- III -
Những ngày đầu năm, cuộc sống trên đường đi Long Châu và trong vùng cũng đều thu vào những bờ tre, những hào luỹ, những làng xóm xa khuất. Chỉ có ba người trẻ tuổi không có Tết mà cứ hăm hở, vừa đi vừa chạy. Họ không ăn Tết ngoài đời, nhưng trong lòng mỗi người đương tưng bừng như Tết.
Hùng mang theo một tờ Thanh Niên (1). Tháng trước, Hùng ra Long Châu mượn Bùi báo Thanh Niên rồi đem về Cao Bằng. Mỗi lần có tờ báo cách mệnh về, Hùng truyền khắp vùng Nước Hai và sang cả huyện khác nữa. Cao Bằng có phong trào cách mệnh, nhờ thế, những tổ thanh niên, những người quen Hùng, cả bọn lục sự hay bang tá trẻ, Hùng cũng đưa cho họ đọc. Đến khi tờ báo đã nát nhủn, nhưng những người xem cẩn thận đã lấy giấy bản Mán dính các vết gấp lại. Thành thử, tờ báo cũ, càng dầy kệp như cái mo nang, đọc chữ được chữ không. Tuy vậy, trong con mắt người thanh niên đương sôi nổi, mỗi chữ vẫn sáng chói như ngọn đèn soi vào biết bao điều mới lạ. Chi và Thụ đọc thuộc không sót một chữ. Đọc xong càng hăm hở muốn đến ngay Long Châu và đi xa hơn nữa.
Hùng đã ra Long Châu nhiều lần. Hùng nói, thành thạo:
- Trên Quảng Châu mà có lớp huấn luyện thì Long Châu biết ngay, ở Long Châu ta có thể biết tin tức cách mệnh thế giới xa rộng hơn nữa. Nằm xó ở Lũng Nghìu làm gì!
Bấy giờ, Thụ và Chi mới biết Hùng muốn đưa hai người đến Long Châu vì không muốn họ nằm xó ở Lũng Nghìu. Chỉ có thế và chưa có gì khác hoặc mới mẻ hơn. Tuy nhiên, thế cũng tốt và đã có dấu hiệu mới, Thụ và Chi vẫn hăng hái như thường.
Rồi ba người đến Long Châu một buổi chiều.
Cái cảm tưởng đầu tiên thấy Long Châu không khác lạ như trong tưởng tượng bồng bột của Thụ và Chi khi đi đường.
Long Châu vào tầm mắt trông cũng quen từa tựa cái quãng sông có phố xá chen chúc bên này đầu cầu Kỳ Lừa. Trong ánh nắng vàng choé, những người và những bó củi từ chân rừng đằng kia bước ra, đi lũ lượt, đen xỉn, im lặng. Họ đem củi vào thị trấn bán. Người và củi vào bóng hoàng hôn ủ dột, mệt nhọc. Trên bờ sông cạn trơ sỏi, trẻ con gầy teo, tắm không đùa cười; còn người ra sông giặt một đống quần áo cũ mà chỉ ngâm xuống nước rồi vỗ bộp bộp, không buồn vò. Người kéo cá, người mò hến lúc lặn lúc thở, đông đúc chen nhau bên mép nước. Giữa dòng trôi một cành củi, cành củi hay xác chết lập lờ đấy, chẳng rõ. Những con quạ khoang cứ loay hoay đuổi theo, tranh nhau xà xuống kêu ầm mặt sóng.
Dòng nước mang những cảnh đau khổ này vẫn một con sông Kỳ Cùng đuổi theo mình đến đây. Đấy là cảm tưởng Long Châu buồn bã của hai người. Nhưng Thụ lại nghĩ: “Thế ra ở đâu người nghèo cũng khổ, ở đâu người nghèo cũng cần làm cách mệnh”. Và nói với Chi thế.
Hùng dẫn hai bạn vào thị trấn. Đến một phố có liền một dãy những gian nhà giống nhau, cửa hàng máy khâu nhà Bùi ở đấy.
Vào nhà, không thấy ai. Ngày Tết mà nhà lạnh như không. Mảnh giấy hồng điều dán cửa như mọi nhà trong phố cũng chẳng có. Hay Bùi đã dọn đi nơi khác rồi.
Giữa lúc ấy, Bùi tất tưởi ở đâu về, mặt phờ phạc cau có buồn thiu. Thấy ba người, Bùi nói:
- Mất cái máy khâu rồi, chết rồi!
Bấy giờ Hùng mới để ý: chỗ cửa sổ vẫn đặt cái máy khâu Sanh-gie cũ đã gần tróc hết lượt sơn đen, bây giờ chỗ ấy trống trơn như một lỗ hổng.
Mất cái máy khâu từ hôm áp Tết. Những ngày cuối năm, nhiều hàng quá. Nhiều hàng, phải thức khuya làm. Đương sức trai, ngủ say. Tuy Bùi đã cẩn thận nằm dốc ngược người và gác cả hai chân lên máy, thế mà kẻ trộm đã vào nhấc chân Bùi xuống, khuân máy đi lúc nào, đến sáng ngày ra mới biết. Mất Tết đã đành, còn mọi mặt sinh sống hàng ngày, còn có khi giúp đỡ các anh em đồng chí qua lại, tất cả đều trông vào một cái máy ấy! Bây giờ còn lo khốn đốn phải đền cái máy thuê, lo khất nợ vải khách hàng - có người lại nghi cửa hàng làm liều, lập kế thế để ăn cắp vải. Nhiều khách may quần áo đe gửi đơn kiện lên huyện, rồi doạ Bùi: “Hễ đi đâu ra khỏi trấn thì lính bảo an đuổi theo chặt chân”. Họ phòng Bùi vỗ nợ hay cuỗm vải trốn đi. Làm thế nào bây giờ? Lúng túng to rồi.
Cái khốn khố ấy lại lây ngay đến Thụ và Chi. Hùng cũng chỉ còn đủ tiền ăn đường về Cao Bằng.
Làm thế nào bây giờ? Trước nhất, phải lo miếng ăn ngay. Hai người đi một lượt, qua các phố, đến chợ, lại càng thấy Long Châu cũng như Đồng Đăng, như Kỳ Lừa - khác nhau có bên Lạng Sơn thì thằng Tây hay khố xanh, khố đỏ bồng súng đứng canh im phắc, còn ở đây lính Tàu khoác cái đại đao vào vai, đi đi lại lại. Nhưng ở nơi nào cũng giống nhau: chốc chốc lại thấy chúng điệu một xâu người đi tha thẩn qua phố, có lúc là nhà pha đi làm cỏ về, có lúc đám cướp, có lúc những đám gì bị bắt, không biết nữa và người ta còn mải miết tìm cách sinh sống, không ai hơi sức đâu mà để ý những chuyện qua đường ấy nữa. Và ở đây cũng như bên Lạng Sơn, nơi nào cũng cứ lao nhao những chủ sòng tài xỉu, đố chữ, những chủ cao lầu mà trên gác giam đầy gái đĩ cứ phải thò đầu nhòm ra như gà ngạt hơi, những chủ ô-tô hàng đàn đúm với lũ du côn nhâng nháo giắt dao găm quanh thắt lưng, đêm đêm, lính tráng vác đại đao đi tuần phòng rầm rập, tiếng súng nổ, tiếng kêu, rồi người thắt cổ, người trẫm mình, người bị quan quân trong đồn ra bắt, trói ngoặt tay ra đằng sau, lại điệu đi hàng dãy qua phố.
Ở chợ thì ăn mày và người hủi, người say rượu lê la, chồng đống. Cứ vài hôm, lính trong huyện lại giải tù ra chém để thị uy, rồi bêu đầu ngay cổng chợ. Thối sặc sụa, người đi chợ khiếp quá, phải phá tường leo đằng sau vào.
Cảnh khổ của người Long Châu đã bày ra từ bờ sông vào đến các ngõ hẻm từng nhà, trong tiếng chửi nhau và những trận đòn hội chợ gào xé đánh đuổi nhau vang động từ buổi chiêu mà họ vừa đặt chân tới.
Đâu cũng vẫn một đau thương ấy. Thụ để ý đây cũng cơ man là người quảy bán củi. Ngồi đầy ở chợ rồi còn gánh mẹ, gánh con nối nhau đi rong, rao nheo nhéo các phố. Lại như cảnh các chợ Hạ Đống hay chợ Đồng Đăng, mọi khi Mã Hợp thường nói: bây giờ người bán củi đông hơn người mua củi, khó quá. Đây cũng thế.
Thụ về hỏi Bùi:
- Anh xem có việc gì sức tôi làm được?
- Người khoẻ cũng đi ăn mày chật đường kia kìa.
- Hái củi bán được không?
- Lạ mặt như các anh, lính nó bảo là thổ phỉ về mò thám cướp phố, nó chém bêu đầu cổng chợ, chém lây cả đến đứa chứa các anh đấy. Thật mà, ở đây nó vẫn làm thế.
Hùng nói:
- Lúc nãy tôi thấy trong phố có mấy chỗ đánh trống mộ lính.
- Ừ, Long Châu đương mộ lính. Hàng tháng nay rồi. Không chạy được tiền trả nợ, tôi cũng đến lại phải vào lính nữa.
Nghe Bùi nói thế, Hùng nảy ra ý kiến:
- Hay là tạm đi lính lấy cái ăn đã. Khi nào có liên lạc, tao gọi thì bỏ ra. Thế vậy. Anh Bùi này khi mới đến cũng phải vào quân đoàn kiếm cơm một dạo đấy.
Không biết xoay thế nào, Chi đáp miễn cưỡng một tiếng:
- Được.
Bùi đi một lúc rồi về nói:
- Có Lương Tử Hồng là người của cách mệnh Trung Quốc đương đứng ra kén lính cho Quốc dân đảng, nhưng chính là đưa người tốt của ta vào làm cơ sở trong lính Quốc dân đảng của nó đấy. Để tôi giới thiệu cho.
Thụ giao hẹn, nửa thật nửa đùa:
- Anh Bùi nhé, thằng Hùng nhé, muốn thế nào thì thế, nhớ hễ có liên lạc thì gọi cho chúng tao trốn ra ngay. Không thì ông thành lính thổ phỉ Tàu, ông mà gặp chúng mày đâu, ông bắt.
Chi thật thà, hỏi:
- Nhưng mình người Việt Nam, đi lính Tàu thế nào?
Mọi người đều cười to.
- Chúng ta chỉ mất công nghĩ cái tên khác rồi cạo nhẵn cái đầu là xong thôi mà!
Thụ nhớ Mã Hợp. Cái đầu trọc, cái nón cói đại úp vào lưng, địu một địu củi. Bảo nó là người Tàu hay người Việt Nam thì cũng vẫn một người Nùng nghèo khổ ấy.
Nhà mộ lính to nhất ở trên cửa huyện, giữa phố Bạch Bảo Cai. Tiêng trống ầm ầm suốt ngày gọi người các nơi đến ghi tên rồi phát tiền ngay. Người không có việc làm, người đói các làng xung quanh lũ lượt hôm nào cũng đến, đứng tụ thành một gò người, đạp nhau chen vào.
Hùng đưa hai bạn đến. Bùi không đi được. Bùi còn đương rối mù quanh chuyện mất máy khâu. Ngay sáng hôm ấy, Thụ và Chi được ban mộ lính nhận ngay.
Hôm sau là ngày chia quân mới mộ đi các nơi. Trong nhà ở tạm, ngổn ngang người nằm đợi. Chốc chốc, lính thơ lại vào gọi to:
- Ra ngay cho quan điểm danh!
Rồi người lính thơ lại đọc tên ai thì người ấy đến đứng tụ thành một toán cùng bước sang sân nhà mộ. Có người theo sang xem, lát sau, về nói: đám ấy đi trong huyện... Chốc lại người vào đọc tên gọi một toán đi; người chạy theo xem, về lại kháo: bọn này đi Liễu Châu... bọn này đi Bình Tường... đi Long An... bọn này đi Hạ Đống, sướng chưa, đi trong huyện... chỉ đi trong huyện thôi...
Cuộc gọi tên chia quân cho các huyện kéo dài đến quá trưa, đã vãn mà Thụ và Chi vẫn ngồi ngong ngóng trong nhà ở tạm, chỉ còn lại lèo tèo mấy người vào lớp mộ hôm qua.
Tiếng xì xào:
- Chết chửa, càng gọi sau càng phải đi xa.
- Ta lần vào đám này mà ra cho nó gọi trước, không ai biết.
- Nó đánh chết!
- Liều đi, nhớ ra ngoài Long Châu rồi không lộn lại được. Đi xa thì cầm bằng như chết rồi.
- Ai dại! Nó biết, nó chém ngay.
Mọi người cứ nấn ná, bồn chồn.
Lát sau, Thụ và Chi, hai người được gọi một lúc - may quá. Cái may đầu tiên.
Hơn năm mươi người lố nhố ra đứng giữa bãi cỏ. Quanh bãi, chen nhau vòng trong vòng ngoài lúc nhúc những người nhà và người rỗi đi xem, cả nhiều người đợi ghi tên chưa được. Thụ nom rõ Hùng trong đám ấy, đương giơ nón vẫy vẫy vào. Có lúc đông quá người khác chen qua, lại mất hút trong đám nhốn nháo.
Phút chốc, một ông quan đeo kính bước ra, đứng lên hàng đầu cả toán, đọc lại tên một lượt, rồi nói:
- Những người này lên quân khu trên Vũ Hán...
Vũ Hán tận đâu... Tiếng xì xào nổi rộn, lan ngay ra vòng người sửng sốt xung quanh. Chi nhìn ngó chỉ thấy rối rít. Chi hỏi Thụ xem ai là Lương Tử Hồng, ai là Lương Tử Hồng để hỏi xem sao lại thế và có trông thấy Hùng đâu không, Hùng đâu. Nhưng giữa bãi cỏ rộng chỉ có hơn năm mươi lính mộ và người quan đeo kính lúc nãy gọi tên cả đám bây giờ đương bước vào trong nhà chỉ trỏ xua mấy người lính xách đại đao ra múa lên, dẹp cả bọn giạt vào bãi trong. Để đi Vũ Hán ngay lúc ấy.
Ngoài nhà mộ lại đương nổi trống. Đã vãn số lính mộ ở nhà tạm, lại nổi trống và ghi tên, phát tiền cho lớp mới. Nhiều người đi mộ lại chen đạp nhau vào, tiếng kêu gào rầm rầm vang lại. Chẳng biết Lương Tử Hồng là ai.
Cũng may thế. Ở đấy không ai biết Lương Tử Hồng. Nếu biết thì Thụ và Chi đã mất đầu rồi. Bởi vì, Lương Tử Hồng đã bị bọn quân phiệt phản động ở Long Châu bắt giết đêm trước rồi, mà Bùi không biết.
Mấy lớp người nữa xô đến, trèo cả lên vai nhau, nhảy xô vào chỗ bàn mộ. Thật không thấy Hùng đâu nữa. Chi hấp tấp bảo Thụ:
- Có trốn ra không? Đi Vũ Hán à?
Thụ nói chậm chậm, nghĩ ngợi:
- Cứ đi đã, Chi ạ.
Thêm mấy bọn ở các nhà mộ khác cộng lại, bây giờ thành một đoàn ngót trăm con người từ Long Châu lên Vũ Hán. Có hai lính cũ đi kèm. Anh em gọi là ông bài trưởng (2). Nhưng chỉ thấy bài trưởng cầm cái gậy. Mấy hôm sau hỏi ra, cũng không phải hai người lính cũ ấy là bài trưởng.
Đến chỗ nghỉ đêm đầu, kiểm lại, thấy trốn mất ba chục người. Sau phải tập trung tiền của sở mộ phát cho toán trưởng giữ. Đến lúc một toán trưởng cuỗm tiền đi thì lại vỡ cả lũ. Nhưng có những người hết tiền rồi, vẫn ở ì ra. Đánh cũng không đi. Toán khác phải nuôi báo cô, cho theo. Sau cùng, chẳng biết ai nghĩ ra cách ấy, họ chia từng tốp năm ba người đi kèm nhau. Lúc đó, chỉ có ốm thì nằm lại chứ không còn người trốn. Nhưng lúc ấy cũng không ai trốn nữa. Vì dần dần, mù tịt đường đất. Đã xa quê.
Ròng rã, ngày đi đêm nghỉ.
Ngày lại ngày, hôm nay không ai biết mai ra sao. Mỗi lúc bước vào một thời tiết trái nắng trở trời khác nhau. Có hôm rét cắt ruột, có khi mưa rầu rĩ mấy ngày, có người đương đi cũng ngã ra chết.
Mấy ngày đầu, Thụ và Chi khiêng cái chảo gang to. Có được cái ấy của Chính phủ đế thổi cơm, còn thiếu thì nghỉ đâu mượn đấy. Không phải mọi người tử tế hoặc công bằng với nhau. Thụ và Chi khiêng chảo chỉ vì cái chảo nặng, không ai muốn khiêng. Nhiều người đi tay không, chẳng có một mảnh áo để thay đổi. Nhưng cũng lùi lũi đi, không biết có cái chảo.
Hai anh em khiêng chảo. Còn vui, vừa đi vừa hát lượn, có khi làm cô then hát buồn cười. Đến chỗ nghỉ, một người vơ củi, một người đi mua gạo về cặm cụi thổi cơm. Cơm chín, chia từng người. Còn mảnh cháy vụn dính chảo cũng chia hết.
Thế mà có người còn sừng sộ:
- Chúng mày thổi cơm xong chúng mày lại chia. Thế thì chúng mày ăn gian hết. Để tao ở giữa đứng ra chia mới công bằng được.
- Ừ thì mày chia.
Thụ và Chi nhường ngay anh nọ chia cơm. Cùng chịu nỗi khổ, dù có chút nào nhỏ nhen cũng chỉ là những người đáng thương. Bởi vậy, không chia cơm nữa nhưng hai người vẫn chịu khó vơ củi, đong gạo, thổi cơm, nấu nước, cọ chảo cẩn thận. Đến khuya, tắm nước nóng thoả thích mới xong việc và ngả lưng một chút. Rồi ngày ngày khiêng chảo đi.
Một hôm sắp được ăn thì xảy ra trận đánh nhau loã lợi chảy máu miệng, máu đầu. Có một người đứng rình rồi vẫy tay cho một bọn xúm lại đánh cái anh hôm trước sừng sộ tranh chia cơm. Thụ phải xô vào can. Bấy giờ mối hiểu tại sao họ đánh nhau. Bọn kia đã bắt được anh này vừa chia vừa ăn vụng, lại lấy trước phần mình to, lại thưởng riêng cho mình miếng cháy bằng bàn tay, bảo là công khó nhọc người chia. Buổi chiều càng lộn xộn. Chưa chín cơm, mấy bọn đã xô cả vào nhận chia, người đánh nhau loạn xạ chạy quanh bãi kêu khóc, táo tác một lúc.
Thấy thế, Thụ nói:
- Từ giờ, lại để tôi chia cơm. Anh em có bằng lòng không?
Những người đầu bò nhất cũng cười hỉ hả, kêu: được rồi! Được!
Thụ lại đứng ra chia cơm, chia thật phân minh. Từng miếng cơm chia đều, cẩn thận từng hạt rơi, làm cho mọi người cảm thông số phận lưu lạc phải dắt nhau đi. Họ không đánh nhau nữa. Mỗi ngày đường lại cùng nhau kể nỗi khổ đời mình. Thụ và Chi không nói cho ai biết mình là người Lạng Sơn. Nhưng họ hiền lành, hay giúp người khác, lại biết chữ. Ai cũng quý. Từ đấy về sau, mọi người bảo nhau thay vai khiêng cái chảo gang. Không để Thụ và Chi vác nữa.
Ròng rã hơn một tháng.
Một hôm, đoàn người đi lính mộ hỏi thăm thì biết họ đương đi gần tới Vũ Hán. Họ xin ông “bài trưởng” cho nghỉ lại một hôm ở ngoài thành. Không ai bảo ai mà đều có ý sợ, muốn nằm cho lại sức, không ai muốn đến chỗ trại giao quân mà người ta thấy mình lại tiều tuỵ quá. Nhỡ sở mộ chê ốm yếu thải ra ở đây thì thật chỉ có chết.
Qua sông Trường Giang, sóng đỏ lừ cao bằng đầu, đã khiếp! Đoàn người đói khổ cứ thấy thuyền bơi mãi chưa sang hết sông. Từ thuở bé, không ai thấy sông nào to đến thế. Sông này như sông về âm phủ, đã qua chắc khó trở lại.
Nhưng vào đến trại lính Vũ Hán lại vẫn nằm đợi, lại nằm trông ra cái bãi cỏ rộng, đằng cuối là chân tường cao. Ngày ngày, nghe trăm nghìn thứ tiếng ồn ào ngoài thành phố vang tới, càng sốt ruột. Có một người táo bạo, tìm được cái lỗ cống, chui ra, đi xem trộm Vũ Hán ra sao.
Tận chiều mới về. Chỉ ra ngoài có một buổi mà trông mặt mũi anh ta mờ mịt, chân đi thất thểu, người cao vêu hẳn hơn lúc đi.
Anh kể:
- Chúng mày ạ, tao đi xa lắm.
- Xa mãi đâu?
- Tao trở ra tận chỗ bờ sông hôm nọ. Tao đứng một lúc mà được xem mấy cái xác chết trôi qua. Người trên bờ tranh nhau lội ra lột lấy quần áo.
- Có gì nữa không?
- Cái chợ to gấp trăm chợ Long Châu, có mười cửa vào.
- Mày kiếm được gì ăn mà đi cả ngày thế?
- Cũng như Long Châu.
- Nhiều thứ lắm hả?
- Chẳng có thứ gì, chỉ nhiều ăn mày, nhiều người hủi.
- Có vào chợ xem không? Chợ cũng thế à?
- Cổng chợ nào cũng có cọc để bêu đầu, như chợ dưới Long Châu ta, đông hơn dưới ta, mỗi cổng năm cọc, cọc nào cũng có cắm đầu lâu mới...
- Thôi, đừng nói nữa!
Đến tối, Thụ mới hỏi người ấy:
- Chợ có thấy người bán củi không?
Nghĩ một lát, anh ta mới nói, không hiểu sao lại lắc đầu:
- Nhiều lắm, chợ toàn người bán củi.
Nhiều người cũng nghe tiếng và cùng thở dài. Thế thì Vũ Hán còn khó hơn Long Châu.
Hôm sau, anh chàng táo bạo ấy không chui cống ra phố chơi nữa.
Đến một tháng qua rồi.
Ngày kia, có người xuống gọi cả bọn lên cho quan hỏi. Chưa trông rõ người đã nghe trong nhà có tiếng chửi mắng lát sát ra:
- Tỉnh Quảng Tây bãi lệnh lấy lính đã lâu mà chúng mày còn nằm vạ Chính phủ ở đây à? Muốn vào tù không? Ban mộ lính ăn cắp tiền của Chính phủ ở Long Châu đã chết chém cả rồi đấy! Chúng mày biết chưa?
Tiếng quát lớn thúc ra:
- Cút ngay!
Chưa ai trông thấy ông quan trong nhà, cả bọn đã bị lính đẩy hết xuống thềm. Hai lính chạy ra xách đi mất cái chảo vẫn thổi cơm mọi khi.
Có người khóc hu hu:
- Các người đem tôi đi, bỏ chết tôi ở đây à?
Một người quan nào ấy cũng đeo kính trắng như thằng quan ở Long Châu ra trỏ tay cho một lũ lính khác xông đến đánh túi bụi. Chúng vừa đánh vừa xỉ vả:
- Mấy tháng ăn vào tiền của Chính phủ rồi, còn muốn ăn đến lúc chết chém như bọn mộ lính ở Long Châu mới thôi à?
Người ta nằm lăn ra đấy, cho đánh. Đến lúc chúng nó hô thêm nhiều lính nữa đem lưỡi lê và đại đao sáng trắng như vôi ra toan đâm, bấy giờ mới chịu chạy. Thế là chúng tống được cả bọn ra cửa, tống luôn cả hai ông “bài trưởng” ra. Hai “bài trưởng” mất nốt chân lính! Họ kêu khóc, gào thét váng cả quãng đường. Người đi đường cũng không ai xúm lại xem. Cảnh huyên náo như thế ở cửa trại lính, đâu cũng thế, cũng là chuyện thường ngày.
Cái thành phố Vũ Hán, ăn mày ngổn ngang ngoài đường nhiều hơn người làm, đi suốt buổi vẫn chỉ thấy gạch và đá dưới chân. Biết nậy gì lên mà ăn cho sống người!
Và còn ghê hơn câu chuyện người hôm nọ chui cống ra phố về kể lại. Mỗi ngã ba ngã tư đường đều có cọc bêu đầu. Ngang nhìn đâu cũng thấy đầu lâu người. Nhặng xanh bay từng làn như khói trên thành phố. Từ khi Hứa Khắc Tường mở đầu cuộc phản hợp tác Quốc Cộng ở Trường Sa thì tình hình cách mệnh Vũ Hán dần dần nghiêm trọng, cho tới ngày 15 tháng bảy 1927, Uông Tinh Vệ trong Chính phủ Vũ Hán tuyên bố hợp tác lại với tập đoàn phản động Tưởng Giới Thạch ở Nam Kinh, chúng ra mặt chống cách mệnh thì Vũ Hán trở thành lò sát hại đảng viên cộng sản, quần chúng cách mệnh và nơi giết ngưòi cướp của suốt ngày đêm, lúc đầu còn nghe tiếng kêu khóc bây giờ người bị giết cũng im lặng, thành phố như cái tha ma. Đường vắng tanh. Chỉ có lính Quốc dân đảng đeo đại đao đi đi lại lại dưới những cái đầu lâu. Chốc chốc, một chiếc xe la kéo chất đầy các thứ chúng vừa cướp được ở phố nào, ầm ầm qua.
Không thể nán lại. Chỉ mấy bước chân cũng mấy lần trông thấy cái chết treo lơ lửng trên đầu mình.
Đến chiều thì cả đám tản dần đi đâu không biết. Cũng biến mất; không thấy hai ông “bài trưởng” bơ vơ kia nữa.
Còn lại mười mấy người ngơ ngác nhìn nhau.
- Tôi ở Phật Sơn.
- Quê tôi ở Hạ Đống.
- Nhà tôi ngay ngoài trấn Long Châu.
Thụ nói:
- Chúng ta trở lại Long Châu.
Thế là những người còn lại, trở về. Họ đã đói, đã nhẵn túi. Không, thực ra, chẳng ai bảo ai, nhưng người nào trong lưng cũng còn găm được ít tiền. Cái tính cẩn thận của người nghèo bao giờ cũng biết giữ mình như vậy.
Hàng tháng trời đằng đẵng mờ mờ trước mắt, đường trở về.
Khi qua Trường Giang, có một người đâm đầu xuống sông. Tưởng như chuyến phà Trường Giang giữa trưa hôm ấy còn dằng dai lâu đến bến thì còn có người nữa, có người nữa trẫm mình chết mất.
Một hôm, qua một đám rừng thưa. Phía xa, nhấp nhô những đồi cỏ. Thụ bảo Chi:
- Cây lẫn đồi đất thế này hay có giống thỏ rừng ở. Chúng mình vào tìm xem có không.
Ở Lũng Nghìu, ở Bản Đảy, Thụ đã thấy người đi đuổi bắt thỏ không cần chó săn. Giống thỏ rừng, con nâu con trắng, hay thập thò ra kiếm ăn ban ngày trong những đồi tranh thấp. Hễ bị đuổi, thỏ chạy một đỗi dài, gặp bụi cây, thỏ quanh một vòng, đánh lạc hướng người đuổi - hơi thỏ và dấu chân thỏ đã lẫn mất - bấy giò thỏ mới tót vào ngồi gọn giữa bụi. Chó săn cũng chịu không biết đâu đánh hơi. Nhưng người khôn ngoan đã biết cái thóp loài thỏ rừng như thế, không tìm quanh quẩn đâu cả, mà lúc ấy chỉ việc xô thẳng vào giữa bụi cây, nắm cổ chú thỏ còn đương ngồi thở.
Thụ và Chi đã biết cách thế, hôm ấy bắt được hai con thỏ to. Đem về thui rồi nướng rồi xé ra, chia nhau chấm muối ăn. Đã lâu cả bọn mới được ngửi mùi thịt thơm.
Nhưng đường đi không phải hôm nào cũng qua đồi tranh và có bụi sim, bụi mua và có thỏ rừng ra cho mình đuổi bắt.
Lâu mãi mới lại đến một hôm đi đường gặp đồi tranh và vào tìm thì trông thấy chú thỏ thập thò. Mừng quá, cả bọn cùng xô vào bắt. Phép bắt thỏ rừng là phải căng sức đuổi xốc nhanh một quãng dài, quần cho con thỏ chóng lử, nó càng chóng phải nhảy vào bụi.
Nhưng bọn người này chỉ đuổi được một quãng, chân tay đã đuểnh đoảng, gáy toát mồ hôi lạnh, chưa tới bụi rậm nào mà con thỏ thì đã biến tận đằng xa. Bởi vì chẳng ai sức đâu đuổi nổi thỏ nữa. Mỗi ngày, con thỏ vẫn chạy nhanh như mỗi ngày, còn con người thì yếu dần mòn đi. Từ ấy, trông thấy thỏ cũng chịu. Có lần ngon mắt quá, lại đuổi. Nhưng chỉ được hai ba người cố lao theo một quãng, lần này chỉ một quãng ngắn, rồi cũng thở dốc, tái mặt, buông phịch người xuống, nhìn theo con thỏ đương mất hút.
Buổi tôi ấy, nghỉ lại. Người lo việc thổi cơm hôm sau đi hỏi tiền góp của anh em. Một lát, trong bóng tối ở cái điếm cỏ đầu xóm, mà cả bọn ngủ lại ở đấy, người ấy tuyên bố:
- Không ai còn đồng nào bỏ ra nữa đâu!
- Có thật không?
Sự thật ghê rợn đã đến mà chưa ai tin là thật.
Một người nghĩ thế nào, rồi bàn:
- Tao nghĩ ra một cách làm được thì sung sướng ngay. Ta đông thế này mà cũng hãy còn sức, hay là ta xoay ra đi ăn cướp.
Thụ can:
- Không nên. Đừng làm người khác khổ nữa.
Một người nói bải ra:
- Khoác thế chứ cũng chẳng ăn cướp nổi cái gì đâu. Đi ăn cướp cũng phải to vốn liếng, có thằng dắt đất, thằng trèo tường, thằng nạy cửa, đằng này không có đứa đưa đường, không súng, không dao, không có cả bó đóm tốt để bật hồng. Ấy đấy, ăn cướp mà không xuất vốn thì hóa ra ăn mày, ăn mày cụt đầu.
Không ai còn cãi nổi câu nói kèm theo con tính thành thạo, kỹ lưỡng ấy. Mọi người ngồi im. Đêm cuối xuân sang hè mát rợi hơi cỏ non mà cổ cứ khát đặc quánh lại, không thở được. Lo quá.
Lát sau, một người lại bàn:
- Hay là mai ta đi hỏi xem làng nào có việc làm. Đập đất, đào móng, đóng gạch, ngói, bới khoai, rào vườn... được cả.
Việc ấy có vẻ dễ nghe và làm được. Ai nấy khấp khởi hy vọng. Nhưng mới qua nửa buổi sáng hôm sau đã lặng người. Hỏi đâu cũng được nghe câu trả lời tương tự:
- Vùng này mất mùa đương sắp đem giết bớt người đi, chúng mày muốn đi giết người thuê thì may ra có việc.
Nhiều người thở dài, rơm rớm nước mắt.
- Giá người ta có làm phúc mà mượn thì tay tôi cũng không cầm nổi cái xới nữa rồi. Sắp chết đói cả. Đành đi ăn mày xem còn sống thêm được ngày nào nữa thì sống.
Thụ nói:
- Đến nước này thì phải đi ăn mày thật, anh em ạ. Ta cứ thử đi, đến bữa thì chia nhau vào xin trong xóm. Cứ nói thật là đi mộ lính, bị quan lừa, phải thải về, không có lương ăn đường, nhờ bà con giúp cho sống về được đến quê. Nói thật vậy, may ra...
Đấy cũng chẳng còn là điều mới nhất Thụ nghĩ ra. Cái thế cùng đường phải vậy. Tiền đã hết và cũng chẳng có cách nào khác. Từ hôm sau, mọi người cứ đi. Gần bữa, đến làng thì tản vào xóm, mỗi người đến một cửa. Gặp bữa ăn, đầu ngõ hay giữa sân của một nhà nông dân nghèo, tiện tay và thương người, nhà này cho miếng ngô, nhà kia miếng cháy, một củ cải... Khéo xin vài nhà thì vừa bụng.
Có người thừa, còn đem ra cho bạn. Tháng trước, vẫn hay ăn trộm vặt của nhau, bây giờ mọi người xót nhau như ruột thịt.
Nhưng cũng có hôm chẳng được gì. Đen nhất là những anh vốn cao lớn, lại rậm râu. Người trong xóm vừa trông thấy đã quát đuổi bảo đấy là quân cướp, chỉ vờ đi dò la để dắt đất. Có khi họ đánh, có người bị đánh no đòn, sưng húp cả mặt.
Mỗi lần đi xin ăn về, lại kháo hỏi nhau bối rối, loạn xạ. Mỗi lúc mỗi người rủi may một số phận. Có người chẳng may phải nhịn, nhịn thông luôn mấy hôm. Có người đi xin ăn lại được chủ nhà giữ lại, bảo ở đi cày, ở quảy gánh hàng đi chợ. Người ấy ở lại luôn, không về Long Châu nữa. Ai cũng đương thèm được ở lại quê người như thế.
Đoàn người lênh đênh, tha thủi, ngày nào biết ngày ấy, không ai biết còn sức lê nổi tới đâu. Nhưng nếu không nằm xuống thì dù thế nào cũng là đương bò dần được về phía nam.
Có lúc đằng cái chân trời mong đỏ mắt kia hình như thoáng thấy bóng bụi tre quen quen. Bụi tre thật. Hỏi thăm đã gần tới Nam Ninh, đã lác đác thấy cánh đồng có cây tre. Dẫu sao, ai nấy cứ khấp khởi sắp đến quê. Mặc dầu, ở những nơi chôn rau cắt rốn kia, cũng chẳng có gì chờ đợi ai cả.
Và mỗi ngày càng khó khăn hơn, nhất là từ sau Tết Thanh minh tháng ba. Cái Tết ấy vào đầu mùa làm ăn, người già đi tảo mộ, cô gái Nùng có giày mới, cô gái Hán chít khăn hoa, các cô nhởn nhớ đứng chơi từng bọn ngoài ngõ rồi rủ nhau lên đồi ngồi khâu khăn và nhìn xuống đường xem người qua lại. Dưới đường có một đám đông thanh niên, trong đám có hai chàng thanh niên Thụ và Chi gày ốm rách rưới đi qua thì các cô không nhìn thấy. Thụ cũng không lấy thế làm xấu hổ mà chỉ nghĩ đời cách mệnh phải gian truân, cố sao cho sống, gặp được cách mệnh. Nhưng những hôm Tết nhất ấy, người đi xin ăn được thật thoả thuê, vào nhà nào cũng chén xôi, có khi được hớp rượu uống nữa. Cứ hôm nào cũng thế này thì đi bằng bay về rồi.
Nhưng cái Tết tháng ba này cũng là bữa cỗ rút ruột người làm ruộng. Bà con trong làng chén đẫy một ngày rồi từ đây, người người lại vùi đầu ra đồng, móp bụng lại đợi mùa đến mới có cái ăn.
Người đi xin dọc đường cũng chỉ no một ngày rồi lại đói theo, đói thêm nữa, càng thêm khốn khó.
Thụ đã hốc hác lắm. Người chỉ còn như bộ xương biết đi lênh khênh. Da Thụ vốn trắng, bây giờ bệch như giấy. Còn chân thì hình như chân dài hơn trước. Tuy vậy, Thụ vẫn gượng được. Chi thì khặc khừ lắm. Người quắt đến nỗi chỉ còn thấy cái đầu mỗi hôm một to ra mà thôi. Thỉnh thoảng, Chi lên cơn sốt.
Có những hôm, đến chỗ nghỉ, Chi thiêm thiếp nằm, không nói. Nhưng sớm hôm sau dậy, lại cố đi. Những hôm ấy, may cũng có khi Thụ kiếm đâu về được một củ khoai hoặc một nắm đậu luộc cho Chi. Nhiều đêm, nằm cạnh nhau, lặng im, nhưng thương nhau không biết đến thế nào.
Chi vốn ít nói và hay buồn.
Chi mồ côi mẹ từ khi lọt lòng. Hình ảnh người mẹ mà Chi không biết mặt lúc nào cũng tha thiết nhớ, như đường cách mệnh mà Chi sôi nổi nghĩ khi đến tuổi thanh niên. Nhà Chi có họ ngoại bên Nhân Lý. Còn nhỏ, Tết tảo mộ tháng ba, Tết rằm hay Tết nhất Chi thường được sang bên ấy, đã quen Thụ. Những năm sau bố Chi lấy vợ kế. Rồi cũng nhạt, ít về bên ngoại. Bố Chi nghiêm và đối với Chi khác tính, từ đấy Chi cũng không đòi sang Tết bên họ ngoại nữa. Đến khi ra học Lạng Sơn thì gặp lại Thụ và hai ngưòi trở nên đôi bạn thân thiết. Càng ngày càng thân, cho đến khi Chi cùng Thụ rủ bạn lập tổ Thanh niên, rồi cùng nhau bỏ nhà qua biên giới, đi tìm cách mệnh, đến bây giờ.
Chi khẽ hỏi Thụ:
- Chúng mình đến Nam Ninh rồi a?
Thụ đáp: “Gần tới”, rồi nói đùa cho Chi vui và khuây khoả đi:
- Mày nhỉ, cái suối ban chiều chúng ta lội sao nhỏ mà lắm cá, giống những suối mùa cạn đặc cá anh vũ thịt thơm như thịt gà, ở Thất Khê.
- Ừ nhỉ. Trông mày lúc lội suối đuổi cá hai tay nắm hai con cá, lại cắn một con trên miệng. Hệt người úp nơm trên sông Bắc Khê.
Nghĩ thế, họ tưởng đã sắp về đến Lạng Sơn.
Thụ nói:
- Chi cố nhé, còn gần lắm. Ta đi được quá nửa đường đã lâu rồi.
Chi cười:
- Từ chặp tối mình ngửi thoảng mùi hoa bưởi vườn nhà ai đưa tới, mình thấy khoẻ lắm rồi. Tháng trước qua Nam Ninh mình thấy hoa bưởi nhiều như ở đường sông Kỳ Cùng, chỗ Bản Thẳm sang lên dốc Kéo Sa về Nhân Lý ấy, đến mùa đi qua đấy tha hồ hái bưởi ăn, Thụ nhớ không?
- Này Chi, có khi ở Long Châu bây giờ có liên lạc của cách mệnh đến rồi.
- Ừ, chuyến này về Long Châu.
Thụ sôi nổi:
- Chi có nghĩ như Thụ không, chúng mình chuyến này về đến Long Châu thì đã thành một người luân lạc, xốc vác lắm rồi, mình có thể đi kiếm củi, có thể làm nghề đốt than, chỉ khổ thôi chứ không khó như anh Bùi nói đâu. Bùi có cái máy khâu, chỉ biết ngồi đạp máy nhàn nhã nên cái gì cũng thấy khó mà thôi. Chúng ta sẽ ở Long Châu, làm gì cũng làm được, đợi cách mệnh cho kỳ được, Chi ạ.
Rồi Thụ đứng dậy, vươn vai:
- Mới mấy tháng mà nghĩ lại như mấy năm.
Hôm sau, đi trong bọn, Chi thấy mình khoẻ, rảo bước nhanh hơn. Có phải vì lòng phấn đấu và những niềm hy vọng trong câu chuyện đêm qua. Nhưng chẳng may suốt ngày hôm ấy lại không kiếm được một miếng. Đến chiều thì Chi đã mệt lắm. Qua một cánh đồng rộng sang đầu xóm kia, trời sắp tối. Mọi người trông thấy những thửa ruộng khoai tháng ba vừa dỡ, dây khoai còn dằng rợ trên mặt luống đất đỏ ngòn. Một người kêu:
- Có bữa đây rồi, anh em ơi! Mót khoai!
Quả nhiên, bới một lúc, được hàng chục củ khoai kẹ. Thụ bảo Chi bới tiếp để Thụ vào xóm xin nước và tìm chỗ nghỉ cho cả bọn.
Trời chạng vạng. Mặt trăng đầu tháng đã nhợt nhạt lơ lửng trên cành liễu sau lưng. Vừa vào đến giữa xóm, Thụ nghe ngoài đồng ai nói xôn xao rồi tiếng quát ầm ầm. Từng tràng mõ nổi ngay đầu đường, trước còn lác đác, sau dồn dập lan xa, rồi khắp bốn phía vẳng lại tiếng mõ trong lúc trời đã buông tối xuống hẳn. Cả vùng sôi sục nổi mõ.
Ở Văn Uyên, Thụ đã biết cái lệ khi có cướp vào thì các xóm quanh đấy nổi mõ báo cho nhau rồi cùng hò reo vác dao gậy ra đón đánh cướp. Có lẽ đây cũng thế. Thụ vội chạy trở lại chỗ cũ.
Một toán gậy tày, tay thước, đinh ba, rầm rập đến. Trong xóm trước mặt, người đổ ra nữa, đông nghịt.
Thụ hỏi to vào giữa đám:
- Có việc gì đấy?
- Cướp!
Ai cũng kêu: cướp! cướp! Nhưng không ai biết cướp ở đâu. Tiếng mõ vẫn xói lên khắp cánh đồng.
Thụ đến đầu đường, vào chỗ mộng khoai lúc nãy. Đám người xúm quanh bó đuốc to vừa rực sáng. Toàn người lạ. Không thấy Chi, không thấy một anh em nào còn trong ruộng. Một người đeo cái đèn ba pin bên sườn, tay cầm mã tấu, đứng chỉ trỏ - Thụ đoán là hương trưởng (3).
Thụ đến hỏi người này:
- Thưa quan, gì đấy ạ?
Một người quát:
- Thằng này mê ngủ à, đám giặc to về nấp trong ruộng này đợi tối vào cướp. Nó vừa tháo sang bên kia...
Tiếng gọi, tiếng thét rối rít bốn phía: đuổi đi! Đuổi đi! Mõ nữa lên! Nữa lên!
Thụ đứng ra, xua tay:
- Không phải, không phải đâu...
Mới nói được thế, người hương trưởng đã sấn đến, giơ con mã tấu ngang mặt Thụ:
- Mày là thằng nào?
Cái đèn pin rọi theo chói loé giữa mặt Thụ.
- Trời ơi, thằng này ở đâu đến đây?
- Thằng kẻ cướp mới chui lại!
- Đúng rồi.
- Cướp! Cướp!
Người bu đến, bối rối, lại vừa chạy vừa kêu.
Lập tức, Thụ bị gô cả tay chân lại, khiêng vào trạm tuần. Rồi họ trói Thụ đứng ôm cột điếm. Người canh rậm rịch cả đêm.
Hôm sau, hương trưởng đem đến mấy người nữa có cả súng và một cái gông gỗ nghiến nặng đóng xuống khuýp trĩu cả vai và làm cổ Thụ rớm máu. Mặc những tiếng quát nạt ầm ầm, Thụ trình bày việc bới khoai, rồi kể lại chuyện cả bọn mộ lính bị thải, đi ăn mày dọc đường hàng tháng nay rồi. Lạ thay, kể đến đâu thì tiếng la chửi dịu đến đấy. Rồi không hiểu mấy người chức việc trong làng nọ tin lời Thụ hay vì họ trông thấy Thụ gày yếu, đẩy củng ngã, khó lòng đi ăn cướp nổi, họ cởi trói cho Thụ.
Rồi họ tháo nốt gông, thả Thụ đi. Lại cho một túi ngô xay, đeo theo.
Nhưng Thụ đi mấy ngày sau cũng không gặp lại ai. Từ hôm ấy, Thụ đi một mình.
Lang thang mãi một hôm về đến chợ Liễu Châu.
Thụ dạo một vòng quanh chợ xem xét. Nhưng chưa nghĩ ra cách gì có thể kiếm ăn được. Chợt nghe tiêng thanh la rộn rã đằng kia. Và trẻ con đương rùng rùng chạy cả đến đằng ấy.
Một đám bán thuốc cao vừa tới. Gọi là đám, nhưng chỉ có hai người.
Hồi ấy, ở Cao Bằng, Lạng Sơn hay bên kia biên giới cũng thế, trong các chợ quê hẻo lánh, những ngày phiên chợ thường có người đi rong bán thuốc cao, kèm theo múa võ hoặc làm xiếc, làm quỷ thuật để kéo khách tò mò đến đông, cho dễ chào hàng. Đôi khi họ dắt theo một con khỉ, một chú gấu con tinh quái. Hoặc một con trăn để trăn quấn vào cổ người, con trăn hiền lành như cái khăn quàng ngóc đầu ngóc đuôi. Cứ thế mà phiêu bạt, đuổi theo miếng ăn hàng ngày, họ lang thang khắp mọi nơi.
Trong khi thanh la gõ liên hồi, rầm rộ như có cả trăm ngưòi nhảy múa thì một người lom khom chạy đóng cọc, chăng thừng thành một vòng tròn. Và một người đứng tuổi cầm thanh la từ từ nhích ra cho đúng giữa vòng, nhìn chằm chằm vào những ai vừa tới rồi hét. Sau một câu lại nhịp ba tiếng phèng phèng phèng... phèng... và hét:
- Cao Sơn Đông gia truyền hai mươi nhăm đời... phèng phèng phèng...
- Quý khách sắp được xem bài “kim kê độc lập” võ Sơn Đông... phèng phèng phèng...
- Nhọt mưng mủ, nhọt bọc, lên đinh, càng cua, sâu quảng, vết chém bị thương lâu có giòi, nhức đầu, đau bụng, trẻ con khóc đêm, người già mờ mắt, vợ chồng lấy nhau lâu không đẻ... Mua một lá cao Sơn Đông... phèng phèng phèng...
Hét xong bài giới thiệu ấy rồi người bán thuốc bưng cái khay gỗ mộc ra, mở nắp đi quanh bốn phía cho khách trông thấy trong khay nhếnh nhoáng những lá cao, lá đen và lá đỏ. Trong khi ấy người căng thừng lúc nãy đã cởi phăng áo, móp bụng lại, nghiến răng đến bạnh hai quai hàm, xuống kiểu “trung bình tấn”, khoa tay lên toan dạo một đường quyền. Nhưng vừa hay có người hỏi mua lá cao. Anh bán thuốc bận. Lập tức anh này dừng múa, nhỏm người, bước nhanh đến nhặt cái thanh la. Rồi đứng ngay ngắn, hét ra từng câu, đại khái như anh đứng tuổi lúc nãy.
- Cao Sơn Đông gia truyền mười đời...
- Nhọt mưng mủ, nhọt bọc, trẻ con hay khóc đêm... đái giắt... vợ chồng hiếm hoi...
- Khỏi hết... phèng phèng phèng...
Phèng phèng phèng... Hình như những người bán thuốc sợ nếu ngừng gõ thanh la thì cả cái chợ ầm ĩ như vỡ tổ ong kia sẽ không còn ai biết đến cái vòng thừng bán thuốc nữa. Bởi vậy, lúc nào họ cũng thay nhau hò hét và gõ đinh tai, váng góc chợ, to nhất chợ. Có độ ba đám bán thuốc cao thì ai ở xa nghe tưởng cả chợ chỉ có người đi mua và bán thuốc cao.
Nhưng cả buổi cũng chỉ bán được vài ba lá nhì nhằng. Khi chợ vãn, anh cởi trần múa võ mặc lại áo và bắt đầu nhổ cọc, cuộn thừng.
Thụ bước đến, tủm tỉm cười, nói:
- Tôi xin vào giúp các ông được không?
Người có tuổi cầm khay thuốc, ngẩng lên, nhìn Thụ:
- Mày biết làm gì?
- Rao thuốc, gõ thanh la, múa võ như lúc nãy... việc gì ông sai tôi cũng làm được.
Người cầm khay thuốc không nói thêm, lặng lẽ đưa cho Thụ xách cái thanh la đồng đã rè và sứt một miếng to, và khi anh chàng múa võ cuộn xong cái chão thì vo lại một ôm, lổn nhổn cả những chân cọc như những gốc mía mới nhổ, anh ném tất lên vai Thụ.
Như vậy, Thụ hiểu mình đã thành người của đám bán thuốc cao ấy.
Bữa chiều, không có cơm. Nhưng đã lâu, Thụ mới được một lúc chén ngon lành cả bốn củ khoai luộc.
Việc đầu tiên trong nghề là ngày ngày, Thụ vác dao đi các bờ rào đầu làng chặt nhựa cây duối, nhựa cây đa đem về trộn với nhọ chảo, bồ hóng và gạch non tán ra giả làm hồng hoàng rồi hòa với ít nước cốt đặc của người chủ gánh đưa cho, chưa biết làm bằng gì, nhưng Thụ ngửi đúng mùi dầu hồi. Lúc đun, quấy riêng chảo đỏ hồng hoàng giả, chảo đen bồ hóng nhọ nồi, rồi phết ra giấy bản từng lá đỏ lá đen nhấp nhánh, cập lại, phơi ra nắng rồi đem vào phơi chỗ mát thành một dây lá thuốc cao dài như quần áo phơi. Tất cả mấy chục thứ bệnh chỉ chữa bằng hai thứ cao màu đỏ màu đen ấy.
Đám bán thuốc rong ghé mỗi chợ một phiên, lại đi. Có những ngày mưa, nhỡ đường, phải ở lại phiên nữa. Nhưng gõ phèng phèng, hét cả buổi sái cánh tay và sái quai hàm cũng chỉ còn có trẻ con nhao nhác chạy đến xem mà thôi. Chợ nào cũng có hàng chục đám bán thuốc cao chen vào kiếm ăn. Bây giờ, thuốc cũng như củi của Mã Hợp, nhiều người bán quá.
Nhưng Thụ vẫn theo đám được, không đến nỗi khốn đốn. Mọi khi, chưa có Thụ đến, gặp chợ may mắn được đắt hàng bán hết thì họ phải ngày nghỉ ngày bán để đi chặt nhựa đa, nhựa duối về nấu. Bây giờ vẫn đi chặt nhựa chế thuốc, mà ngày nào cũng ra chợ được.
Thỉnh thoảng, đến lượt Thụ ra cắm cọc, chăng thừng, gõ thanh la. Chỉ hai phiên chợ được ăn ra bữa, Thụ lại sức ngay. Và đã múa võ được cho anh kia đổi tay đi chặt nhựa. Anh ấy khoe ngày trước anh học võ Sơn Đông chính phái. Còn Thụ thì nói kiểu chảo mã tấn, miếng phượng hoàng của mình là quyền thuật phái Thiếu Lâm. Đường võ của Thụ cũng gọn lắm.
Nhưng hai phái võ Thiếu Lâm và Sơn Đông ở đây chẳng biết kình địch đánh nhau bao giờ. Có lẽ vì hai tay võ chỉ trổ các ngón ra vì việc phải làm, múa võ cũng như nấu cao và chăng thừng đóng cọc hay quảy hòm và thổi cơm chỉ vì miếng ăn, chứ không phải vì ganh đua, cho nên không ai ghen tài ai cả. Chẳng biết võ của Thụ có phải là võ lò Thiếu Lâm, hay là gì nữa, thật ra đó là những miếng võ Thụ học lỏm được trong mấy truyện kiếm hiệp Tàu. Hồi ở nhà khi Tết, Thụ cũng hay lùng vào đám có bọn trai Nùng ở Phố Lẩu hay quần thảo, đấu võ và ngồi kéo cánh tay thử sức nhau cả đêm. Thụ mải xem lại tinh ý đã học được. Ai ngờ mà có lúc đem ra đời kiếm sống!
Có ngày chẳng bán được một lá thuốc. Ngày ấy không thổi cơm, mỗi người chỉ được một suất vài củ khoai hay cái bắp ngô. Nhưng cũng không thế khổ nào bằng khi đi ăn mày nữa. Thụ chăm chỉ, hiền mà vui tính. Hai người kia đều mến. Đi lâu rồi hỏi ra họ cũng là người nghèo ở Liễu Châu, bỏ làng đi, đã đến tận Hồ Nam, vẫn không kiếm được nghề gì khác mới nghĩ ra cách bán thuốc. Mấy năm nay, cứ định dành dụm tiền mua lấy con khỉ hay con trăn, như đám bán thuốc tươm tất hơn, cố dạy loài vật làm trò để đỡ khó nhọc cho người một tý. Nhưng vẫn chưa có tiền. Lúc nào cũng chỉ nhùng nhằng mấp mé khỏi đói thế này thôi.
Càng đi xuống, phong cảnh càng quen mắt, mênh mông là những vùng hoa mua tím nhờ nhệch, những đồi sim nở đỏ thậm, đến lúc tàn thì nhạt trắng, như cái áo cải hoa cũ rách loang lổ của người đàn bà Hồ Nam ngồi bới củ ngoài đồng. Con tắc kè kêu gọi bạn trên núi đá sao nghe đêm quen thế, buồn thế. Chú gà gô cứ gáy eo éo suốt buổi trưa trong lòng trũng trái đồi trọc. Thế là Thụ đã đi qua hết mùa xuân vào giữa mùa hạ từ Vũ Hán về đây.
Thụ bàn khéo với anh em:
- Chúng ta cứ thẳng đường này xuống Long Châu rồi xin đồn Tây cho sang Lạng Sơn. Lúc còn ở nhà tôi vẫn nghe nói bên Lạng Sơn cũng kiếm ăn được. Những tháng giáp hạt người ta hay chạy sang đấy mua sắn.
Họ đi men dần từng chợ xuống phía nam. Một ngày kia, đến Long Châu.
Gánh bán thuốc ghé lại hai hôm ở chợ Long Châu. Thụ đã toan đi. Nhưng nghĩ thế nào, quyến luyến chưa nỡ rời. Nhờ anh em ấy mà Thụ về được đây, mà có lẽ đã được thoát chết nữa. Cứ nghĩ bang khuâng, Thụ lại theo anh em xuống tận chợ Ải Khẩu, ở thêm vài ngày.
Rồi một hôm. Thụ nói:
- Các anh ơi! Tôi vừa gặp người ở quê tôi ra chợ. Người nhà nhắn tôi phải về Hạ Đống ngay, các anh ạ.
Cả hai người đều tiếc Thụ.
Chắc rồi gánh thuốc ấy cũng chẳng đủ tiền đút quan Tàu, quan Tây hai bên cửa ải để xin được giấy vào Lạng Sơn. Những người bán thuốc rong lại lưu lạc đâu, không biết.
*
* *
Thụ đã bước vào tận trong nhà, Bùi nhác nhìn, nhưng tưởng người bán củi đến lấy tiền. Đến lúc trông lại, mới ngờ ngợ nhận ra.
- Thụ phải không, giời ơi! Hùng ra đây, nhắc luôn...
Rồi Bùi kể luôn, vẫn hấp tấp thế:
- Chi ốm suýt chết vẫn nằm nhà đằng kia kia.
Thụ nhảo vội đến đấy.
Trong lúc Thụ phải bó buộc giang hồ đi bán thuốc kiếm ăn thì Chi đã lần mò về tới được Long Châu.
Tại sao mà về được! Chi cũng không biết. Chi chỉ nhớ mờ mờ là anh em vẫn xin ăn mà lần đi. Có anh ốm chết. Chi càng ốm, nhưng không chết và anh em không nỡ bỏ, nhiều hôm Chi không lạch đi được, đã phải cáng theo. Người ốm cáng người ốm, thương tâm quá. Mò về đến Long Châu thì Chi chỉ còn đủ sức ngã vào nhà Tân - một đồng bào Việt Nam cũng làm thợ may ở Long Châu. Chi ốm mấy tháng không dậy, rụng hết tóc.
Trông thấy Thụ, Chi mừng quá, ngước đầu, loá nước mắt:
- Tao tưởng nó bắn mày chết ở ruộng khoai rồi, Thụ ơi!
Thụ nghẹn ngào cười:
- Chết thế nào được!
Chi cũng cười mếu máo:
- Thật đấy, không thể chết được! Trông thấy mày thì tao khoẻ hẳn lên, mai tao đi kiếm củi ngay được.
Nhưng Chi lại nói:
- Không phải về Lũng Nghìu kiếm củi đâu, Thụ ạ.
- Ờ.
- Tao đợi khoẻ là tao đi làm công nhân luôn thôi.
- Hay nhỉ!
Rồi hai anh em cùng lặng im. Bên kia sông, tiếng ve núi kêu trong rừng hồi, giữa mùa nắng vẳng lại, như tiếng kèn vui vui, đều đều. Nửa năm trời gian nan đến cùng kiệt, như một trận thử sức với đời. Nhớ khi vào mộ lính, Thụ nói: “Cứ đi, Chi ạ”. Chỉ vì đương lúc anh em gặp khó khăn, họ không muốn phiền luỵ ai. Đi để sống, quả nhiên, lại thấy nhau ở đây. Mà bây giờ thì làm gì cũng được! Chúng ta đã khác lắm, Long Châu, nơi sôi nổi những hy vọng khi chưa bước chân tới. Hình ảnh một Long Châu tưởng tượng trong tâm hồn hai người vẫn đẹp đẽ và hào hứng nguyên như ban đầu.
Long Châu này chưa phải Long Châu ấy. Trấn Long Châu của hai người thanh niên sẽ hiện ra cùng với con đường cách mệnh cứu nước mà Thụ và Chi ra đi tìm gặp, trải những ngày gian khổ qua, vẫn rực rỡ lòng tin.
Rồi Thụ hỏi:
- Làm công nhân thế nào?
- Mày còn nhớ bọn Sơn không?
- Hai người bị lính Quốc dân đảng bắt ở Bó Sa đêm ấy à?
- Ừ, cả mày về nữa thì chúng mình sẽ học thợ. Sơn với Bùi sắp mở được hiệu chữa máy ở phố Hợp Long Kiều đằng kia.
- Còn cái anh Tư thì đâu?
- Không rõ.
Ít lâu sau, Thụ biết Tư đã xin được việc làm phụ xe cho hãng ô-tô đường Nam Quan - Bình Tường.
Cả bốn ngưòi thanh niên đi tìm cách mệnh vẫn một quyết tâm.
Chú Thích:
(1) Cơ quan của Thanh niên Cách mệnh đồng chí hội in bí mật ở hải ngoại.
(2) Một chức trong quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc tương tự như trung đội trưởng.
(3) Tên một chức việc đứng đầu xã, trong tổ chức hành chính trước cách mạng ở Trung Quốc.