以臨之,無刑以禁之,故辨說也。(Goldfish).
[372] Khuyến: nguyên là chữ “quan” ([觀]) nghĩa là xem. Đây chúng tôi theo lời hiệu đính của Vương Niệm Tôn. [Chữ 觀 đặt trong dấu ngoặc đứng là do tôi ghi thêm vì trong sách bỏ trống. Từ đây đến cuối sách, trong các chú thích của tác giả, có khá nhiều chỗ bị bỏ trống, không điền chữ Hán; nếu có thể được, tôi cũng sẽ bổ sung và cũng đặt trong dấu ngoặc đứng nhưng không ghi chú thêm. (Goldfish)].
[373]凡言不合先王,不順禮義,謂之姦言,雖辯,君子不聽。法先王,順禮義,黨學者,然而不好言,不樂言,則必非誠士也(…)故君子必辯。凡人,莫不好言其所善,而君子爲甚。故贈人以言,重於金石珠玉;勸人以言,美於黼黻文章;聽人以言,樂於鍾鼓,琴瑟;故君子之於言無厭。(Goldfish).
[374]辩說也者, 心之象道也(…)心合於道,說合於心。[Trong sách không in mấy chữ: 心合於道,說合於心. (Goldfish)].
[375] Sở chỉ: Nguyên là chữ “chính” ([正]), Dương Lượng chú thích: “phải là chữ “chỉ” ([止]) mới phải”. “Chỉ” nghĩa là “ngừng”.
[376]君子之所謂知者,非能遍知人之所知之謂也;君子之所謂辯者,非能遍辯人之所辯之謂也(…)有所止矣。(Goldfish).
[377]君子疑則不言。(Goldfish).
[378]言而非仁之中也,則其言不若其默也,其辯不若其吶也。(Goldfish).
[379]言而當知也, 默而當,亦知也,故知默猶知言也。(Goldfish).
[380]無用之辯,不急之察,棄而不治。若夫君臣之義,父子之親,夫婦之別,則日切磋而不舍也。
[381]非辨治亂,非治人道。(Goldfish).
[382]正名而期,質請而喻。(Goldfish).
[383] 辨則盡故。(Goldfish).
[384]故以人度人,以情度情,以類度類,以說度功,以道觀盡,古今一度也。(Goldfish).
[385]欲觀千歲則數今曰,欲知億萬則審一二(…)故曰:以近知遠,以一知萬,以微知明。此之謂也。
(Goldfish).
[386]以類行雜,以一行萬。(Goldfish).
[387] Dĩ nhất trì vạn: 以一持萬。(Nho hiệu). (Goldfish).
[388] Thao ước: là nắm được cái chính yếu. Thiên Bất cẩu có câu: “Cố thao di ước, nhi sự vi đại” (故操彌約,而事彌大): Cho nên nắm (thao) được sự lí càng gọn (ước) thì thành tựu càng lớn. (Goldfish).
[389]以仁心說,以學心聽,以公心辨,不動乎眾人之非譽,不冶觀者之耳目,不賂貴者之權勢,不利傳辟者之辭,故能處道而不貳,屈而不奪,利而不流,貴公正而賤鄙爭,是士君子之辨說也。
[390] Duyệt: Nguyên là chữ [說] đọc là “thuyết” thì nghĩa là “nói”, đọc là “duyệt” thì nghĩa là “vừa lòng”, “vui lòng”. Diệp Ngọc Lân chú giải là “biện thuyết” – tức theo nghĩa thứ nhất. Chúng tôi theo Phương Hiếu Bác.
[391]談說之術,矜莊以蒞之,端誠以處之,堅彊以持之,分別以喻之,譬稱以明之; 欣驩,芬薌以送之,寶之,珍之,貴之,神之。如是則說常無不受;雖不說人,人莫不貴。
[392]君子(…)辯而不争。(Goldfish).
[393]有爭氣者,勿與辯也。(Goldfish).
[394]不恤是非,不論曲直,以期勝人爲意,是役夫之知也。不恤是非,然不然之情,以期勝人爲意,是下勇也。(Goldfish).
[395] Tinh vi: ở đây gần như có nghĩa “chẻ sợi tóc làm đôi”,
[396] Núi và vực: Sách Trang Tử, thiên Thiên hạ: “Núi và chằm bằng nhau” (Sơn dữ trạch bình).
[397] Gần: “Trời và đất cùng thấp như nhau” (Thiên dữ địa ti). [Hai chữ “và đất” do tôi ghi thêm. (Goldfish)]
[398]山淵平, 天地比(…)卵有毛。(Goldfish).
[399] Trì: trong sách không có chữ “trì” (持). (Goldfish).
[400]君子(…)說不貴苟察(…)唯其當之爲貴(…)而惠施,鄧析能持之(…)然而君子不貴者,非禮義之中也。(Goldfish).
[401] Bất huệ: Dương Lương cắt nghĩa: “Huệ” là “thuận” (với lễ nghĩa).
[402]甚察而不惠。(Goldfish).
[403]不可以爲治綱紀。(Goldfish).
[404] Long chính: Trong thiên Chính luận, Tuân Tử nói: “Phàm nghị, tất tương lập long chính nhiên hậu khả dã” (Chính luận) (凡議,必將立隆正然後可也). Hai chữ “long chính” cũng được Tuân Tử dùng trong thiên Vương bá: “Quân thần thượng hạ, quý tiện trưởng ấu, chí ư thứ nhân, mạc bất dĩ thị vi long chánh” (君臣上下,貴賤長幼,至於庶人,莫不以是爲隆正). (Goldfish).