ĐẠI Ý NHỮNG THIÊN KHÔNG TRÍCH DỊCH
Đạo bề tôi (Thần đạo)
Bậc sĩ cực hiền (Trí sĩ)
Làm cho nước mạnh (Cường quốc)
Sửa lại những ý kiến sai lầm (Chính luận)
Quân tử (Quân tử)
Thành tướng (Thành tướng)
Phú (Phú)
Ghi vắn tắc những điều cốt yếu (Đại lược)
Hữu toạ (Hữu toạ)
Đạo làm con (Tử đạo)
Theo pháp (tức lễ) mà làm (Pháp hành)
Ai công (Ai công)
Vua Nghiêu hỏi (Nghiêu vấn)
ĐẠO BỀ TÔI
(Thần đạo)
Nội dung thiên này nhất trí, cũng như nội dung thiên Vương Đạo ở trên. Tác giả phân biệt bốn hạng bề tôi:
- Thái thần: bề tôi nịnh vua, chỉ tìm cách làm vui lòng vua để được vua yêu, chẳng nghĩ tới dân, tới xã tắc, như Tô Tần, Trương Nghi…
- Thoán thần: bề tôi lấy lòng dân để được dân khen, họp bè đảng để lấn áp (thoán là cướp) vua, như Mạnh Thường Quân nước Tề[665].
- Công thần: biết trị dân, trung với vua, làm lợi cho nước, như Quản trọng nước Tề.
- Thánh thần: tài đức cao nhất, giáo hoá được dân, như Y Doãn đời Ân.
Trung thần cũng có ba hạng:
- Thượng trung: dùng đức[666] mà che chở, cải hoá được vua, như Chu Công.
- Thứ trung: dùng đức mà giúp vua nên sự nghiệp, như Quản Trọng.
- Hạ trung: dùng đạo lí mà khuyên can vua như Ngũ Tử Tư.
Còn hạng không nghĩ tới vua, tới dân, chỉ mưu lợi cho mình là quốc tặc (giặc trong nước).
*
* *
BẬC SĨ CỰC HIỀN
(Trí sĩ)
Thiên này gồm nhiều ý rời rạc, bàn về cách dùng người, về ích lợi và tư cách của bậc sĩ quân tử, về các đối đãi với dân (phải khoan dung cung kính, theo lễ nghĩa), về đạo làm thầy và tư cách ông thầy.
Xét chung, tư tưởng trong thiên này không thêm được gì cho những thiên đã được trích dẫn.
*
* *
LÀM CHO NƯỚC MẠNH
(Cường quốc)
Thiên này khá dài, chắc do một môn sinh của Tuân viết, vì có câu “Tuân Khanh Tử thuế Tề vương viết…” (Thầy Tuân Khanh thuyết tướng quốc nước Tề rằng…). Tác giả xét cách làm sao cho nước mạnh. Đại ý vẫn là đề cao đạo đức: đạo đức phải hơn người thì mới thật là uy nghiêm, mới có cái thế hơn người, hễ “đắc đạo” thì “đắc nhân”, mà đạo tức là lễ nghĩa, từ nhượng, trung tín.
Như trường hợp nước Tần: Đất đai rất rộng, binh lực rất mạnh mà vẫn sợ các nước khác liên hiệp với nhau để đánh mình, là vì không biết tuyển dụng bậc sĩ quân tử (Tuân Tử gọi là bậc đại nho) để trị nước. Cuối cùng Tuân Tử bảo Ứng hầu, tướng quốc nước Tần: “toàn dụng đạo nho thì có thể thành vương nghiệp, tạp dụng đạo nho (nghĩa là có khi dùng đạo đó, có khi không dùng nó mà dùng thuật) thì có thể thành nghiệp bá, không toàn dụng mà cũng không tạp dụng thì sẽ diệt vong: đó là chỗ sở đoản của Tần.
Cuối thiên, tác giả bảo sở dĩ bọn gian nổi lên là vì người trên không biết trọng nghĩa. Trị dân phải lấy nghĩa làm gốc, phải có đức tin.
*
* *
SỬA LẠI NHỮNG Ý KIẾN SAI LẦM
(Chính luận)
Thiên này dài và quan trọng, chúng tôi đã trích dẫn vài đoạn trong phần I (Học thuyết).
Tuân đả đảo Pháp gia vì họ chủ trương rằng vua phải bí hiểm, cách biệt với bề tôi, không cho họ biết ý mình muốn gì, định làm gì, như vậy, họ mới sợ mình. Ông cho rằng trái lại vua phải thân cận với bề tôi, với dân, cho họ biết rõ ý mình, không giấu giếm gì hết.
Có người chê Thang, Vũ cướp ngôi Kiệt, Trụ, Tuân, cũng như Mạnh Tử, bảo: giết bạo quân cũng như giết một tên vô lại vậy thôi.
Tuân không chấp nhận thuyết Nghiêu, Thuấn nhường ngôi vua của Mạnh Tử (coi phần I).
Ông bảo lễ táng phải hậu chứ không được sơ sài.
Cuối thiên, có hai đoạn trùng với cùng thiên Giải tế, Phi thập nhị Tử, tức những đoạn đả thuyết “Kiến vũ bất nhục” và “Nhân tình dục quả” của Tống Tử.
*
* *
QUÂN TỬ
(Quân tử)
Thiên này ngắn, có lẽ là một phần trong thiên Quân đạo mà sắp lộn và tách ra.
Nhan đề là Quân tử mà nội dung chỉ bàn về đạo làm vua, ý không có gì lạ, chỉ nhắc lại những điều đã nói trong các chương trước về việc thưởng phạt, trọng người hiền, người có tài, dù họ ở trong giới bình dân… Do đó, có học giả ngờ rằng nhan đề chính là Thiên tử mà người sau chép lộn.
*
* *
THÀNH TƯỚNG
(Thành tướng)
Nhan đề “Thành tướng” chỉ là hai chữ đầu của thiên, không liên quan gì đến đại ý của thiên (“Thành tướng” vốn là một nhạc khí gõ nhịp trong khi giã gạo).
Tác giả cũng lập lại những ý về trị nước đã diễn trong các thiên khác: trọng hiền thần, trung thần, vua phải chăm giữ đạo, bề tôi phải chăm lo chức vụ, phải tiết dụng, pháp luật phải rõ ràng, xác đáng v.v…
*
* *
PHÚ
(Phú)
Phú vốn là một phép hành văn mà qui tắc là “trực trần kì sự” (nói thẳng điều mình muốn nói), sau dùng để trỏ một thể văn tả cảnh vật, tâm sự một cách diễm lệ, du dương, lên bổng xuống trầm, đôi khi có đối, có vần.
Phát sinh ở phương Nam, có lẽ do ảnh hưởng của Khuất Nguyên (trong Sở từ).
Tương truyền Tuân Tử có khoảng hai mươi bài phú, thất lạc gần hết, đây là một bài, có lẽ là một thiên gồm nhiều bài thì đúng hơn, vì gồm ba phần chính không liên quan gì với nhau:
- Phần đầu nói về lễ và trí.
- Phần giữa nói về mây, con tằm, cái trâm (cái đầu), nên coi phần này là ba bài phú nhỏ.
- Phần dưới than thở về nông nỗi: người ngay thẳng thì bị nghi mà kẻ gian tà thì được thưởng.
Dưới đây, chúng tôi xin trích dịch nửa phần đầu, nói về lễ để độc giả biết hình thức thể phú thời đó mà so sánh với các bài phú của Tư Mã Tương Như đời Hán và các bài đời Đương, đời Tống sau này.
*
(Viên hữu đại vật, phi ti phi bạch, văn lí thành chương, phi nhật phi nguyệt, vi thiên hạ minh, sinh giả dĩ thọ, tử giả dĩ táng, thành quách dĩ cố, tam quân dĩ cường, tuý nhi vương, bác nhi bá, nhất vô yên nhi vương (vong), Thần ngu bất thức, cảm vấn chi vương. – Vương viết: Thử phù văn nhi bất thái giả dư? Giản nhiên dị tri hữu lí giả dư? Quân tử sở kính nhi tiểu nhân sở phủ giả dư? Tính bất đắc tắc nhược cầm thú, tính đắc chi thậm nhã tự giả dư? Thất phu long chi tắc vi thánh nhân, chư hầu long chi tắc nhất tứ hải giả dư? Tri minh nhi ước, thậm thuận nhi thể, thỉnh qui chi lễ)[667].
Có một vật nọ, chẳng phải tơ, chẳng phải lụa mà thêu thùa đẹp đẽ, không phải mặt trăng, mặt trời mà chiếu sáng thiên hạ, người sống nhờ nó mà thọ, người chết nhờ nó mà được chôn cất, thành quách nhờ nó mà vững, ba quân nhờ nó mà mạnh, một mực dùng nó thì thành vương nghiệp, tạp nhạp dùng nó thì thành bá nghiệp, hoàn toàn không dùng nó thì bại vong. Thần ngu dốt, không biết (nó là cái gì), xin hỏi nhà vua. – Vua đáp: Phải cái đó đẹp đẽ mà không màu mè chăng? Giản dị dễ biết mà rất có điều lí chăng? Nó phải là cái mà quân tử tôn trọng còn tiểu nhân thì khinh bỉ chăng? Bản tính người ta không có nó thì không khác gì cầm thú, có nó thì rất tao nhã chăng? Kẻ thất phu trọng nó thì thành thánh nhân, chư hầu trọng nó thì thống nhất được thiên hạ chăng? Nó rất sáng sủa mà lại giản ước, lí nó rất thuận mà dễ thi hành. Cái đó là lễ.
*
Chỉ là những ý kiến đã diễn nhiều lần trong các chương trên nhưng hình thức khác hẳn: khi thì cứ bốn chữ lại ngắt như: “Phi ti phi bạch, văn lí thành chương”, khi thì ba chữ, mười một chữ, tám chữ, đặc biệt nhất là thành từng vế đối nhau: “Phi ti phi bạch, văn lí thành chương” đối với “Phi nhật phi nguyệt, vi thiên hạ minh”, hoặc “tuý nhi vương” đối với “bác nhi bá”, hoặc “thất phu long chi tắc vi thánh nhân” đối với “chư hầu long chi tắc nhất tứ hải”… Nhưng bằng trắc, bổng trầm chưa được phân phối đều mà vần cũng chưa có, như trong các bài phú từ đời Hán trở đi.
Lối dùng những vế cùng một số chữ và đối nhau đã thỉnh thoảng thấy xuất hiện trễ nhất từ đời Khổng Tử, ví dụ câu này của Khổng Tử (chép lại trong Luận ngữ): (Hữu quốc hữu gia giả), bất hoạn quả (nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần, nhi hoạn bất an), đó là một xu thế tự nhiên của những ngôn ngữ cách thể (đơn âm), có nhiều thanh như Hoa ngữ, Việt ngữ. Đạo Đức Kinh của Lão Tử rất thường dùng nó một cách cố ý. Có hệ thống, thành một thể văn thì phải đợi đến Khuất Nguyên và Tuân Tử.
*
* *
GHI VẮN TẮC NHỮNG ĐIỀU CỐT YẾU
(Đại lược)
Thiên này rất dài và cũng rất hỗn tạp, có lẽ do môn đệ của Tuân Tử nhớ đâu ghi đấy, không theo một thứ tự nào cả. Đa số là những châm ngôn về đủ các vấn đề: tục lệ, lễ nghi, các cư xử, ăn nói, dạy con, trị dân, đạo vợ chồng, các quan khanh khuyên vua khi vua lên ngôi, đạo hiếu, đạo quân tử… Những châm ngôn đó thường ngắn, gọn, hàm súc như câu này: “Lễ dĩ thuận nhân tâm vi bản, cố vô ư Lễ Kinh nhi thuận nhân tâm giả giai lễ dã”[668]: Cái gốc của lễ là thuận lòng người, cho nên điều gì kinh Lễ không chép mà thuận lòng người thì cũng là lễ.
Một số nữa là những cố sự lí thú về các hiền nhân, quân tử thời trước như Tăng Tử, Tử Hạ[669], vua Thang, Án Anh[670], Quản Trọng…
*
* *
HỮU TOẠ
(Hữu toạ)
Nguyên là chữ HỰU dùng như chữ HỮU[671]. “Hữu toạ” là một vật vua đặt bên phải chỗ mình ngồi để trông thấy nó mà tự răn mình. Vật đo nếu không chứa nước thì nghiêng, chứa đầy quá thì cũng nghiêng, chứa vừa phải thì đứng ngay ngắn.
Nhan đề đó không tóm được đại ý trong thiên, vì nội dung của thiên cũng hỗn tạp, gồm chín cố sự về Khổng Tử, khi ông làm tư khấu nước Lỗ, khi ông bị vây ở khoảng giữa hai nước Trần và Thái, khi ông nói chuyện với môn sinh… hầu hết là những chuyện đã chép trong Luận ngữ.
*
* *
ĐẠO LÀM CON
(Tử đạo)
Cũng chép những lời của Khổng Tử nói về trung, hiếu, trí, nhân.
Có chuyện bắt chước Luận ngữ. Nội dung tầm thường.
*
* *
THEO PHÁP (tức lễ) MÀ LÀM
(Pháp hành)
Thiên này rất ngắn và cũng tầm thường, chép lại ít lời của Khổng Tử và Tăng Tử khuyên ta đừng ham lợi, nên xét những đức “nhân, trí, dũng!...” của ngọc, nên giao du với bạn ra sao?
*
* *
AI CÔNG
(Ai công)
Tác giả[672] lấy mấy chữ đầu thiên để đặt tên thiên. Chép những lời Khổng Tử đáp vua Ai công nước Lỗ về việc trị nước, về các hạng người: hạng tầm thường, kẻ sĩ, bậc quân tử, hiền nhân, khuyên vua đừng làm kiệt sức dân…
*
* *
VUA NGHIÊU HỎI
(Nghiêu vấn)
Cũng dùng hai chữ đầu để đặt tên thiên. Gồm hai phần: Phần trên chép một ít cố sự, ngôn hành của vua Nghiêu, Ngô Khởi[673], Chu công, Tôn Thúc Ngao[674], Khổng Tử, phần dưới chép lời một môn sinh của Tuân Tử cực lực khen thầy, đại ý bảo: “Các người học đạo (tức người học lễ[675]) thời nay mà được những di ngôn của Tôn Khanh thì đủ làm phép tắc cho thiên hạ (…). Coi những hành vi của ông, dẫu Khổng Tử cũng không hơn, thế mà người đời không xét kĩ, bảo ông không phải là thánh nhân (…). Ông không gặp thời, chứ đức ông ngang với Nghiêu, Vũ, mà người đời ít ai biết, phương thuật (chính sách) của ông không được dùng nên bị người đời nghi ngờ, trí ông cực sáng suốt, cứ thi hành theo chính đạo (của ông) thì có thể làm kỉ cương cho đời. Ôi! Ông thật là bậc hiền, đáng làm đế vương…”.
Bộ Tuân Tử kết thúc bằng lời ca tụng đó.
[665] Nước Tề: Nếu thiên này thực của Tuân viết thì Tuân có nghĩ đến Xuân Thân Quân nước Sở, ân nhân của Tuân không?
[666] Sách in là “sức”, tôi dựa theo câu sau đây, tạm sửa lại thành “đức”: “Hữu đại trung giả, hữu thứ trung giả…: dĩ đức phúc quân nhi hóa chi, đại trung dã; dĩ đức điều quân nhi phụ chi, thứ trung dã…” 有大忠者,有次忠者…:以德覆君而化之,大忠也;以德調君而輔之,次忠也. (Goldfish).
[667] Chữ “vấn” trong “cảm vấn chi vương” và chữ “phủ” trong “tiểu nhân sở phủ giả dư?”, bản đăng trên trang http://www.yubobo.com/book/zzbj/xunzi/xunzi26.htm chép là “thỉnh” (請) và “bất” (不). Ngoài ra, trước mấy chữ “thậm nhã tự giả dư?”, bản trên trang vừa nêu còn có chữ “tắc” (則). Nguyên văn chữ Hán theo trang nêu trên như sau: 爰有大物,非絲非帛,文理成章;非日非月,爲天下明。生者以壽,死者以葬。城郭以固,三軍以強。粹而王,駁而伯,無一焉而亡。臣愚不識,敢請之王? 王曰:此夫文而不採者與?簡然易知,而致有理者與?君子所敬,而小人所不者與?性不得則若禽獸,性得之則甚雅似者與?匹夫隆之則爲聖人,諸侯隆之則一四海者與?致明而約,甚順而體,請歸之禮。(Goldfish).
[668] Các bản trên mạng chép là: “Lễ dĩ thuận nhân tâm vi bản, cố vong ư Lễ Kinh nhi thuận ư nhân tâm giả, giai lễ dã” 禮以順人心爲本,故亡於禮經而順於人心者,皆禮也。(Goldfish).
[669] Tăng Tử: tức Tăng Sâm (xem chú thích trong thiên Tính ác). Tử Hạ: Người nước Vệ, họ Bốc, tên Thương, là một môn sinh của Khổng Tử, giỏi về văn học, chuyên về Kinh Thi. Sau khi Khổng Tử mất, ông mở trường dạy học ở Tây Hà, Nguỵ Văn hầu tôn ông là bậc thầy. (Goldfish).
[670] Án Anh: Tể tướng nước Tề thời Xuân Thu. (Goldfish).
[671] Ý nói: chữ “hữu” 宥 (trong nhan đề “Hữu toạ” 宥坐) dùng như chữ “hữu” 右 (có nghĩa là bên phải). (Golfish).
[672] Tác giả: Có thể là người thu thập thiên này.
[673] Ngô Khởi: người nước Vệ, từng làm đại tướng hai nước Lỗ và Nguỵ, làm tướng quốc nước Sở. (Goldfish).
[674] Tôn Thúc Ngao: Họ Vĩ, tên Ngao, tự Tôn Thúc, làm lệnh doãn (có nói là tể tướng) nước Sở. (Goldfish).
[675] Lễ: sách in là “đạo”. Chữ “phép tắc” trong câu “thời nay… đủ làm phép tắc cho thiên hạ”, nguyên văn là “pháp” (法), mà chữ “pháp” này trong thiên Pháp hành (法行), theo hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, có nghĩa là “lễ”. (Goldfish).