← Quay lại trang sách

KẾT

Mạnh Tử tin rằng cứ 500 năm lại trở lại một thời trị, rồi ông tính từ đời Thành Thang đến ông được non 1.500 năm, vậy sắp đến thời thịnh., nên ông hăng hái đi thuyết các vua Tề, Lương theo đạo Khổng để lập lại trật tự cho xã hội, nhưng khi ông mất (-289), Trung Quốc còn loạn thêm 68 năm nữa.

Tuân Tử sinh sau Mạnh khoảng nửa thế kỉ, sống vào cuối thời Chiến Quốc, thấy xã hội còn loạn lạc hơn, biến cố xảy ra còn dồn dập hơn nữa: lần lượt Trung Sơn, Tống, Chu bị diệt trong khoảng bốn chục năm, rồi tới Triệu, Nguỵ, Sở, Yên, cuối cùng là Tề bị thôn tính và Tần thống nhất nước Trung Quốc.

Chắc Tuân Tử cũng tin như Mạnh Tử rằng loạn lâu rồi tới trị, chia lâu rồi thì hợp, và ông có nhiệm vụ phải cứu đời, chấn hưng đạo Khổng., vì vậy, ông cũng chu du qua Tần, Tề rồi Sở, tìm một ông vua chịu thi hành học thuyết, chính sách của ông.

Cùng ở trong cửa Khổng, Mạnh Tử và ông đều chủ trương duy trì chế độ phong kiến của nhà Chu, đều tôn quân mà cùng quí dân, vua phải có đức, làm gương cho dân, phải trọng người hiền, phải nuôi dân, dạy dân bằng lễ nhạc. Cũng như Khổng Tử và trái với bọn Pháp gia, Mạnh Tử và Tuân Tử đều cho rằng “hữu trị dân, vô trị pháp”, nghĩa là người cầm quyền có tốt thì mới làm cho nước được trị, còn pháp luật dù có tốt mà không có người tốt thi hành thì nước cũng vẫn loạn.

Nhưng một phần do cá tính, thiên tư, một phần do hoàn cảnh xã hội, Tuân cũng có nhiều tư tưởng khác Mạnh Tử.

1. Nhà Nho nào trước ông và sau ông cũng tin rằng “thiên nhân tương dữ”: người do trời sinh ra, được bẩm thụ cái tính của trời, vậy người với trời quan hệ mật thiết với nhau, cảm ứng với nhau được mà đạo của trời là đạo của người. Tin tưởng đó, người Trung Hoa đã có từ đời thượng cổ, mà cũng là tin tưởng chung của loài người trong thời đại nông nghiệp.

Tuân chịu ảnh hưởng của Lão, Trang cho trời chỉ là “tự nhiên”, bảo “Thiên nhân bất tương dữ”: đạo trời là đạo trời, đạo người là đạo người, không liên quan gì với nhau cả, trời có chức phận của trời, người cũng có chức phận của người., ông còn tiến xa hơn Trang, cho rằng người có thể thắng luật thiên nhiên, nên sửa luật thiên nhiên nữa. Ông đưa ra thuyết táo bạo đó, có lẽ vì ghét phái Âm Dương, Hoàng Lão, nhất là bọn đồng cốt dị đoan mà thời loạn nào, xưa cũng như nay, đều nhan nhãn trong xã hội: không tin ở nhà cầm quyền, ở sức mình được nữa, người ta tự nhiên phải tin ở thần quyền.

2. Có lẽ cũng vì sống trong một thời cực loạn, thấy những cảnh tàn bạo xảy ra hằng ngày, nên ông không thể chấp nhận thuyết tính thiện của Mạnh Tử được mà lập ra thuyết tính ác. Sau mấy trăm năm giáo hoá của Khổng thánh mà loạn thần, tặc tử lại nhiều hơn trước, những cuộc tàn sát càng rùng rợn hơn trước – ghê tởm nhất là cảnh Bạch Khởi chôn sống 400.000 quân Triệu đã đầu hàng – thì tính người sao gọi là “vốn thiện” được.

Trong bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí, Khổng trọng đức nhân hơn cả, coi nó là gốc của các đức khác, nhưng người ta không chịu nghe Ngài giảng về đức nhân., qua thời Mạnh Tử, xã hội loạn hơn, Mạnh Tử cho đức nhân cao quá, ít ai theo được, nên phải đem đức nghĩa kèm theo nó, hễ nói tới nhân thì luôn luôn nói tới nghĩa, nhưng Mạnh cũng lại thất bại., đến đời Tuân, xã hội cực kì loạn, cả nhân lẫn nghĩa đều thành những lí tưởng xa vời, ông phải hạ xuống một nấc nữa, ít nói tới nhân, chỉ nói nhiều tới lễ, và khi nào nói tới nghĩa thì ông cũng đem lễ kèm theo, cho lễ mới là quan trọng.

3. Mạnh chủ trương tính thiện, đưa ra thuyết lương tâm và lương tri, nên chú trọng đến trực giác, không quan tâm đến phương pháp, lí luận. Ông biện thuyết hùng hồn (coi các bài thuyết Lương Huệ Vương, Tề Tuyên Vương…), nhưng lí luận kém (như tranh luận với Cáo Tử về tính thiện). Tuân Tử sinh ra trong một thời phong trào du thuyết cực thịnh, mà phương pháp lí luận của bọn Danh gia đã phổ biến, nên không thể chỉ trông cậy vào nhiệt tâm và khẩu tài như Mạnh Tử được, mà phải luyện phương pháp lí luận cho vững nữa, nghiên cứu kĩ về tri thức, về danh thực, về những lầm lẫn trong lí luận.

Đó là ba điểm dị biệt chính giữ Mạnh và Tuân, ngoài ra, ông không quá nghiêm khắc như Mạnh, - cấm các ông vua nghĩ tới lợi, mà trái lại, khuyên họ mưu cái lợi cho dân, đừng tiết chế lòng dục của dân mà nên “dưỡng dục”, nuôi lòng dục của dân (miễn nó đừng gây loạn cho xã hội), và tìm cách tăng gia sản xuất để cung cấp được đủ nhu cầu (cấp cầu) cho dân.

Ông lại không ngại bàn về binh bị: binh phải mạnh để cấm điều bạo, trị điều hại, nhưng ông khác bọn tướng soái thời đó ở điểm ông tin rằng binh mạnh không phải vì thiên thời, địa lợi, mưu thuật, mà nhờ vua biết đoàn kết dân tâm, thống nhất dân chí.

Hai điểm đó, chúng tôi cho có lẽ cũng do ảnh hưởng của thời đại: Cuối thời Chiến Quốc, vì chiến tranh đất đai bị bỏ hoang nhiều, mà dân số đã tăng – Hàn Phi Tử, môn sinh của ông, đã lo cái nạn nhân mãn[405], - nhu cầu của dân không được thoả mãn, nên Tuân phải khuyến khích sự tăng gia sản xuất., mặt khác, ở thời đó, chiến tranh liên miên, nước nào cũng chế tạo vũ khí, bắt lính thật nhiều – bao nhiêu trai tráng phải nhập ngũ hết – khuyên người ta bỏ võ bị, hoặc chỉ không bàn tới võ bị, thì quả là điều không hợp thời chút nào.

Như vậy, chúng ta thấy học thuyết của Mạnh có tính cách quá lí tưởng, đượm sắc thái duy tâm, học thuyết của Tuân có tính cách thực tế hơn, hơi nhuốm màu duy vật. Vì vậy mà nhiều học giả đã bảo Mạnh phát huy đạo Nho theo chiều hướng “nội thánh”, nghĩa là chú trọng đến chủ thể, đến nội tâm, dưỡng khí, bồi bổ tính thiện., Tuân phát huy đạo Nho theo chiều hướng “ngoại vương”, nghĩa là chú trọng đến cái dụng, dùng lễ mà ước thúc tính ác, lập trật tự xã hội. Cả hai đều thiên lệch cả, nhưng xét lịch sử nhân loại, chúng ta thấy nền văn minh nào cũng đàn áp một số bản năng của con người, nếu để nó tự do phát triển thì chẳng những xã hội sẽ loạn mà nhân loại còn có thể bị tiêu diệt., và thời nào cũng vậy, khi một xã hội tự do quá mà hoá loạn thì nhà cầm quyền nào muốn cứu vớt xã hội cũng phải dùng những biện pháp để ước thúc, đàn áp bớt lòng dục, cho tới khi con người thuần lại rồi, mới cởi mở dần cho. Vậy, ở thời Chiến Quốc, học thuyết của Tuân hợp hơn của Mạnh.

*

* *

Trong số các triết gia thời Chiến Quốc, Tuân Tử là nhà có tư tưởng phong phú nhất, sâu sắc nhất, độc đáo nhất.

Mạnh không bàn về trời, về tri thức., Trang Tử trọng trực giác, chủ trương vô vi nên chẳng chẳng phát huy được gì về tri thức luận, chính trị luận, còn các nhà khác thì thiên hoặc về danh học, hoặc về âm dương học. Tuân bàn cả về trời, về luật thiên nhiên, về nhân sinh (tâm, tính, dục, tu dưỡng, giáo dục), về tri thức, biện thuyết, về chính trị (phép trị dân, đạo làm vua, binh bị, lễ nhạc…).

Tư tưởng của ông thành một hệ thống chặt chẽ., có thể nói chính ông đã canh tân đạo Khổng. Từ chủ trương rằng tính con người ta vẫn có mầm ác, ai cũng muốn hưởng thụ cho nhiều mà thiên nhiên không thoả mãn được lòng tham lam đó, nên người ta sinh ra tranh giành nhau, do đó mà xã hội hoá loạn (xã hội thời Chiến Quốc đủ chứng minh thuyết đó), Tuân rút ra qui kết này: chức vụ của vua là “hợp quần”, nghĩa là giữ cho xã hội có trật tự, dân chúng sống với nhau, không tranh giành nhau mà đoàn kết, hoà hài (quần cư hoà nhất)., muốn vậy, phải dùng “lễ”, nghĩa là phải định phận cho từng người (từ trách nhiệm đến việc làm, danh phận, chức tước mà sự hưởng thụ phải công bằng, tuỳ theo nhiệm vụ và tài đức), như vậy lễ phân xã hội ra nhiều giới khác nhau, phân rõ quá thì có thể ảnh hưởng không lợi cho tình đoàn kết, nên ông lại dùng “nhạc” để hoà hợp lại. Nhưng đã định phần hưởng thụ cho mỗi giới thì phải thoả mãn nhu cầu của họ (cấp cầu), nghĩa là phải lo sản xuất cho nhiều để phân phối cho đủ, cho nên ở đầu thiên Lễ luận, ông bảo: “Tiên vương (…) dưỡng nhân chi dục, cấp nhân chi cầu, sử dục tất bất cùng hồ vật, vật tất bất khuất ư dục, lưỡng giả tương trì nhi trưởng”: Tiên vương (…) “nuôi” cái muốn của con người, cấp cho con người cái mà lòng họ muốn, khiến cho cái muốn không đến cùng kiệt cái vật (nghĩa là phải có giới hạn), vật không làm cùng kiệt cái muốn, (hai cái đó: muốn và vật) phù trì lẫn nhau) mà sinh trưởng. - Ở thời Chiến Quốc, tư tưởng đó thật mới mẻ, tiến bộ. Ngày nay, các nhà kinh tế cũng chỉ lo giải quyết vấn đề duy nhất đó thôi: điều hoà cung và cầu, sản xuất và phân phối, sao cho công bằng mà dân chúng được thoả mãn. Câu chúng tôi trích dẫn ở trên thật là bất hủ, vào hàng sâu sắc nhất trong lịch sử triết học thời Tiên Tần. Chúng tôi cho rằng chính Tuân đã định qui tắc cho công việc mà ngày nay chúng ta gọi là lập kế hoạch.

Muốn sản xuất cho nhiều thì phải lợi dụng thiên nhiên, sửa đổi thiên nhiên (chế thiên, hoá vật). Đây cũng lại là một tư tưởng can đảm, độc đáo, bất hủ nữa. Tuân mạnh bạo đả đảo dị đoan, bảo đừng cầu nguyện trời đất quỉ thần gì cả. “Làm cho mạnh cái gốc (tức việc canh nông), chi dùng có tiết độ thì trời không thể làm cho nghèo đói được…”, “tôn trọng trời mà mến trời thì sao bằng để cho vật súc tích nhiều, tài chế nó mà dùng?...”. Lời đó thật hùng! Chỉ Tuân mới thực sự coi người ngang bằng với trời, mới tách biệt con người ra khỏi quyền uy của trời, và như vậy là tách biệt triết lí ra khỏi tôn giáo.

Sau cùng, qui tắc “định phận” để trên đưa tới sự chính danh, ai cũng phải dùng những danh do các bậc có quyền uy, tài đức qui định thì xã hội mới có trật tự được., mà khi tranh luận thì cũng phải theo những qui tắc hợp lí chứ không cãi càn được, do đó, Tuân cống hiến thêm cho Khổng học và tư tưởng Trung Hoa hai thiên rất có giá trị: Giải tế và Chính danh.

Xét về phương diện bảo vệ và phát huy đạo Khổng, công của Tuân không kém công của Mạnh, cho nên Tư Mã Thiên, trong bộ Sử Kí đặt hai nhà ngang hàng nhau là phải. Xét về phương diện mở phương trời mới cho tư tưởng Trung Hoa, thì công của Tuân hơn công của Mạnh. Nhưng xét về ảnh hưởng thì trái lại.

Mới đầu, suốt thời gian Chu mạt – Tần – Hán (trong một thời gian trên bốn thế kỉ (III trước T.L – II sau T.L), Tuân được trọng ít nhất cũng ngang với Mạnh. Có thuyết cho rằng những thiên Tam Niên Vấn (sách Tiểu Đái), Lễ Tam Bản (sách Đại Đái), Hương Ẩm, Tửu Nghĩa (sách Nhạc Kí) đều rút từ bộ Tuân Tử ra. Lại có người còn bảo ngay sách Trung Dung (nguyên là một thiên trong Lễ Kí) cũng phần do đệ tử của Tuân soạn. Điều đó có nhiều nhà còn coi là nghi vấn., nhưng có điều dưới đây ai cũng phải nhận: Mạnh Tử vì chủ trương quí dân, khinh quân, nên bị đế quyền đời Tần, Hán nghi kị, Tuân thì không. Tuân Tử đã khai sáng ra học phái Lan Lăng, một cự phách sau này là Phù Khâu Bá đã mở đường cho cái học “truyền kinh” (nối tiếp trao truyền cái học thuật trong các kinh cũ), từ đời Hán về sau; hơn nữa, trong số môn sinh của Tuân, có Hàn Phi và Lí Tư mà tư tưởng về chính trị được Tần áp dụng, rồi Hán cũng theo một phần, một cách kín đáo hơn (dương Nho, âm Pháp).

Nhưng rồi ảnh hưởng của Tuân giảm sút từ sau đời Hán, vì Lục Triều là thời thịnh của Huyền học. Qua đời Đường, các Nho gia như Hàn Dũ, Lí Cao đề cao chủ trương “Tận tâm tri tính” của Mạnh Tử, để hoá giải hấp dẫn lực của thuyết bình đẳng tính cùng phương pháp “minh tâm kiến tính” của Phật giáo mà sĩ thứ đương thời đương say mê. Tuy nhiên, Hàn, Lí không hề mạt sát quá lời thuyết tính ác của Tuân.

Đến đời Tống, các nhà “Lí học” như Trình, Chu mới công kích Tuân tàn nhẫn, coi học thuyết của ông ghê như thú dữ, hại như hồng thuỷ. Văn hào Tô Tuân căm Lí Tư, học trò của Tuân Tử, bảo “Thầy nào trò ấy”, “cha (ám chỉ Tuân) giết người thì con (ám chỉ Lí Tư) mới ăn cướp”.

Tô Tuân nghiêm khắc như vậy, chứ Tô Triệt và Tư Mã Quang công bình hơn, chê Tuân mà cũng chê Mạnh, cho rằng cả hai đều cực đoan hết, như chúng tôi đã nói trong chương Tính Ác (chương 5). Nhưng thời đó vẫn trọng các Chu, Trình hơn, nên học thuyết của Tuân bị nghi kị mà tiếng tăm của Tuân bị tiêu trầm.

Từ đầu đời Thanh, tư tưởng Tây phương tràn vào Trung Quốc, tinh thần “thực nghiệm cầu chứng” và chủ nghĩa “nhân vi lực hành” của Tuân mới gặp thời, mà địa vị “đại Nho” của ông lại được xác định trong triết học sử Trung Quốc. Địa vị đó, hiện nay ở Hoa lục càng vững mạnh, và điều này làm sao Tuân có thể ngờ nổi: người ta đề cao ông mà mà đồng thời mạt sát Khổng Tử thậm tệ. Số phận các triết gia lớn như vậy: khi sống thì long đong vất vả mà chết rồi cũng không được yên, có thời được đưa lên mây xanh, có thời lại bị dìm xuống bùn xám, mà càng lên cao lại càng xuống thấp. Có phải vì vậy mà chúng ta thích đọc đời của họ và đọc lịch sử triết học chăng, nhất là lịch sử triết học Trung Hoa, vì không có dân tộc nào mà triết học và chính trị liên quan mật thiết với nhau như Trung Hoa.

[405] Nhân mãn: Hàn Phi Tử bảo: Một người cha có năm người con trai là việc thường thấy, mỗi người con trai lại sinh năm người con trai nữa, vậy là có 25 đứa cháu, dân mỗi ngày một đông mà thực phẩm sẽ mỗi người một thiếu. Hàn đã thấy cái nạn dân số luỹ tiến từ thời đó rồi.