← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC VĂN HỌC QUAN VÀ TÁC PHONG CỦA TUÂN TỬ

Từ Khổng Tử trở về sau, Mạnh Tử và Tuân Tử được suy tôn ngang hàng nhưng đứng về phương diện phê bình văn học mà nói thì Tuân Tử tương đối quan trọng hơn. Tuân Tử trong thiên Phi Thập Nhị Tử, bàn về Tử Tư, bảo ông này “theo phép của tiên vương mà không biết đầu mối”, quả đúng như vậy, bàn theo quan điểm phê bình văn học, Tuân Tử cũng “nắm được đầu mối”, cho nên Tuân Tử xác định cái văn học quan truyền thống của thời đại phong kiến. Tuân Tử là người có tương đối tiếp thu tư tưởng duy vật chất phác của Đạo gia và Mặc gia. Thế thì tại sao ông lại có thể xác định được cái văn học quan truyền thống? - Ấy là vì đằng nào thì rút cuộc Tuân Tử vẫn là Nho gia, là đại biểu cho lí luận của giai cấp phong kiến thống trị, cho nên tư tưởng ông mới có hiện tượng đó[676], mà văn học quan của ông cũng mới thành được văn học quan truyền thống – tức cũng là cái văn học quan “Văn học hợp nhất” theo khẩu hiệu mà về sau cả phái Cổ văn gia lẫn phái Đạo học gia[677] đều đưa ra. Như vậy, hai chữ “văn học” mà Tuân Tử nói tới trong sách của ông không phải trỏ thứ văn học chỉ gồm có hai nghĩa văn chương và bác học[678] mà là thứ văn học hợp lưu của khoa văn học và khoa đức hạnh của Khổng Tử[679]. Thiên Đại Lược sách Tuân Tử nói:

“Người ta đối với văn học cũng như ngọc đối với sự đẽo mài. Kinh Thi nói: “Như cắt, như cứa, như đẽo, như mài”, ấy là nói về sự học vấn. Ngọc Bích của họ Hoà, đá Quyết của Tỉnh Lí, người thợ ngọc đẽo mài làm bảo vật của thiên tử. Tử Cống, Quí Lộ[680] vốn là người quê kệch, nhờ đủ học vấn, theo lễ nghĩa mà thành những kẻ sĩ của thiên hạ”.

Đó là lời thuyết minh văn học có sức đẽo mài con người. Trong thiên Lễ Luận, ông nói: “Tính là cái tài phác nguyên sơ, “nguỵ” là cái văn vẻ tốt đẹp”, ấy cũng là để diễn tả cùng một ý. Tính của con người ta chỉ là một thứ bản năng, tức phải thêm văn học, được đẽo mài, đẽo mài tức là công phu “nguỵ”, cho nên nói: Không có “nguỵ” thì tính không thể tự tốt đẹp. Như vậy, theo ông quan niệm, văn học cũng văn vẻ, tốt đẹp không khác cái “nguỵ”, cho nên quan niệm văn học của ông là quan niệm văn học theo nghĩa rộng, chứa đựng nhân tố “đạo” bên trong.

*

* *

Trước Tuân Tử, cố nhiên Trang Tử, Mạnh Tử và Mặc gia đều là những nhà khai sáng ra lối văn biện luận, thuyết lí, thế nhưng hoàn thành thể chế lối văn biện luận, thuyết lí đủ tính cách cẩn nghiêm thì công đó phải qui cho Tuân Tử. Tại sao? – Văn Trang Tử có thể nói là nhiều mẫu chuyện chấp lại thành thiên, đến những chỗ chấp lại thì hầu như không thật khít khao gắn bó, do đó, nhìn toàn thiên ta thấy mạch lạc không được nghiêm mật. Mạnh Tử mạch lạc hơn, nhưng thường phải cầu cứu đến thể vấn đáp mới trình bày được rõ ý kiến mình. Tình hình ấy vẫn còn, khi nhóm hậu học của Mặc gia chép lại lời Mặc Tử. Tuy không phải đôi bên vấn đáp nhau, nhưng thường thường hay dùng bốn chữ “Thầy Mặc Tử nói”, đặt ở đầu câu làm lời chuyển tiếp. Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó chứng tỏ rằng văn lí luận mà kết cấu được thành thiên, có mạch lạc nghiêm mật không phải là chuyện dễ dàng lắm đâu! Tuân Tử thì chẳng dùng thể vấn đáp, chẳng dùng thể thuật ngôn, ông đã có thể dựng nên, rất là mạch lạc, một thiên văn từ kết cấu tương đối khá nghiêm mật. Mà Tuân Tử sở dĩ hoàn thành được tác phẩm tinh mật, cẩn nghiêm như vậy, không thể không nói rằng điều đó có mối tương quan hệ với tư tưởng “lô-gic” và văn học quan của ông.

Trích dịch Trung Quốc Văn Học

Phê Bình Sử của Quách Thiệu Ngu

Thư điếm Hằng Trí, Hương Cảng, 19??

[676] Hiện tượng đó: Ở trên, trong tiết nói về văn học quan của Khổng Tử, tác giả đã khẳng định tư tưởng Khổng môn vừa “thượng văn” (chú trọng Thi giáo) vừa “thượng dụng” (quan tâm trị đạo, giải minh luân lí).

[677] Đạo học gia: Tức các Nho gia đời Tống chủ trương phục hồi cái đạo chính thống của Khổng Tử truyền lại qua Tử Tư và Mạnh Tử và chưa bị tư tưởng của Lão, Phật pha trọn.

[678] Bác học: Luận ngữ Sớ của Hình Bính giải thích câu “Văn học: Tử Du, Tử Hạ” (Luận ngữ, Tiên Tiến) nói: văn chương, bác học thì có hai người Tử Du và Tử Hạ.

[679] Của Khổng Tử: Bốn khoa của Khổng môn là: 1- Đức hạnh, 2- Ngôn ngữ, - Chính sự, và 4- Văn học.

[680] Tử Cống, Quí Lộ (chữ “Lộ” sách in sai thành “Lộc”) là hai học trò của Khổng Tử. (Goldfish).