- IV -
Phố Hợp Long Kiều thật ra chỉ là một cái ngõ cụt, khấp khểnh có mấy cái nhà trông xuống sông. Không ai bước chân đến cái ngõ tối và quanh năm ẩm ướt rêu và bùn lầy lội ấy. Người bán củi cũng chỉ quay mặt, rao vào một tiếng, rồi bước qua nhanh. “Xưởng máy - lại ở tầng dưới một nhà sau cùng. Dù cho trên cửa vào có đóng nẹp một mảnh giấy các-tông vàng nhạt bìa cứng, trên viết năm chữ đại tự vuông vắn: “Nam Hưng cơ khí xưởng”, nhưng riêng cái khuất nẻo và mùi rêu mốc cũng đã khiến Thụ bớt hào hứng.
Gian nhà của xưởng máy chưa quá ba bước chân. Một mảnh gỗ lửng ngăn đôi, che chỗ kê hai mảnh ván làm giường ngủ. Bên ngoài, một cái bàn ren cũ kỹ hoen vàng đã nẻ toác và mảnh gỗ bàn tiện nằm chỏng, có ba vó. Mấy ống sắt, tưởng nếu gõ vào, sẽ bong ra hàng vốc tay gỉ. Một hình thù cái máy tiện - bởi vì nó mới có một chân lắp đáy dưới. Đấy là cả cái cơ nghiệp chưa ra đâu vào đâu của xưởng Nam Hưng. Tính cộng lại, máy móc cũ mua, ngã giá hai trăm bốn mươi đồng. Phải đặt cọc trước bốn mươi đồng. Nhưng cả Bùi, cả Tân rồi Hùng chạy về Cao Bằng lại ra ngay, cũng chưa xoay ra được đủ bốn mươi đồng bạc. Còn tiền gạo, tiền than đốt lò, đào chỗ nào cho có thì cũng chưa ai biết. Những hoạt động mê người mà Chi kể: chữa xe đạp, chữa ô-tô, chữa máy nổ, gì cũng chữa được... tiền lãi để nuôi anh em qua lại, mới chỉ là bức tranh vẽ phác.
Thụ hay cười Chi vì tính Chi dễ vui, dễ buồn. Điều đó khác mà cũng giống nhau trong sự sốt sắng của Chi và cả của Thụ nữa, đối với xưởng máy Nam Hưng. Chưa có, Chi đã hy vọng đầy đủ như thật. Việc còn khó lắm, nhưng Thụ cũng thấy cần thiết phải làm và bồng bột, sôi nổi làm. Việc Thụ và Chi ra Bản Đảy, ra Long Châu ngơ ngác là một ví dụ. Hơn nữa, dần dần Thụ hiểu rằng đường cách mệnh còn dài, nhưng không phải ta đi những đâu mới gặp, mà ta phải đắp nên con đường cách mệnh ấy từ đoạn đường ta đương đi, đắp mãi, đắp mãi đi đến khi cách mệnh thế giới mới xong. Vậy phải có bàn tay của ta. Ý mọi anh em ở đây muốn lập xưởng, nhân có những tay thợ giỏi, và mọi người đương tất tả chạy vốn, Thụ cũng lo lắng thay. Nhưng Thụ mới về, chưa biết nghĩ ra thế nào cho phải và giúp được anh em.
Thụ cứ ngắm mãi cái buồng xưởng máy, vừa quan trọng vừa xơ xác. Bởi vì chưa có gì cả. Nhưng mỗi người đương làm việc chăm chú, thận trọng, loay hoay và im lặng nghiêm nghị như trong xưởng máy thật đàng hoàng nào đó. Đó là thể hiện cái ước muốn thiết tha của anh em.
Sơn đương xoay trần, gõ kỳ cạch mãi cái gì không biết. Chi thì ngồi lúi húi góc trong. Khuôn mặt còn xanh rớt và cái đầu rụng tóc trọc loang lổ như đắp nhọ chảo. Vừa thấy Thụ đến, Chi đã toét miệng cười. Dường như thú vị công việc đương làm. Rồi lại cúi, cầm lắc-lê xoay tròn luôn mấy cái - đường tay quan trọng và thành thạo.
Thật thì xưởng máy Nam Hưng chưa đủ đồ nghề bằng cái hàng chữa xe đạp. Nhưng chạy được đến mức ấy, đã tốn một bước nhiều công, nhiều bàn bạc và phải nhiều mơ ước táo bạo lắm - bây giờ thì dấn lên được nữa hay thôi đây. Không, không, công việc của đoàn thể còn bao nhiêu cái khó, và người làm cách mệnh thì ai cũng nhiều lòng tin. Cứ trông dáng làm mải miết và nghiêm vào mấy công việc lặt vặt sơ sài đó của Chi và Sơn cũng đủ thấy họ say sưa đến thế nào.
Chiều hôm ấy. Thụ và Chi thong thả ra đứng trên bờ sông.
Cũng con sông này, hai năm trước, hai người bạn đường còn chơi ở khúc Kỳ Lừa trước cửa sổ lớp học. Bây giờ đứng khác khúc sông và nhìn lại mình, mới thấy thời gian chẳng bao lâu, mà cảm thấy hai người đã khác xa cái ngày Lạng Sơn cắp sách đi học. Nếu trước khi đi, họ chỉ có quyết chí thì bây giờ họ đương là con người bơi vào cuộc đời, thấy mình giữa sóng gió nhưng vững và đủ lòng tin. Ngang sông trước mặt đôi bạn, những chiếc buồm vỉ thuận gió nồm đương xuôi lướt nhanh. Khói thổi cơm chiều toả thành vệt sóng xanh xanh đằng sau. Thụ nhìn theo, cảm thấy lòng thanh thản như thuyền đi. Nhưng Chi thì đương băn khoăn cho Thụ.
Thụ nói:
- Tao cũng nghĩ như mày, làm được cái xưởng thì thích lắm. Nhưng bây giờ hai chúng ta chưa lấy đâu ra lương ăn, phải tìm cách thiết thực đã. Trước khi đi Vũ Hán, tao đã bảo mày: chúng ta không phiền anh em phải nghĩ hộ mình, bây giờ tao cũng nói thế thôi, mày thì cứ tạm vậy. Đừng lo cho tao, tao đã có cách. Nếu chết đói thì chết đói dọc đường rồi, từ nay về sau không bao giờ lo chết đói nữa.
- Cách gì của mày?
Thụ cười, xoè cả hai bàn tay:
- Tao với mày bò được từ Vũ Hán về đây, ấy là cách nhờ hai bàn tay này.
- Mày định làm gì?
- Đã bảo có cách, bằng hai bàn tay này mà.
- Sắp đi bắt tắc kè đem bán cho hiệu bào chế như thằng Mă Hợp à? Ừ, bây giờ đương mùa hè, đã đến mùa tắc kè sợ nóng bò xuống gốc cây...
Thụ cười, không nói thêm. Như muốn trêu ngươi, bỗng đâu, con tắc kè cất lên một tiếng trong vắt như tiếng mõ trúc trong bóng tối đã xuống mờ rặng núi bên sông.
Một hôm, anh em trong xưởng thấy Thụ xách về cái ghế có mặt bằng miếng bạt xám cắt ở mui xe. Chiếc ghế xinh, vừa đít ngồi, chênh vênh trên bốn thanh gỗ thông bắt chéo và một cái bọc chàm con.
Anh em hỏi:
- Cái gì đấy?
Thụ bỏ cái bọc xuống, mở ra. Có một hòn đá mài và một con dao cạo, chưa có chuôi, mà lưỡi đã mòn quá nửa, sát gáy. Con dao người ta vứt đi, có lẽ.
Mọi người reo lên:
- Dao này mà nạo vào đầu ai thì nhất định phải bật máu ra.
Chi hỏi:
- Định đi thợ cạo à?
Thụ cười, gật đầu. Ngày hôm sau, Thụ loay hoay gọt cái chuôi rồi mài đi mài lại cái lưỡi cùn. Rồi Thụ chọn một hôm đúng ngày phiên chợ Long Châu, Thụ ra phố Bạch Bảo Cai - ngay đầu huyện. Thụ lại đến trước toà mộ lính dạo nọ. Thụ đặt cái ghế chéo xuống.
Thụ đã là ông thợ cạo. Nhưng ông thợ chưa có khách, mặc dầu người về chợ qua lại tấp nập. Thụ nghĩ ra cách gọi trẻ con đến, cạo cho cái đầu nhẵn thín, không lấy tiền. Thành thử hàng lúc nào cũng vui. Mấy hôm đã quen khách. Ngày phiên chợ Long Châu thì cắp ghế, đi dong vào chợ. Nhưng đông khách nhất vẫn là những kỳ mộ lính.
Trong kia, tiếng trống, tiếng quát ỏm tỏi từ sáng sớm. Chẳng khác dạo trước. Lại toán đi Long An... đi Liễu Châu... đi Vũ Hán... Cũng là khôn khéo tập nghề nhân thể. Đi sống hay chết, mộ thật hay mộ giả, không ai biết. Người chạy đói các nơi về không biết đổ đi đâu, lại đổ cả vào lính mộ. Người chen nhau nghẹt đến nỗi nhấc chân lên không đặt được xuống, vẫn đông như chợ. Có anh khôn vặt, bỏ mười xu thuê cạo cái đầu trọc bóng rồi xô lên giữa đám đông ùn ùn trước cửa. Anh ta kêu to: “Lui, cho tân binh vào lĩnh quần áo, lui, lui...” Nhiều người nom cái đầu trọc mới, ngỡ thật ràn ra. Thế là anh ta nhảy thẳng được đến bàn mộ. Một lần, có lúc vắng, Thụ nhòm vào trong nhà mộ lính. Trông sang tận cái nhà ở tạm cũng không thấy còn mặt nào quen. Hai ông “bài trưởng” lưu lạc hay đã chết trên Vũ Hán rồi. Một người quan khác, không đeo kính trắng. Lão này béo rụt cổ. Chắc người quan đeo kính trắng ấy cũng chết chém rồi. Thụ ngơ ngẩn nhìn những người nghèo cứ xông đến, cố vào chỗ ghi tên, phát tiền. Thụ đương nghĩ lại câu chuyện đầu năm đi Vũ Hán.
Có một người lại vào hỏi cạo đầu. Trông người ấy, Thụ nói:
- Anh định chen vào chỗ ghi tên à?
Người ấy thở dài:
- Chỉ có chỗ ấy mới kiếm được cái sống mà thôi.
- Vào đấy cũng chỉ có chết đói chứ được gì.
Người ấy kêu to:
- Anh bảo tôi đi chỗ nào nữa bây giờ?
Thụ mủi lòng. Trong túi có bao nhiêu tiền, dốc đổ ra, đưa cho người ấy và nói:
- Này cầm lấy mà đi mua cái gì ăn. Từ hôm nay tới lúc nào hết số tiền thì nghĩ lại đi. Thà đi đâu, chết đâu chứ đừng đâm đầu vào đây, khổ quá.
Từ hôm ấy, Thụ vào chợ kiếm khách cắt tóc, không ngồi trước nhà mộ lính phố Bạch Bảo Cai.
Không làm gì được, Thụ cũng không nỡ nhìn những người nghèo khổ đêm ngày kéo đến đấy.
Thụ làm mải miết, bây giờ ngồi đâu cũng gạt không hết khách. Thấy thế, Chi bảo Thụ:
- Mày nói mà đúng. Bàn tay khôi óc làm được tất cả.
Thế mà cái xưởng máy Nam Hưng cứ dần dần thành. Nguội đã đủ bàn ren và các thứ giũa. Gò cũng đủ kìm, kéo, mỏ hàn rồi.
Nửa năm sau, xưởng đã chữa được xe đạp, máy nổ ca-nô. Đôi khi cả những chiếc ô-tô hàng xộc xệch đường Bằng Tường, cũng thấy kéo đến. Cái ngõ cụt mọi khi vắng, bây giờ có công việc nhiều người phải tìm tới, bỗng hóa nhộn nhịp. Chiếc máy tiện quan trọng như trái tim đặt giữa gian buồng cứ phát ra tiếng kêu rè rè cả ngày.
Thụ cũng đã cất dao cạo, về đứng phụ thợ tiện.
Nên xưởng rồi, “kỹ sư” Sơn lại muốn sáng chế ra cái máy xay xát gạo. Ở Long Châu chưa có máy xay xát bao giờ. Một lần, Sơn trông thấy tờ tranh quảng cáo nhà máy xay xát gạo trên Nam Ninh chạy dầu ma-dút có vẽ cái phễu máy đương tuôn thóc như mưa. Sơn bảo: ta làm cái máy này được. Mọi người đều tin Sơn, cứ mày mò máy nào cùng làm dược.
Thế rồi, lại cùng nhau như con chim tha mồi, mỗi hôm kiếm về một mảnh sắt, cái ốc, cái trụ, một bộ phận hỏng ở cái đồng hồ, cái xe bò, cái xe đạp của ai đó, rồi gò, rồi hàn, rồi cưa, lắp... rồi đánh vòng bi, rồi thử... Mấy lần thử, chưa ăn thua, nhưng đã nên hình cái máy xay xát có phễu loe lên hẳn hoi. Trông hay đáo để. Cái máy gì Sơn cũng làm được thật. Nhiều người ra chợ kéo đến, xem lúc bỏ thóc vào thì cái máy làm thế nào. Nếu có được cái máy phát điện, chỉ mười ki-lô-oát thôi, chắc máy đã ầm ầm.
Chi được anh em ráp sẵn vào đứng trông cái máy xay xát sắp ra đời. Cả ngày, Chi cặm cụi. Ừ, nếu được cái máy phát điện, máy xay xát gạo chạy được chắc xưởng Nam Hưng rầm rộ hẳn lên.
Lại cái máy phát điện, lại một ao ước mới. Biết tầm nã cái máy phát điện này ở đâu?
Giữa lúc ấy, có tin đồn cánh quân phiệt bên Quảng Tây sắp xuống đánh cánh quân phiệt Quảng Đông. Thế nào cũng có quân quan qua Long Châu, nhưng không biết bên nào sẽ tràn qua. Cảnh loạn lạc, người chết như rạ khắp nơi lại sắp đến. Nhiều người Long Châu đã gồng gánh chạy trốn sang Lạng Sơn. Nhà giàu thì lật đật ra Ngô Châu xuống thuyền hay đi ca-nô lên Nam Ninh. Phải thuê hàng trăm bạc mới được một chuyến thuyền. Vô phúc mà có khi thuê nhầm phải thuyền cướp. Chẳng phải kẻ cướp mà lính huyện mang súng đi việc công cũng có thể thành kẻ cướp chốc lát. Cướp nổi khắp, chia đi chặn của từng quãng đường, quãng sông. Ai có việc phải ra ngoài thành mà còn vẹn toàn về phải đốt vàng hương hú vía.
Bùi lo lắng bàn:
- Tình hình thế này, ta phải dọn lên Nam Ninh. Mà phải lên Nam Ninh thì mới tìm được mô-tơ lắp máy xay xát chứ ở Long Châu thì đào đâu ra mô tơ.
Đêm ấy, mọi người bàn tính đến khuya cũng không ngã ngũ. Trong im vắng, thỉnh thoảng, tiếng súng, tiếng mõ nổi phía làng bên sông, bóng tối lại rợn lên. Tưởng loạn đã kề cửa! Cứ vài năm, Long Châu lại trải một tao loạn.
Bùi hay kể lại, những chuyện thảm khốc của Long Châu tám năm trước, hồi bọn quân phiệt kéo quân đánh nhau quanh Long Châu. Bây giờ Long Châu lại sắp trở lại thảm khốc ấy.
Bùi đến Long Châu trước tất cả các anh em đây. Khi đó Bùi mới ở Xiêm sang ít lâu, theo chủ thợ may lưu lạc xuống. Bấy giờ, cũng lại bọn quân phiệt Quảng Đông sắp đánh Quảng Tây, lại cả cánh Vân Nam kéo xuống. Nhưng quan quân đánh nhau ở đâu chưa tới, giặc cướp đã đùng đùng quanh mình. Đêm nào cũng có cướp vào thị trấn mà không thấy lính huyện ra đánh. Người ta bảo huyện trưởng Long Châu cũng thông lưng với cướp rồi.
Hai lần, Bùi suýt chết.
Rồi Bùi theo Đặng Tử Mẫn lúc ấy đương lo toan về đánh đồn Tà Lùng lần nữa. Dựa vào thổ phỉ, sẵn súng. “Ta nhờ thế nó, còn việc của ta khác. Cái khéo ở chỗ ấy”. Đặng nói vậy. Bọn quân phiệt các địa phương càng đánh nhau càng nhiều cướp. Đặng đón thời cơ, lại cất công đi dụ dỗ thổ phỉ tận Bình Mãng về.
Mới xuống tới Hạ Đống, bọn phỉ Bình Mãng đã nhảy vào cướp tận châu Điềm He. Vừa rút về qua biên giới, trời chưa sáng, chúng nó đã đốt đuốc, chia ngay quần áo, trâu bò, tiền bạc vừa cướp được. Đàn bà và trẻ con bắt theo thì đem ra chợ bán. Chỉ giữ lại mỗi một thằng Tây tóm được ở Bản Quyên - không biết nó là Tây đoan, Tây mỏ hay Tây buôn hồi mà dám đi một mình vào làng, về thằng Tây này thì trùm cướp đã bắn tin cho đồn Đồng Đăng mang tiền sang chuộc.
Tôi ấy, trùm cướp mở tiệc khao quân giữa chợ Hạ Đống. Đèn măng-xông thắp sáng trắng một vùng. Đặng và Bùi cũng được mời dự. Người vốn thấp nhỏ, lúc vào bàn tiệc, Bùi thuận tay kéo ghế gần sát lại mép bàn. Bọn ngồi quanh đấy xì xào, nhìn. Tan tiệc, Đặng mắng Bùi:
- Lệ ăn tiệc xuất quân nó kiêng kéo ghế, mày biết không?
- Tôi không biết.
- Tao phải bảo với chúng nó là mày mói đến, chưa hiểu phong tục. Không thì nó thịt mày rồi.
- Tôi không biết!
- Nhưng nó vẫn đương lưỡng lự...
Rồi Đặng đi đến nửa đêm, về bảo:
- Nó sợ nấn ná ở đây ngộ cánh khác đến úp mất thằng Tây thì lỗ to cho nên nó cứ đi. Nhưng ngày mai mà xảy ra việc gì lôi thôi thì mày chết.
Bùi nằm không chợp mắt được.
Sớm hôm sau, vừa kéo đi một quãng, gặp một toán. Chẳng biết kẻ cướp hay lính huyện, hai bên bắn nhau. Thằng Tây nọ thừa lúc rối loạn, bơi qua sông, thoát được về Bình Nghi.
Đặng phải xin mãi, Bùi mới khỏi chết. Nhưng chúng đuổi ngay tại chỗ, cả hai người.
Đặng đưa Bùi về Bình Tường. Dọc đường lại một phen khốn khổ vì gặp quân Quảng Đông, bắt khiêng đạn. Hai người đi khiêng mấy ngày, một hôm, vờ ra sông tắm, lẩn được.
Quân Quảng Đông đi, quân Quảng Tây đến.
Lần thứ hai, Bùi đã về làm thợ may cho hiệu Hợp Xương. Cái trấn nhỏ vừa trải cơn loạn lạc, người ùn đến ùn đi, đông và chạ người không kể xiết được, đêm nào cũng có người đến khẩn khoản xin ngủ nhờ. Một giường Bùi nằm chen chúc những mấy người. Rồi đến sáng ra thì mỗi người lại đi đâu, không ai biết.
Đột nhiên nửa đêm ấy, lính sục vào khám hiệu may Hợp Xương. Hai người nằm một giường và cả Bùi cũng bị lôi đi.
Sáng ra, hai người bị quan quân đem chém rồi bêu đầu luôn ở cửa chợ. Chúng nghi những người này dạo trước đã phá phủ Long An. Bùi sắp bị đem chém nốt. Nhưng Đặng đến kịp, kêu với quan rằng thằng này mới ở Xiêm sang chưa nói sõi tiếng Tàu; làm sao đi cướp phủ Long An. Mấy hôm sau, chúng bắt chuộc tiền rồi tha.
Những chuyện ấy Bùi vẫn kể và mọi người đều đã nghe nhiều lần. Ai cũng nghe và thích thú như đọc truyện kiếm khách, bởi vì những chuyện ghê rợn cũng thành quen tai và buồn cười, nhất là khi buổi chiều uống rượu, Bùi vừa kể vừa ra hiệu, lúc đi khiêng đạn, thấy quân Quảng Đông lúng túng trước khẩu đại bác, Bùi ngứa mắt xin vào giật cò bắn một phát, đạn nổ inh tai, khi về nghễnh ngãng mất mấy tháng...
Nhưng bây giờ, những câu chuyện mà Bùi thường kể không đượm một không khí hiệp khách giang hồ như trong truyện nữa, cảnh giết người và chết oan, những đám cướp rùng rợn, người chạy loạn và chết đói khát hàng nghìn, bây giờ người ta thấy như đã gần mình, chỉ đêm nay hay sáng mai là xảy ra thôi.
Quảng Đông và Quảng Tây, lại Vân Nam nữa, bọn quân phiệt như con chó dại, lại sắp ẩu đả nhau.
Thê là lại sắp loạn to. Cái trấn Long Châu nhỏ bé, tiều tụy, tan tành như chơi.
Câu chuvện đương bàn, bỗng găng - khi Tư ở ngoài phố về. Các chủ ô-tô sợ cướp, không dám chạy đường Bình Tường. Bơ vơ ở giữa, Tư mất việc. Tư quay về đây, cho Sơn sai vặt những công việc phụ máy. Tư đã nghe rục rịch chuyện định dọn đi Nam Ninh. Tư không thích đi Nam Ninh.
Tính nóng, thấy anh em bàn bạc, Tư nói sỗ ngay:
- Các ông lại tính chuyện dọn lên Nam Ninh à? Ai sợ chết thì cứ đi nhé. Tôi ở đây xem đánh nhau nó thế nào nào.
Nói thế, Bùi chạnh lòng. Không phải vì tưởng anh em cho vì trước mình hút chết, bây giờ đâm sợ. Còn có nguồn gốc xa đã khiến Bùi đâm cáu.
Ai cũng biêt chí hướng con người không phải chỉ một lúc nghĩ ra giống nhau và suốt đời cứ như thế. Chí hướng của ta luôn bị thử thách và lên xuống theo thời tiết tư tưởng của ta. Khi đi ra khỏi đất nưóc, ý thức cứu nước thương nòi của mỗi người thường không khác nhau lắm. Có người đi Trung Quốc, có người sang Xiêm. Có người đi Nhật. Có người nhìn xa hơn, sang Nga. Nhưng mỗi ngày đường sẽ một khác nhau và suy nghĩ của con người không bao giờ dừng. Có người hành động và kiên tâm cách mệnh trước sau vẫn thế. Có người chờ thời. Có người nản, thoái chí.
Ở Long Châu lúc ấy có Bùi và Tân, Tân sang Long Châu đã ngót mười năm. Cũng như Bùi, Tân theo anh em ra hải ngoại, mưu tìm đường cứu nước. Được vài năm, Tân lấy vợ rồi mua máy khâu, mở hiệu rồi chí thú làm ăn không đi nữa. Nhưng gặp anh em, Tân vẫn giúp. Tân nghiện uống chè buổi sáng. Đồng chí tâm huyết đến, uống chè nói chuyện cảm khái. Ai hỏi: “Anh thôi làm cách mệnh rồi a?” thì Tân khóc. Có khi uống rượu và đập bát, đập chén hẹn lại một phen vẫy vùng. Rồi đồng chí ấy đi. Còn Tân tỉnh rượu rồi lại cặm cụi đạp máy khâu. Lâu dần thành quen, dính vào cái máy khâu và vợ con, ý chí cách mệnh chỉ còn phảng phất, trong mỗi lần giúp đỡ anh em đồng chí qua lại.
Bùi thì khác.
Năm trước, xong lớp huấn luyện của Đồng chí hội ngoài Quảng Đông, nhiều đồng chí được phân công trở về nước hoạt động. Bùi tần ngần rồi nói thật:
- Tôi không về.
Sau đó, Bùi xuống biên giới, mở lò may, đoàn thể cũng yêu cầu Bùi giúp luôn cho việc liên lạc cách mệnh ra vào. Bùi làm công tác ấy rất hăng hái. Bùi đã chạy cơm gạo cho ba lớp huấn luyện của Đồng chí hội ở Bản Đảy. Nhưng điều khiếp nhược kia đã thốt ra với câu “tôi không về” vẫn là một giày vò và một ám ảnh theo mãi, mỗi lần giật mình nghĩ đến hay có ai nói động đến.
Bùi chạnh lòng điều ấy.
Lúc đó, Bùi đã trừng mắt nhìn Tư. Thấy thế, Sơn mắng át Tư:
- Không đi thì mặc mày, chưa chi đã nói chõ!
Rồi Sơn cười xoà:
- Tôi ấy à, máy lên Nam Ninh thì tôi theo lên, con nhà thợ ở đâu phải có cái kìm cái búa mới chịu được.
Tân hăng hái:
- Tôi đã cho vợ, con về trong làng rồi.
Bùi không vặc với Tư nữa, nhưng Bùi tái mặt, nói trịnh trọng khác thường, như tuyên bố:
- Xưởng máy này, anh Tân với tôi bỏ tiền ra bảo lĩnh để người ta bán chịu, còn tôi đứng tên mua, làm được thì anh em được hưởng mà có gì trắc trở, nếu chủ máy kiện thì tôi đi tù. Tôi phải có quyền chứ.
Không ai nói nữa, lẳng lặng sửa soạn dọn xưởng. Vả lại, câu chuyện cũng thật khó bàn. Thụ như Chi, những người tay trắng, lại mới đến, không biết nói thế nào. Họ im. Nhưng trong bụng cũng không thích mà không nói ra. Như vậy, Long Châu không còn anh em ở nữa.
Mấy hôm sau, Hùng ở Cao Bằng ra. Hùng lấy tiếng là đi mua tơ về Hoà An bán, nhưng kỳ tình còn mưu nhiều chuyện bí mật. Hùng ra Long Châu, có khi đi Nam Ninh. Những câu chuyện tâm sự, ba người thường hay bàn vói nhau. Một lần, Hùng bảo:
- Ở Hoà An, cả ở Đông Khê bây giờ mình đã tổ chức vào Thanh niên hết. Cả Cao Bằng, cả Lạng Sơn nữa. Cách mệnh ở mình chứ ở đâu, mình tổ chức ra cách mệnh. Phải làm thế mới được.
Câu nói ấy làm Thụ nghĩ nhiều.
Ngay hôm ấy, Hùng và Chi, Thụ, lại cả Tư, bốn người đi chợ Long Châu. Chợ hồi này vắng. Các làng sợ có loạn sẽ vỡ chợ nên không dám lên. Chợ vắng người mua bán thì càng nhiều ăn mày. Chỉ một người gánh củi bán ế hôm trước thì hôm sau đã thành ăn mày rồi. Lúc đầu người ăn mày còn ngồi xin ăn, vài hôm nữa chỉ nằm ngóc đầu kêu, rồi một hôm chết.
Cả bọn tìm một quán cơm có bán vịt quay họ vẫn quen đến. Nhưng người đứng xin đợi đầy cửa, như đợi phát chẩn. Lão chủ quán đã đóng cửa, chuồn ngõ sau, về quê đã mấy hôm rồi mà ăn mày vẫn chực đông ở đấy.
Hùng nói:
- Ở chợ Nước Hai bên Cao Bằng bây giờ còn thương tâm hơn nữa kia. Người Kinh đói đem con lên ngược bán, người Mán hiếm hoi đi mua trẻ con. Ngày phiên thì chợ Nước Hai, chợ Nguyên Bình, chợ tỉnh chỗ bán trẻ con đông như chỗ bán lợn. Nước ta mòn mỏi lắm rồi, các anh ơi!
Thụ nói dứt khoát:
- Tôi đã định rồi. Tôi ở lại không đi Nam Ninh. Tôi sẽ tìm cách bí mật trở về tổ chức cách mệnh cho anh em Lạng Sơn. Hùng nói phải đấy, rồi Lạng Sơn cũng như Cao Bằng. Đúng rồi, việc cách mệnh trước nhất ở mình đã. Mình phải là người đi tổ chức anh em cùng làm ra cách mệnh.
Chợt Hùng hỏi:
- Chúng mày biết chưa?
- Gì thế?
- Chị Mai ở Bản Đảy chết rồi.
Cả ba người sửng sốt kêu một câu giống nhau:
- Tội nghiệp cái Oi!
Tháng trước, Mai đẻ. Theo tục dân tộc Nùng, người đẻ phải ra ngồi sau nhà. Hôm ấy mưa to, nước ngập. Bà lão mẹ chồng ác nghiệt kiêng kỹ, không cho vào nhà. Mai ngồi nước mưa tràn đến đầu gối. Chết cả mẹ và con.
Họ còn lặng yên một lúc lâu. Thương chị Mai quá, chị Mai không còn. Chị Mai vẫn nói bao giờ cách mệnh lấy được nước thì chị trở về Chợ Thượng làm ruộng và gả chồng làng cho cái Oi. Bây giờ thì giá có độc lập cũng không bao giờ có chị Mai về Chợ Thượng nữa. Thụ nhớ lại khi mới ra biên giới, Thụ nói:
- Bây giờ chị Mai chết rồi không có ai để liên lạc.
Cách mệnh ở trong nước ra phải đi bốn trăm cây số lên Nam Ninh mới gặp người của ta. Không được.
Hùng nói:
- Thằng Chi muốn theo lên làm máy xay xát cũng tốt. Biết nghề máy, có khi được nhiều việc đấy.
Thụ nói:
- Ừ, tao ở lại một mình.
Tư kêu lên:
- Tao cũng không đi mà!
Mấy hôm sau, Hùng đã tìm được cho Tư chân làm phụ ô-tô ở hãng Con Thỏ chạy đường Lạng Sơn - Cao Bằng.
Hùng khoái chí:
- Mày làm ô-tô đường ấy, thế là Lạng Sơn, Cao Bằng, Long Châu liên lạc chặt chẽ được rồi!
Vài hôm nữa, hiệu máy Nam Hưng dọn đi Nam Ninh tránh loạn. Các thứ vật liệu khuân xuống ca-nô, xuôi nước ba ngày... Thụ khiêng từng bộ phận máy đến tận bên Ngô Châu, cả Tư ương bướng và Hùng cũng đi khiêng. Trời nắng, mọi người phải cởi trần, hì hụi khuân hai ngày mới tới Ngô Châu.
Lúc ca-nô nổ máy, Thụ nắm chặt tay Chi:
- Nghe nói trên Nam Ninh gần đường gặp đoàn thể cấp trên lắm. Lần này đi, Chi cố liên lạc nhé.
Đứng bến Ngô Châu trông ra, vẫn một dòng sông Kỳ Cùng ấy, nhưng đến đây thì con nước trải to ra, phát triển như nghị lực con người. Thụ đứng nhìn theo bạn đến khi cái đuôi xám của chiếc ca-nô mờ hẳn vào sóng sông. Từ ngày đi, lần này lần thứ hai chia tay nhau.
Thụ về Long Châu.
Tiếng đồn quân Quảng Tây tràn xuống, càng dồn dập.
*
* *
Tháng tám.
Lại có tin quân Vân Nam tràn đến. Quân quan Vân Nam cũng như quân Quảng Đông, cũng như thổ phỉ, chỉ có cướp của và đánh chết ngưòi. Làng xóm càng nín thở.
Một hôm, có đám người tụ ở ngã tư trên lối vào huyện bàn tán:
- Thế nào, không phải quân Vân Nam à?
- Không phải.
- Quân Quảng Đông à?
- Không, không.
- Quân nào?
- Hồng quân?
- Hồng quân!
Những người đứng đường thì thào rồi tản đi. Nhưng ở đằng kia, một đám khác lại đang ghé tai nhau. Lời đồn, khi đúng khi không đúng, thường đi trước rất lâu. Nhưng cái tiếng Hồng quân sẽ đến Long Châu thật mới lạ đối với một cái trấn nhỏ trên biên giới hẻo lánh này. Bởi vậy, đứng đâu người ta cũng bàn tán. Rồi lại sợ lính huyện biết thì chết, nhưng lại không lặng nín được.
Người ở trấn Long Châu chưa trông thấy Hồng quân bao giờ. Nhưng nghe chuyện thì nhiều lắm. Người ta kể rằng Hồng quân là một đoàn quân mặc áo đỏ, cưỡi ngựa đỏ, đến đâu thì đánh tan quân quan Quốc dân đảng, tan thổ phỉ, rồi lại đi nơi khác, nơi nào có đứa làm ác đến tiêu diệt nó rồi lại đi, không bao giờ ở một chỗ. Nhưng những người ở ngoài trấn vào chợ thì lại nói khác. Họ bảo họ được thấy Hồng quân rồi, Hồng quân cũng ăn mặc như ta thôi và khắp nưóc Trung Quốc đâu bây giờ cũng có Hồng quân.
Lại càng nóng ruột. Ai cũng nghĩ: Hồng quân tốt thế, Hồng quân đến dẹp tan cho chúng tôi cái khổ này đi.
Nhưng vẫn chưa thấy gì mới, mà Long Châu càng ngơ ngác, vắng ngắt, ngày một khô rạc. Tưởng chừng chỉ một mồi lửa, cả mái nhà và đường cái cũng bùng lên. Bọn quan quân và kẻ cướp giết người cướp của nhiều quá, vào phá nhà ban ngàv giữa phố. Long Châu nóng lắm rồi.
Rồi giữa tháng tám, quả nhiên có một cánh Hồng quân của Lý Minh Thuỵ từ phía Vân Nam xuống.
Nửa đêm, phía nào cũng nghe tiếng chân người đi qua. Quái lạ, không nghe tiếng súng. Từ mờ sáng, hé cửa, đã thấy trên tường, cánh cửa và gốc cây, những tờ giấy xanh, giấy đỏ chi chít dán khắp thị trấn những khẩu hiệu cách mệnh và hoan hô Hồng quân.
Đả đảo Quốc dân đảng!
Xử tử ác bá cường hào!
Chia đất cho nông dân!
Quảng Châu công xã muôn năm!
Hồng quân muôn năm!
Bấy giờ cuộc nổi dậy của công nhân và binh sĩ ở Quảng Châu cuối năm 1927 đã chấm dứt, nhưng tiếng vang trận đánh ngoan cường của công nhân và binh sĩ Quảng Châu liên hiệp khởi nghĩa còn lan rộng đi mãi khắp biên khu Giang Tây, Quảng Đông và cả Quảng Tây. Ở rất nhiều nơi, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo nhân dân vũ trang khởi nghĩa quật lại thế lực phản cách mạng. Hồng quân Lý Minh Thuỵ tiến xuống biên giới, đi suốt Quảng Tây sang Vân Nam đương trong cao trào khởi nghĩa khắp Hoa Nam đó.
Đến lúc trời sáng thì Long Châu hiện ra trong quang cảnh chưa bao giờ thấy. Nhưng không kỳ lạ. Bộ đội Hồng quân vẫn tiến qua trấn có nhiều bộ đội nom rất quen mặt, có người còn nhận ra là những anh cõng bó củi mọi khi vẫn đi rao đầu ngõ. Nhiều nhà mở cửa, đem thuốc lá, chè và giày vải ra biếu bộ đội và chạy theo vào đánh huyện.
Ai cũng có cảm tưởng Hồng quân từ trong nhà mình bước ra, trong Hồng quân có người Long Châu mình và trong trấn đã có nhiều người bí mật theo Hồng quân và không ai sợ sệt nữa.
Còn bao nhiêu người ở lại Long Châu đều đổ ra đường hết. Cảnh tượng hốt nhiên sông lại, khác hẳn Long Châu rũ rượi hôm qua. Hồng quân tiến vào vây phố Bạc Bảo Cai. Sắp đánh chiếm huyện sở. Người Long Châu rùng rùng theo Hồng quân đi đánh huyện. Ai cũng đã kiếm được cái gậy, con dao. Họ xông vào. Người vỡ bờ tràn lên. Lô cốt huyện cao sừng sững trên bốn góc tường. Những cái lỗ châu mai như con gấu đứng há miệng. Chi chít khắp tường. Và quanh tường huyện, một bờ hào rộng, sâu, đầy ắp nước. Làm thế nào đánh được!
Nhưng xông vào mới biết cái huyện chỉ còn mấy toà nhà không. Quan lính Quốc dân đảng trốn từ lâu.
Lá cờ búa liềm bay rừng rực trên cổng huyện.
Biết bao thay đổi kỳ diệu từ hôm nay. Thật náo nức.
Thụ đi đâu cũng đeo thanh mã tấu trên lưng.
Nghe giữa phố có tiếng trống. Người đi đường xôn xao nói: Chém Hán gian ở chợ! Chém Hán gian ở chợ!
Thụ chạy ra. Không phải chém Hán gian, Thụ đã thấy một cảnh khoan khoái xưa nay chưa bao giờ thấy.
Đông người đứng xem lắm. Một người đeo băng đỏ, đứng cao nhất trên ghế, nói to giữa đám đông:
- Thằng Tây này đã nhiều năm đến làm hại Trung Quốc. Nó là con mọt già. Nhưng nó cũng là người nước ngoài, cho nên Hồng quân không thèm giết, chỉ đuổi nó đi.
- Đuổi nó về Lạng Sơn! Đuổi nó đi!
Mọi người trông xuống, thấy một thằng Tây thật, mắt xanh nhờ nhờ, đứng sau cái bục. Bị người chỉ trỏ, thằng Tây quay quay, lanh quanh như con mèo tìm chỗ ỉa. Nhưng quay đằng nào thì bốn phía mọi người vẫn xem được mặt. Nó đứng im vậy.
Nó là thằng Tây lãnh sự ở Long Châu. Huyện trưởng Quốc dân đảng trốn vội quá, không kịp báo tin cho Tây lãnh sự biết. Đến lúc Hồng quân vào nhà lãnh sự, (người ta đồn thế) thấy Tây còn đương ngồi nhai cái đùi gà!
Tiếng hét:
- Quần áo tốt thế kia mà đi Hán gian cho Tây để cướp của người Trung Quốc. Đòi lại!
Nhiều người xông vào lột bộ quần áo dạ Mông Tự của thằng Tây lãnh sự.
- Giày da bóng kìa, cả bít tất hoa nữa! Lột nốt đi!
Thằng Tây cởi trần, chỉ còn cái quần lót. Hai bàn chân mỏng mảnh, trắng nhợt, ngón toẽ ra, như chân ếch. Hai con mắt thì vẫn nhờ nhờ thế, chẳng khác lúc nãy.
- Đuổi đi!
- Còn cái mũ! Cái mũ!
Cái mũ phớt xám trên đầu Tây lãnh sự bị giựt nốt xuống. Mọi người hỉ hả reo:
- Quân ăn cướp, phải bắt nó khổ nhục thế mới được!
Thằng Tây lãnh sự cởi trần, chân đất, cuốc bộ trên năm mươi cây số về Lạng Sơn. Nó vừa đi vừa khóc. Tin đồn dậy sang tận Lạng Sơn rằng Tây lãnh sự bị quân cách mệnh Trung Quốc đuổi từ Long Châu về. Người Lạng Sơn nói: bao nhiêu lần nước Tàu kiện lên Vạn quốc mà không dám đụng đến tô giới, bây giờ Hồng quân Trung Quốc đứng lên vặt được cả râu Tây rồi...
Nhiều người bên Lạng Sơn trốn sang Long Châu xem thế nào.
Thụ còn đứng nhìn theo thằng Tây lãnh sự, đến tận lúc nó cung cúc đi khuất xuống phố dưới. Thụ phấn khởi lạ thường. Thụ tự làm lấy cái băng đỏ, đeo lên cánh tay áo.
Thụ xách mã tấu, vào huyện.
- Các đồng chí Hồng quân, cho tôi làm cách mệnh.
Những ngày tưng bừng rung chuyển Long Châu. Thụ đi trong đoàn cán bộ Hồng quân, đến từng làng, lập Xô Viết xã, tổ chức nông hội bí mật, đưa những người tích cực trong nông hội vào đội tự vệ đỏ bí mật, đánh chiêng lên phát động đấu tranh lấy ruộng địa chủ ác bá chia cho người nghèo. Làng nào cũng thế. Náo động đến tận hang cùng ngõ hẻm. Có đấu tranh ở một làng thì người cả vùng kéo đến xem và ủng hộ. Lực lượng cách mệnh thành hình khắp huyện. Đâu đâu cũng vang động tiếng gọi: “Các đồng chí Hồng quân! Các đồng chí Hồng quân, nhanh lên! Ở vùng này địa chủ ác bá tàn nhẫn lắm, các đồng chí à!”.
Một lần, đến Bó Cục, Thụ thấy trong đám người dự cuộc đấu tranh với ác bá có nhiều người áo chàm khuy tết nhỏ như người bên Tràng Định.
- Có phải ở Thất khê sang đấy không?
- Phải.
Thụ viết thư ngay cho Tư và Hùng, nhờ bà con đưa hộ. Thụ muốn hai bạn sang tham gia Long Châu đỏ như mình.
Những điều đã biết mà cũng là những điều mới mẻ! Thụ đã lăn lóc lên tận Vũ Hán, đâu đâu cũng chỉ thấy phơi bày một cảnh tượng nghèo khó. Người chết chồng đống, người bỏ làng lũ lượt đi. Nay cách mạng đến, vẫn người đói khổ ấy, giữa cảnh ấy, nhưng Thụ lại chứng kiến một tình hình khác hẳn: những người nghèo đói sống lại và hùng dũng đứng lên, rũ băng xiềng xích và, cái ruộng đất khốn khó, bấy lâu chỉ làm khổ con người bây giờ ruộng đất không phải là cái nặng nợ khốn khổ nữa, ruộng đất bỗng trở thành hạnh phúc. Làng xóm náo nức, dồn dập. Thụ say sưa, mê mải vào tổ chức, đấu tranh. Thụ thấy như rồi mai kia đất nước mình đánh đuổi thằng Tây đi, cả nước và cả Lạng Sơn mình cũng thành như Long Châu đỏ thế này.
Cuối tháng chín, Quốc dân đảng dồn quân cả tỉnh Quảng Tây về đánh Long Châu.
Để giữ lực lượng, các tổ chức cách mệnh rút vào sinh hoạt bí mật, còn Lý Minh Thuỵ và Hồng quân rút lên phía tây bắc, sang Vân Nam.
Quan quân Quốc dân đảng bấy lâu trốn tránh ở đâu bây giờ lại kéo vào Long Châu. Suốt một tháng chỉ đi lùng giết người. Cứ cách vài nhà, chẳng hạch được tội gì, chúng cũng lôi người ra giết. Đầu người cắm vào cọc, khắp đầu phố, đầu xóm và bốn cửa chợ, thối rữa ra.
Trước cổng huyện treo một bảng to, đề dòng chữ đen kịt: Giết hết cộng sản rồi.
Thụ trở về thị trấn. Thụ lại lặng lẽ đem cái ghế gấp mặt vải bạt với bọc dao cạo và hòn đá mài đến ngồi ngay dưới cái bảng có chữ: Giết hết cộng sản... Bởi vì chợ chưa họp được, mà ở đấy chỗ đầu phố Bạch Bảo Cai gần cửa huyện, dễ có khách. Thụ cất tiếng hát để câu trẻ con lại. Trẻ con xúm đến xem Thụ hát. Lúc chưa có khách, Thụ lại cạo đầu cho trẻ con. Long Châu còn vắng lắm. Một hôm, có một người cao lớn, áo rách sã vai, bên chân chỉ có một chiếc giày cỏ vắt vẻo sắp tụt nốt. Người ấy quảy sọt củ nâu, một cái rọ, trong có con trăn nằm cuộn tròn to bằng bắp chân. Hẳn người này vừa mới lật đật ở rừng ra, đói quá, nghe nói chợ huyện mới họp lại liền lên chợ sớm bán cái của rừng để kiếm miếng ăn.
Người ấy vào ngồi xuống ghế. Râu tóc nham nhở hôi gớm chết.
- Cạo cho cái đầu nào! Mồ hôi ra, ngứa ơi ngứa!
Thụ lại liếc dao, bắt đầu cạo. Ngưòi khách cứ nhìn thẳng, vu vơ, hỏi một câu tự nhiên:
- Có nhớ ngoài Hạ Đống không?
Thụ giật mình, nhìn lại. Nhận ngay ra người khách ngồi ghế là Nông Kỳ Lâm - người cán bộ của Đảng cộng sản Trung Quốc, làm cách mệnh ruộng đất ở Hạ Đống, đã lăn lộn vói các Xô Viết xã ở đấy cả tháng vừa qua, mình có lần gặp.
Thụ chợt cảm động, vừa nghĩ vừa liếc nhìn lên cái bảng có chữ to: Giết hết cộng sản... trên đầu. Không, không phải chúng mày giết hết cộng sản mà cộng sản vẫn đến ngồi ngay cạnh cái bảng có dòng chữ nói dối này đây. Thụ nhớ đến những đội tự vệ đỏ và nông hội bí mật khắp Long Châu. Cách mệnh đã bắt rễ sâu vào các làng rồi.
Thụ hỏi:
- Đi đâu vào đây?
- Thấy mày ở đây thì đến liên lạc đấy.
Rồi Lâm lại nói:
- Có biết làm máy không? Công nhân xưởng Nam Hưng thì phải biết làm máy chứ?
- Máy gì?
- Bọn Quốc dân đảng mới lập lại cái tu giói sở, đương cần người thợ chữa súng, các thứ thợ, cứ vờ biết rồi vào đấy học cũng được.
Thụ ngạc nhiên:
- Cách mệnh lại lấy người đi chữa súng cho Quốc dân đảng à?
- Ồ, đoàn thể ta phải vào trong kho mà nắm lấy súng chứ. Long Châu đã đứng lên làm cách mệnh rồi, Long Châu đỏ mãi mãi chứ, phai mờ thế nào được!
Thụ cười. Câu chuyện đến đấy thì cái đầu và râu ria ông khách cũng vừa nhẵn gọn, khách đứng dậy, móc mấy xu trả rồi lại hùng hục, hấp tấp chạy ra quảy gánh củ nâu và con trăn vào chợ.
Ít lâu sau, có người đến gọi Thụ vào làm công nhân xưởng chữa súng huyện Long Châu.
Thụ rất sáng ý, đã biết qua máy móc lúc ở xưởng Nam Hưng bây giờ chỉ học lỏm mà dần dà chữa được tất cả các loại súng trung liên, súng lục, cả tạc đạn hóc. Đôi khi, Kỳ Lâm bí mật đem súng đến nhờ chữa. Có lần người của Kỳ Lâm lại là một lính Quốc dân đảng, đầy đủ giấy tờ, gánh súng hỏng đến tận xưởng. Thụ chỉ việc vào kho đổi súng tốt cho mang đi. Thụ có cảm tưởng: khắp nơi, “'Long Châu vẫn đỏ mãi chứ, phai mờ thế nào được”. - Đúng như Kỳ Lân nói.
Những ngày Long Châu đỏ sôi sục đã qua.
Nhưng Long Châu đỏ còn để lại trong Thụ những suy nghĩ và gợi ra cho Thụ những dự định thật mới. Thu càng nhớ những chuyện đã nói với Hùng dạo trước. Cách mệnh sẽ do chúng ta làm nên.
Quái, sao lâu không thấy Hùng ra. Thư nhắn cả Hùng và Tư mà bặt tin. Mong quá.
Thụ đi làm mấy tháng, để dành tiền mua được xe đạp. Ngày nghỉ, Thụ đạp xe khắp huyện, lên tận Bình Tường, giao du rộng. Biết tiếng Thụ giỏi chữa súng, có khi bọn buôn lậu và kẻ cướp cũng tìm Thụ, nhờ chữa.
Đến hôm Hùng ra Long Châu, mới biết dạo trước Tư đã sang Hạ Đống ngay lúc nhận thư Thụ. Háo hức qua, nửa đêm, Tư bơi qua sông Bằng, quãng trên Tà Lùng. Gặp con lũ muộn, Tư cứ lội. Không ngờ, nước mạnh quá, Tư chết đuối.
Hai người ngồi lặng hồi lâu cùng nhớ, ở Long Châu, chỉ có Thụ, Chi, Hùng và Tư trẻ tuổi hơn cả và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến đánh Tây, hoạt động cách mệnh. Ai mói gặp cũng thích ngay cái tính hăng hái của Tư, không bao giờ quên được. Rồi Thụ nói:
- Hùng ơi! Tôi đã quyết định. Phải trở về Lạng Sơn. Chúng ta sẽ làm cho Cao Bằng và Lạng Sơn cùng đứng lên. Bài học cách mệnh ta vừa học được ở Long Châu rồi.
Hùng nói:
- Con đường từ Lạng Sơn sang Long Châu càng cần cho chúng ta bắt liên lạc với hải ngoại. Thằng Tư với mình đương tổ chức.
Thụ nói:
- Lạng Sơn, Cao Bằng ra Long Châu, lên Nam Ninh rồi đi nữa, cách mệnh Việt Nam liên lạc với cách mệnh Trung Quốc và cách mệnh thế giới, cách mệnh Việt Nam sẽ thành công.
Hùng chợt nhớ:
- Thụ à, mày đã nghe chuyện này chưa. Chuyện mật thám bên Đồng Đăng mò sang Lũng Nghìu hẹn thưởng tiền thưởng muối cho mẹ Mã Hợp. Nó bảo nếu thấy người Lạng Sơn sang thì hỏi dò xem đi đâu rồi về Đồng Đăng báo quan hai. Mẹ Hợp trả lời mật thám: một đời tôi chỉ biết đường đi kiếm củi, tôi không biết đường đi Đồng Đăng báo Tây.
Thụ “à” một tiếng rồi cười vui hẳn lên. Trong lòng đã sẵn tin dĩ nhiên như thế.
- Phải, có người tốt, có Mã Hợp ở đấy thì đường Long Châu về Lũng Nghìu cũng sẽ thành đưòng liên lạc của cách mệnh. Ta sẽ mở đường ấy trước nhất.
- Hay! Hay đấy!
- Nhưng phỉ nhiều lắm, từ đây về đấy phải đi qua địa phận bọn phỉ ở Độc Sơn.
- Ta sẽ làm cho phỉ không hại được cách mệnh Việt Nam.
- Làm thế nào?
Thụ quả quyết:
- Được.
Ngày kia, Thụ đến Độc Sơn.
Độc Sơn cách Hạ Đống hai mươi cây số, sào huyệt của trùm phỉ Chính Hiền. Độc Sơn toàn rừng chen núi đá, nằm vắt ngang sau lưng biên giới nhìn chéo sang Cao Bằng và Lạng Sơn. Bao năm nay, Độc Sơn vẫn là nơi hang ổ, nếu không có các toán cướp ở nơi khác đến thì chính người Độc Sơn cũng cậy thế hiểm để ra cướp các vùng xung quanh. Người Độc Sơn làm nên quan làng mà cai trị nhau chứ không ai vào được. Các xóm đều ẩn hóc hiểm trong khe đá quanh sườn núi. Mỗi quãng, chất một chồng đá. Các cụ xếp sẵn đá như thế, không biết từ đời nào, để lăn xuống chẹn đường, để là chỗ tựa vai súng. Mỗi chòm nhà nấp sau một cổng đá chằng chịt lỗ châu mai, rồi đến tường nhà, cửa nhà cũng chi chít châu mai, lúc nào cũng đánh nhau được. Xưa này ai vào Độc Sơn, như vào hang hổ, cũng cầm bằng sa chân xuống vực suối lũ, không biết đâu mà lường. Người vùng này thường nói vậy.
Thụ đến một nhà đầu xóm. Vừa tựa xe đạp vào bờ đá, ngoái lại đã thấy có người cầm khẩu súng poọc nhăm nhăm ở ngoài.
Thụ ngoảnh ra:
- Tôi đến đây để yết kiến ông Chính Hiền.
Rồi Thụ lấy trong túi áo ra tờ danh thiếp, đưa cho người cầm súng. Lúc ấy, người chủ trong một nhà đầu xóm bước ra, vòng tay lễ phép nói:
- Xin mời ông vào nhà tôi nghỉ chân.
Rồi cầm cái thiếp đi thẳng. Ai vào Sơn trại đã thành lệ phải đợi như thế. Thụ vào ngồi trong nhà. Người cầm súng đốc canh vẫn lảng vảng ngoài ngõ.
Một lúc, chủ nhà về, có người đi cùng. Thụ theo người ấy đến một xóm khác. Còn người cầm súng thì vác cái xe đạp của Thụ theo. Ba người đi mãi vào cái ngõ đá khấp khểnh, sâu hút.
Chính Hiền đã đứng tuổi. Mặt trắng bệch như người khách buôn - Chính Hiền lại mặc cái áo lụa dài, xúng xính, nhàn nhã, nom càng giống lão bán thuốc ở hiệu bào chế trên phố Bạch Bảo Cai.
Thụ nói:
- Tôi biết tiếng ông, hôm nay đến thăm ông.
- Ông Lưu Minh Hạ, tôi có được nghe...
Thụ nói trước rằng:
- Thưa ông, đường vào Độc Sơn của ông đi theo khe núi và chân ruộng hẹp sừng trâu mõm nai. Nghe chim gọi vịt kêu đằng xa, tôi chợt nghĩ rằng ông là người giang hồ lịch lãm nhiều, ông đã biết dù ở Độc Sơn đây hay ở Thoát Lãng bên kia thì cái cây, con chim hay con người cũng thế, Trung Quốc hay Việt Nam thì ở đâu người nghèo cũng khổ cả.
- Lưu tiên sinh nói thật đúng người thời thế.
- Tôi là người cách mệnh Việt Nam.
Chính Hiền đáp:
- Chính Hiền không phải bọn thảo khấu tầm thường, ông cứ nói.
- Lưu này đến thăm ông chính vì thế.
- Tiên sinh xem đây.
Chính Hiển đưa Thụ lên cái hang sau núi. Không ngờ, trên hang là cả một cái xưởng làm giấy bạc. Những mẫu vẽ, những bàn phẩm ngũ sắc và máy dập, giấy sáp, đủ thứ, tiền Quảng Đông, tiền Quảng Tây, tiền Việt Nam rồi giấy năm đồng “con công”, giấy “đầm xoè” hai mươi đồng, giấy “cái đỉnh” một trăm Đông Dương (1).
Chính Hiền cười khà khà:
- Không có tiền thì ta phải làm ra tiền mà tiêu. Đời này đã toàn lừa dối thì việc mình làm không phải là lừa dối nữa, có phải không Lưu tiên sinh?
Rồi Chính Hiền vỗ vai Thụ:
- Ông Lưu à, thiên hạ đồn Chính Hiền là lục lâm. Nhưng Chính Hiền chỉ lục lâm với kẻ ác, với đứa nào muốn trêu vào tay Chính Hiền mà thôi. Một đời tôi chưa đi chặn lối cướp đường, chưa cắt túi lấy của ai một đồng một chữ bao giờ. Tôi cũng sinh sống như mọi người. Đến mùa hồi thì người của tôi sang Lạng Sòn buôn hồi đưa ra Hồng Kông bán. Tôi chỉ khác thiên hạ là người của tôi đem tiền này của chúng tôi làm ra đến thằng quan hai Đồng Đăng đổi lấy vài hòm tiền của nó. Mình chịu đổi thiệt thì có tiền minh bạch, tiêu ung dung về đến tận hiệu cao lâu Đông Hưng dưới Hà Nội đấy.
- Tiền giả đổi lấy tiền thật à?
Chính Hiền lại cười ha hả:
- Đúng. Nhưng mà ở đời này biết thế nào giả với thật!
Thụ thốt một câu chửi:
- Con chó cái thằng Tây!
Trở vào trong nhà, Chính Hiền hỏi Thụ:
- Tôi nghe tiếng Lưu tiên sinh sành chữa súng, có phải không?
- Cũng mới võ vẽ.
Thủ hạ ôm đến hơn một chục khẩu súng ngắn, khai hậu, súng kíp, súng trường Nga. Thụ lấy ra một cái kìm, cái vặn ốc nhỏ vẫn giắt sẵn trong người. Chỉ bằng ấy thứ với chiếc thông nòng xoe bằng tóc và trong một lát chăm chú, được khẩu nào bắn thử luôn khẩu ấy. Thụ đã chữa xong cả ôm súng.
Chính Hiền reo to:
- Tiếng đồn quả không sai.
Rồi dọn bữa rượu thịnh soạn.
Chính Hiền nâng chén:
- Chỉ tiếc không kịp sai người sang bắt thằng chủ hiệu cao lâu Lục Ưng bên Thất Khê về nấu hầu anh em mình bữa hôm nay. Nhưng rượu Độc Sơn còn hay hơn rượu trấn Lũng Vài đấy. Đại ca xem.
Chính Hiền quệt que diêm lướt trên miệng chén rượu. Ngọn lửa xanh biếc nghiêng nghiêng bốc lên.
Chú thích:
(1) Các loại giấy bạc của thực dân Pháp phát hành ở Đông Dương, đặt tên theo hình vẽ trên giấy (con công, đầm xoè, cái đỉnh) như thời ấy người ta thường gọi.