- VIII -
Thụ trở về, gặp Phong đã ở Khơ Đa.
Phong về Khơ Đa, đợi Chi trong Điềm He rồi hai người đi Cao Bằng. Các cơ sở dọc biên giói đương toả rộng, Phong muốn mình được đi con đường quần chúng bảo vệ Đảng qua huyện Đông Khê xuống tận Nước Hai bên Cao Bằng.
Hai người gặp nhau lần ấy, vui thích và quyến luyến lạ lùng! Ở Thụ và Phong đượm một tình cảm vừa bạn, vừa đồng chí, không phân biệt được. Thật ra thì không thể phân biệt đâu bạn, đâu đồng chí, khi tình bạn nảy nở thật sâu sắc và tình đồng chí cao cả đến độ thật thiêng liêng và đấy mới là có tình cảm chân chính đối với nhau.
Cái vui của hai người cụ thể trong câu chuyện trước mắt: Cơ sở cách mệnh ở Khơ Đa và Ma Mèo, ngay dưới chân núi Áng Cúm có con đường 4 xuyên trước mặt, kẻ thù xộc đến lúc nào cũng được, hai đầu có Đồng Đăng với Nà Sầm, quan Tây và tổng xã đoàn nếu đứng sắp dãy ra thì ken vai chật đường. Nhưng mặc địch cứ lùng bắt, cách mệnh cứ nảy nở. Thụ và Phong cứ đến Khơ Đa, tự nhiên. Vào xóm là có quần chúng canh gác ngay. Có khi Tây nghe tin hão đi vây hang Áng Cúm, chúng lộn xộn chửi nhau dưới đường 4 trong khi trên xóm Khơ Đa vẫn họp tổ Đảng. Cái vui của công tác phát triển.
Cả hai người cùng thấm thía và cảm động, nhất khi Phong nghe Thụ kể chuyện bây giờ trong châu Bắc Sơn, Đảng đã đến đấy, khắp châu, quần chúng đương nóng lòng trông chờ và sẵn sàng cách mạng. Cái vui ở đấy và cái vui còn thắm thiết mỗi lần Thụ gặp Phong. Mỗi lần Thụ gặp Phong, bao giờ cũng thấy được tinh thần suy nghĩ, công việc mình lại có một ước mơ mới hơn, rộng hơn. Ở Phong mọi công việc từ công tác của một tổ một người, đến công tác Quốc tế, ở biên giới hẻo lánh này hay đi bất cứ những nơi nào trên trái đất, cái quan trọng của các loại việc các nơi khác nhau ấy đều không cái gì quá tầm tay và đều được xem xét, thực hiện cẩn thận, khắt khe, đinh ninh như nhau. Chủ nghĩa đế quốc kẻ thù của công nông thì chẳng bao lâu nữa sẽ bị tiêu diệt, có thể tính trước ngày tận số của nó. Niềm tin lạc quan của Phong chỉ một đinh ninh ấy.
Phong đối với Thụ cũng như thế. Quyết tâm bỏ tất cả để đi tìm lý tưởng của Thụ cũng như Chi và Hùng, không trở lực nào cản được, mỗi lần gặp cứ khiến Phong nhớ lại lớp tuổi trạc Phong ở quê nhà, khi mới hiểu biết, cũng một sôi nổi ấy. Sau này, tin tưởng của Phong đưa vào hành động đã tới được kết luận mạnh mẽ rằng giai đoạn cách mạng quyết liệt này phải có Đảng ta lãnh đạo, không phải chỉ là một mong muốn mà sự thực là ở đâu cũng càng ngày càng nhiều người tốt đẹp như Thụ đến với Đảng.
Lần gặp nào cũng bề bộn công tác. Nhưng lần này có những việc quan trọng, hai người đều cảm thấy.
Đêm vào thu, mát hây hây, mà họ chưa ngủ. Họ không muốn ngủ, họ còn cố thức để hỏi được, nói được với nhau nhiều chuyện hơn nữa.
Như vậy, ngày mai, hai người lại đi xa.
Phong đợi Chi, Hùng vào Cao Bằng, khi trở ra, Phong ra Hồng Kông, chắc còn lâu mới lại gặp nhau. Còn Thụ, Phong vừa truyền đạt, theo yêu cầu công tác, Thụ về Hà Nội.
Chuyến này Thụ đi theo những con đường quần chúng mà Thụ vừa mở. Chà chà, về Hà Nội. Thụ về Hà Nội, mỗi ngày, bước sâu vào trận địa của cách mệnh, Thụ càng thấy mỗi lúc một cần thiết đi vào lòng đất nước, vào giữa quần chúng tin yêu và được ở đấy chiến đấu mặt giáp mặt quân thù. Ý nghĩ “ra đi” của những năm trước, thật sôi nổi, cũng thật thơ ngây, vẫn còn cảm thấy trở lại.
Phong nói:
- Năm ạ, những kế hoạch chúng ta vạch ra ở Lũng Nghìu, nay đã thực hiện được. Thế là con đường về xuôi đã thông rồi.
- Nhưng vẫn chưa đủ đường vào Bắc Sơn đâu. Còn lối nữa, gần hơn qua Thất Khê, qua Điềm He nhiều, lối này vào châu Văn Uyên, đi qua làng tôi rồi tắt sang đèo Tam Canh, Mã Hợp nói chỉ một đêm đi khoẻ là tới. Tôi sẽ đi đường ấy, ta đánh đường nữa vào Bắc Sơn càng hay.
Phong im lặng. Phong đã đương nghĩ đến một việc khác. Trầm ngâm, rồi Phong bảo Thụ:
- Mình lại sắp đi xa. Có việc mới này nữa bàn với Năm nhé. Đoàn thể ta cần một đồng chí phụ nữ ra công tác hải ngoại. Công tác không khó, nhưng cần người tốt và đi lâu. Năm thử tìm xem.
Thụ lẩm nhẩm.
- Cô Khó, cô Máo ở Tà Lài thì bị bắt rồi. À tổ Khơ Đa này cũng còn hai người.
Phong phân vân:
- Không nên rút người cơ sở các làng biên giới...
Thật khó. Còn ai nữa đâu! Chợt Thụ nhớ: Hay là... hay là... ta nói với anh Vương “cao” cho Mảy đi. Có thể. Thụ nhìn Phong ngập ngừng rồi nói:
- Tôi sẽ tìm.
- Khi mình ở Cao Bằng ra thì đã tìm được chưa? Năm sắp đi kia mà?
- Tôi sẽ dặn Mã Hợp gặp anh.
Cơ quan hải ngoại của Trung ương Đảng ở Hồng Kông, từ hai năm nay, vẫn hoạt động và giữ được liên lạc với Hải Phòng, Sài Gòn và đi Quốc tế. Các đồng chí Đảng của Trung Quốc ở đấy giúp cách mệnh Việt Nam nhiều, cả mọi việc sinh hoạt. Nhưng có một việc nhỏ, mà rắc rối, đấy là cách đối phó với luật thuê nhà ở Hồng Kông. Ở đấy đế quốc Anh chỉ cho phụ nữ đứng chủ thuê nhà. Bấy lâu, cơ quan vẫn giải quyết được cái khó ấy nhưng Phong muốn có được một người đồng chí phụ nữ giác ngộ cách mệnh ở trong nước, ra lo cả việc quản lý cơ quan. Được thế, thật tiện và đàng hoàng.
Thụ nghĩ đến Mảy. Bấy lâu, trong đà phát triển cách mệnh ở Lạng Sơn, thì ở Nhân Lý, xóm Phạc Lạn, xóm Bó Lào, xóm Háng Lệ đều đã có tổ chức cách mệnh, nhưng tổ chức còn yếu. Có lần Mã Hợp vào đưa truyền đơn, mỗi tổ nhận nhưng không ai dám đi tranh đấu rải truyền đơn, sau đem bỏ bếp cả.
Mảy cũng đã vào tổ nông dân bí mật. Nhưng cái tiếng nhà ma gà vẫn cứ bó chặt mãi với cái túng quẫn cùng đường trong gia đình. Ruộng không đủ cấy, không ai cho thuê ruộng. Năm ngoái nhà Mảy bán nốt mảnh rừng hồi cuối cùng. Rồi có người dưới xóm Nà Pàn muốn lấy Mảy về làm lẽ. Mảy chỉ khóc mà chẳng dám cãi lại bố mẹ. Nhưng nghe ngóng thế nào, có lẽ biết nhà ấy có ma gà, không thấy dưới Nà Pàn động tĩnh gì nữa.
Những nhà Nùng Cháo trôi giạt đến Nhân Lý, cũng không làm thế nào đỡ túng đói. Người Nùng Cháo lại phải tính chuyện đi nơi nào sống được. Từ năm ngoái, nhà Mảy và mấy nhà Nùng xóm Phạc Lạn và ngoài Phố Lẩu bàn định xuống Thái Nguyên tìm ruộng làm. Bố mẹ Mảy đã lo tính mọi điều rồi. Phải chạy, phải trốn cho hết tiếng ma tiếng ác thì may ra mới khỏi đói, mới sạch được cái đồn thổi chết người kia.
Khi nghe Phong nói, Thụ nghĩ đến Mảy. Chỉ có thoát ly đi cách mệnh, đời người đàn bà chồng chất những đau đớn như Mảy mới có thể đứng lên được. Bây giờ là lúc có cơ hội đây.
Phong dặn:
- Nếu tôi đi công tác xa rồi thì bảo Mã Hợp lên liên lạc ra Long Châu, chỗ anh Bùi. Tôi sẽ có người đến đón đi (Bùi trở về Long Châu năm ngoái).
Cho đến sáng, Thụ kể Phong nghe về đời Mảy và nỗi khổ của người phụ nữ miền núi.
Thụ lại về Lũng Nghìu. Tình cờ, cả nhà đông đủ. Nhà có giỗ. Mã Anh và Phảy - em trai và em gái Mã Hợp, năm nay đã lớn và đã vào tổ chức bí mật cả. Cả nhà thành một tổ và Lũng Nghìu đã có chi bộ Đảng. Bây giờ Thụ đi lâu về cũng như Thụ vẫn ở lại, vì Lũng Nghìu đã có chi bộ Đảng rồi. Lũng Nghìu đã khác trước.
Thụ bảo Mã Hợp:
- Mai chúng mình đi nhé.
Mẹ hỏi:
- Có làm cơm đem đi không?
- Có.
Thế là mẹ biết anh em đi xa.
Một lần, Vương “cao” đi, mẹ nắm hai nắm cơm to rồi hỏi: “Đi đâu xa thế?”. Vương “cao” nói: “Con ăn hết hai nắm cơm của mẹ thì đến nơi”. Mẹ đoán Vương “cao” nói đùa. Nhưng mẹ cũng biết thêm, việc cách mệnh phải bí mật, biết thế, nhưng mẹ thương yêu, mẹ vẫn hav hỏi.
Đêm ấy, cả nhà thức khuya. Thụ kể nhiều chuyện thú vị các nơi cho cả nhà nghe. Những chuyện ở Hà Nội, ở Sài Gòn...
Mẹ hỏi:
- Ở Hà Nội có cách mệnh không?
- Đâu bây giờ cũng có cách mệnh rồi.
- Con được đến Sài Gòn chưa?
- Chưa. Nhưng cách mệnh đã đến tận Sài Gòn rồi thì cả nhà mình đây cũng có khi vào Sài Gòn được.
Cô Phảy cười giòn:
- Thích quá nhỉ, bao giờ anh Năm được đi Sài Gòn cho Phảy đi với.
Như vậy, mẹ nghĩ: chắc lần này Thụ đến Hà Nội, đến Sài Gòn. Mẹ có cảm tưởng thế. Cảm tưởng của mẹ do nét mặt Thụ lúc tươi vui lúc đăm chiêu và những câu chuyện sôi nổi vể các nơi xa lạ.
Mẹ đoán mà đúng. Chỉ ngày mai Thụ sẽ đi đường bí mật mới qua châu Văn Uyên vào châu Bắc Sơn rồi về Hà Nội.
Thụ và Mã Hợp ra đi từ trưa. Lại qua Cốc Nam. Vẫn phải qua nhà lão xã đoàn đòi rượu năm ấy. Thoắt mà đã bảy năm qua. Nhưng lần này hai người không đi tránh lối ngõ ngoài mà họ qua ngay dưới sàn nhà xã đoàn. Trên nhà cũng nom thấy đầu người đi. Xã đoàn ngồi trên nhà trông ra, thấy hai người, liền gọi to tướng:
- Lên nhà uống nước! Lên nhà uống nước!
Thụ lên nhà. Có người mới biếu ông xã đoàn đấu chè Xuất Vũ - vùng chè ngon nhất Lạng Sơn, nước đậm sánh. Cạn ấm chè rồi Thụ chào:
- Tôi đi nhé.
Xã đoàn tiễn hai người ra đầu thang. Xuống đến đường, Thụ ngước mắt nhìn xa, bỗng nói:
- Chóng nhỉ, mới năm nào...
Bây giờ xã đoàn Cốc Nam đã là người trong tổ chức của ta. Bởi vậy, thằng Tây không còn con mắt cái tay nào ở Cốc Nam nữa. Ngõ Cốc Nam sang Trung Quốc là của cách mệnh rồi.
Hai người rẽ vào lối Pò Chài.
Con đường Pò Chài về Nhân Lý bảy năm trước cũng như năm nay, đi một thôi nữa đã thấy Khau Bây. Sườn đồi, cánh đồng, mùi hồi quấn quýt chảy thơm quanh người. Trong ngày mùa hái hồi, bà con Nùng ở Phố Lẩu lại làm bánh, nấu rượu đem vào bán tận gốc hồi đầu rừng. Rồi cả làng hái hồi, quảy hồi cho lái buôn ra Đồng Mỏ.
Thụ đi trong bóng cây, con mắt trông thấy trong bóng rừng hồi chín xanh đen có người con gái Nùng, khăn vuông chàm đốm chấm huyết dụ, áo ngắn quặp thắt lưng, lai trĩu đôi đãy chàm đựng hồi, qua dưỡi lũng, đằng xa kia.
Người đi đường vừa đi vừa nghĩ đường trở về những tháng giêng, tháng ba thương nhớ, những đêm những ngày hội then mê mải chảy qua các làng. Cây trẩu ngờ ngợ xanh, tre và mai xanh rờn, cây trám đen thân trắng suốt đời dài đuỗn, rừng hồi thì bao giờ cũng nghiêm nghị xanh thẫm. Còn thấy như in cánh đồng Háng Lệ đương chúc thoai thoải xuống, chen vào giữa hai bên rừng núi buồn bã có những con đường vào xóm cứ giạt vào khe núi. Xóm Phạc Lạn, bên phải có đồi trám, dốc núi sau lưng ủ trong rừng xanh ngây ngất như cuộn khói. Phạc Lạn, Phố Lẩu, Bó Lào... trước nhà sàn côi cút ở cột bờ núi. Trong hiên, chuồng gà, chuồng lợn, đến chiều lại nghe táo tác, ủn ỉn - bấy giờ mới có người đi làm về cho ăn. Cái cày treo ngang đầu cột. Con trâu gầm sàn gãi cái lưng bùn vào cột nhà. Bây giờ, dưới ấy đương ra sao?
Trong kỷ niệm con người chỉ muốn đọng vào tháng giêng và tháng ba có màu xanh và tiếng đàn then. Chứ thật thì bây giờ đương cuối tháng bẩy, sắp vào mùa hái hồi. Cánh rừng dàn trước mặt, thơm khắp Khau Bây. Thụ đi trong bóng hương hồi, một niềm vui dìu dịu, lẫn lộn, không hiểu vui từ lâu hay vui mới thoảng đến. Tiếng động trong rừng vắng, nghe cũng đoán được ở đâu, nhưng cũng không muốn biết kỹ.
Đằng kia, tiếng trẻ reo. Chắc ở đầu rừng đương có nhiều hàng quà. Bánh bỏng, kẹo lạc, bánh nếp và nồi rượu bán dưới gốc hồi. Tiếng cành răng rắc gãy. Có người ngã hồi... lại người ngã cành hồi. Thụ lại nhìn thấy đám khiêng người ngã hồi. Năm nào cũng có người ngã lòi xương. Cành hồi thì lúc nào cũng giòn quá.
Nhớ những ghê rợn ấy, bao giờ Thụ cũng nhớ chú Hai ngày trước coi rừng hồi.
Thụ lớn lên đã thấy chú Hai ở Khau Bây. Bọn trẻ con cứ tưởng chú Hai suốt đời một mình sống trên Khau Bây. Đến khi Thụ hiểu không phải như thế, nhưng Thụ cũng không bao giờ cắt nghĩa được tại sao chú Hai người gốc tận Kiến An xa vời lại lưu lạc lên rừng hồi Lạng Sơn. Chú Hai kể chuyện cho trẻ con nghe nhiều đến nỗi không đứa nào nhớ đầu đuôi chỗ nào nữa. Những câu chuyện trôi nổi của đời người nghèo đã đem đám trẻ đi xa, thật xa, mà chú Hai cứ đi một mình, thật là buồn. Chú Hai đã đi làm phu cao su ở Hớn Quảng, lại ra làm thợ mỏ ở Mông Dương và chú còn đi những chân trời góc bế đâu đâu nữa...
Nhưng bây giờ thì chú Hai như cái gốc cây mọc một chỗ, cái gốc cây đau dạ dày, mỗi ngày một cơn quằn quại. Đến thế mà cũng không ở yên. Những năm sau, chú Hai lại đi Bằng Mạc. Vì sao? Thụ cũng không biết. Bây giờ có còn sống mà trông gôc hồi nhà ai? Trong tưởng tượng thời thơ trẻ vẫn nhớ mãi lại một vùng rừng núi rất xa, tên là Bằng Mạc, đến nỗi khi lớn lên Thụ đã tới Bằng Mạc mà tưởng như cái Bằng Mạc chú Hai đến khác, Bằng Mạc này của chú Hai còn xa hơn sở cao su Hớn Quảng, xa hơn cả mỏ Mông Dương. Chú Hai đau ốm mất tích trong hai chữ Bằng Mạc mịt mù.
Nhớ lại, chỉ thấy buồn. Mùi hồi thơm, nhưng thơm tiền thơm bạc cho ai. Năm được mùa, chủ hồi đón phường chèo Bắc Ninh lên. Tiếng hát chèo, tiếng then ê a khóc mếu, đến bây giờ ngẫm nghĩ còn thấy hiu hắt. Trong cái chí hướng đầu tiên sôi nổi hoạt động cách mệnh của Thụ đã cháy bỏng những mong muốn ra đi xoá bỏ nỗi buồn khổ đời người mà Thụ xót xa lạ lùng.
Đã đến cánh rừng trám giữa núi Khau Bây.
Mã Hợp hỏi Thụ:
- Anh Năm có xuống làng không?
Thụ nói:
- Mã Hợp xuống thôi.
Mã Hợp lại hỏi:
- Bây giờ gặp Viết hay gặp ai?
- Viết.
Từ trên núi xuống, Mã Hợp đến thẳng nhà Viết. Viết đương phơi hồi. Trông thấy Mã Hợp, mừng, nói to:
- Ồ, lâu lắm tao mói thấy mặt mày!
Mã Hợp ngồi xuống, nói khẽ:
- Thụ về đấy.
Viết bỗng buồn hẳn, không hiểu sao. Không để ý, Mã Hợp lại nói:
- Lên với Thụ đi.
Viết lặng im. Con mắt mở to, mà rưng rưng, như sắp khóc. Rồi nhẹ nhàng Viết lắc đầu. Mã Hợp nài:
- Thụ muốn bàn công tác...
Viết nói:
- Tao chỉ ở đây gác thôi.
Mã Hợp lên kể lại với Thụ và nói:
- Hồi này mật thám rình nhiều, nó không dám lên, nó bảo thế.
Thụ mỉm cười.
- Nó vẫn không lúc nào quả quyết cả. Thôi được.
Mã Hợp không vào nhà Thụ. Vả lại, Thụ đã dặn không gặp ai thì đừng vào. Loanh quanh đến trưa, mới nhắn được tin cho chị Dụ.
Được tin Thụ về, không ai nói với ai. Nhưng từ lúc ấy, trong nhà cứ khác hẳn đi. Mẹ ở rừng hồi tất tả về. Chồng chị Khai vác nơm ra ao đánh cá. Nhưng được cái hàng xóm tưởng anh ấy đánh cá ăn Tết tháng bẩy. Bếp nhà chị Khai đã nghi ngút. Chị em cứ lặng im, cứ bối rối. Một tình cờ nữa là hôm ấy bố đi vắng.
Mẹ và chị lên Khau Bây.
Thụ đội mũ lưỡi trai, đầu trọc, đi dép cỏ, hai gò má cao vóng lên, mặt thì đen sạm. Mẹ thấy vẻ con khó nhọc, như người buôn ở xa về, không phải người nhà mình mọi khi.
Mẹ khóc:
- Con ơi, bao nhiêu năm nay con đi đâu?
Thụ nói:
- Con đi làm cách mệnh, mẹ ạ.
Mẹ bảo:
- Người ta đi ký ga, đi thầy giáo thì được ngồi bàn ghế, con thì phải nằm rừng, ở hang hốc thế này, con biết không?
- Con có biết. Con còn nhớ ngày trước, mẹ kể cho con nghe chuyện người Nùng Cháo dưới Phô Lẩu trước kia ở Trung Quốc, đến mùa hồi thì đem rượu vào bán. Đến Phố Lẩu ở, không có nhà, những người Nùng, chịu khó nhặt từng viên gạch lót lò ngói của nhà giàu vứt đi, phải để dành hai đời người mới xếp lên được cái tường, người Nùng chịu khó thế, sao người Nùng vẫn khổ...
- Trời làm kém đói thế này thì ai chẳng khổ, cứ đâu người Nùng.
- Mẹ ạ, thằng Tây và vua quan làm ra tất cả mọi tội, không phải trời làm ra tội đâu, trong làng ta, ai cũng mong ước được nuôi nhiều gà vịt, nhiều lợn, trước hiên, có cái cày tốt treo ngang đầu cột. Nhưng đã bao đời nay làng ta chỉ biết làm nhà áp núi, không dám làm nhà ra ở thảnh thơi giữa đồng, để dễ chạy cướp cũng bởi thằng Tây lấy hết của, mới sinh người trộm cướp. Cây hồi trên đồi quang, quả sai như mắc cửi, thế mà người trèo hồi ngã gãy xương, tiếng khóc lúc nào cùng nghe. Chú Hai coi rừng chết ở gốc cây hồi nào bên Bằng Mạc rồi...
- Con đừng nói chuyện buồn nữa.
- Mẹ ơi! Mẹ còn biết nhiều cảnh buồn hơn con nhiều lắm. Ngày trước mẹ kể con nghe bao nhiêu chuyện đói rách trong làng, có khi cả xóm chạy loạn vào hang đá Phố Lẩu rồi chết khô cả trong ấy, con thương con khóc. Bây giò con lớn, con biết thêm rằng người ta phải làm cách mệnh, mong ngày sau ai cũng được ngồi bàn ghế, lau sạch được nước mắt, rửa xong mọi chuyện buồn phiền ở đời.
Mẹ vẫn khóc, Thụ bảo chị Dụ.
- Chị ạ, việc cách mệnh là to lớn như thế đấy, bao giờ cách mệnh thành công thì em về.
Mấy năm nay chị Dụ mới được gặp em. Em bây giờ bước vào cuộc đời xa lạ, chị không nghĩ ra hết được. Như thế, Dụ lại càng nhớ khi em còn đi học, thông cảm với em những chuyện lạ lùng và cao xa của em đương làm, với tấm lòng chị yêu thương.
Dụ nhớ lại. Có lần Dụ quảy gạo ra Kỳ Lừa trả nhà trọ, ông Chắn mách: “Thằng Thụ dạo này cứ đi đâu, không biết chúng nó định tụ tập ăn trộm ăn cướp thế nào. Tao sợ lắm. Mày phải đe nó mới được”. Dụ bảo Thụ. Thụ cười, nói:
- Em đi đọc sách báo thôi. Hồi này trên thế giới nhiều việc quan trọng lắm, đọc sách báo mới biết.
Thụ kể cho Dụ nghe chuyện Phạm Hồng Thái, chuyện ông Phan Chu Trinh cả nước hoan nghênh, cả nước thương tiếc thế nào. Thụ nói hăng hái, tỉ mỉ, như những chuyện ấy mới xảy hôm qua, Thụ đã trông thấy, Thụ đương ở giữa đám, những đám mít tinh, đám truy điệu đông cả tỉnh ở ngav đầu cầu Kỳ Lừa kia. Dụ nghe không thủng đầu đuôi, nhưng Dụ biết đấy không phải những chuyện hư của em như ông Chắn nói. Dụ bảo Thụ:
- Em đừng để ông Chắn phàn nàn
- Vâng ạ.
Lần sau, Dụ quảy gạo ra, không thấy ông Chắn mách. Dụ hỏi em:
- Dạo này em còn đi đọc sách không?
Thụ nói:
- Chị ơi! Sách báo đối với con người cũng cần như cơm ăn, em phải đọc sách báo luôn luôn chứ!
- Em đi đọc sách báo ban ngày à?
- Vẫn ban tối, chị ạ.
Rồi Thụ nheo mắt cười tinh quái, nói khẽ:
- Ông Chắn không phàn nàn gì nữa, phải không chị? Ông Chắn không biết đâu!
Thụ cúi xuống, lôi trong gầm phản ra cho Dụ xem cái chão. Mỗi tối, bài vở đã xong, Thụ buộc chão vào cái lỗ tường hoa trước cửa gác rồi Thụ leo chão xuống hè đường. Ông Chắn vẫn cứ lệ đóng cửa sớm như mọi khi. Đến lúc ấy thì cửa nhà dưới đã kín mít rồi. Khuya, Thụ về, lại bám chão leo lên hiên gác rồi rút chão, cất kỹ, lúc đầu giường, lúc gầm phản. Có lần ông Chắn trông thấy, Thụ bảo cái chão để kéo co, khi tập thể dục. Ông Chắn cũng tưởng thế.
Gặp em, Dụ nhớ ngay chuyện đọc sách báo nghịch ngợm ngàv ấy. Nhớ thế, Dụ thấy em mình vẫn là em mà từng lúc lại thấy em là người khác, nhưng tấm lòng Dụ thì vẫn như chị em thương nhau từ tấm bé.
Dụ hỏi Thụ:
- Bao giờ cậu về?
- Bao giờ cách mệnh thành công thì em về, lúc ấy em xin trả ơn chị trông nom bố mẹ già.
Đêm ấy, Thụ và Mã Hợp ngủ trong rừng hồi. Rừng hồi đêm yên tĩnh loáng thoáng ánh trăng trên cao rơi xuống. Thụ đến ngủ trong gốc cây hồi, chỗ lều chú Hai ngày trước. Thỉnh thoảng, có một quả hồi rơi qua, cũng vương qua mùi thơm bay trong khuya lạnh như ướp. Cẩn thận, từng lúc, một người thức, một người ngủ. Nhưng Thụ không chợp mắt được. Mã Hợp lại ngáy khò khò.
Một mình Thụ giữa đêm thanh vắng trằn trọc với câu chuyện ngắn và buồn ban nãy.
Chặp tối, Mã Hợp xuống công tác dưới làng bên. Lúc ấy, mẹ đã về. Chị Dụ đem cơm lên, cũng đã xuống. Mã Hợp kể lại Thụ nghe về tình hình. Trong ba tổ, chỉ có tổ xóm Háng Lệ còn vững. Thụ muốn hỏi Mã Hợp, nhưng không thấy Mã Hợp đả động đến, lại thôi. Không biết Mã Hợp đã gặp Mảy chưa.
Lúc hai người ăn cơm xong, Mã Hợp nói:
- Cả nhà nó đem nhau đi Thái Nguyên rồi. Từ mùa hồi năm ngoái.
- Có biết ở vùng nào dưới Thái Nguyên không?
- Hình như Đại Từ.
Đại Từ, chỗ Nhất ở. Nhưng cả huyện Đại Từ trập trùng xanh kia. Im lặng.
Một lát, Thụ hỏi Mã Hợp:
- Chỗ đương sáng trăng trước mặt chúng mình dưới kia là cánh đồng Háng Lệ hay Bó Lào nhỉ?
- Tôi không biết.
- Có lẽ đấy là bên đồng Bó Lào(1). Màu mỡ thế mà con người không kiếm ra miếng, phải đi bới đất lật cỏ những đâu.
Lặng im.
Thế là tan đời người. Những nhà Nùng Cháo bao giờ ở đâu cũng biết chịu vất vả, có thói quen ngủ sớm dậy sớm và cũng nghèo đến có thói quen suốt đời chỉ bữa cơm bữa cháo.
Thụ trông ra giọt sương lóng lánh ướt trên cánh quả hồi rụng trong ánh trăng.
Một lúc, Thụ hỏi:
- Mã Hợp thức không?
- Thức.
Thụ không ngờ có câu trả lời ấy. Thì ra vừa rồi Mã Hợp vừa thức vừa ngáy. Tiếng người vang trong vắng lặng quá đỗi. Có lẽ vì trăng sáng khó giấc say. Trăng sáng quá cũng khó ngủ.
Thụ bảo:
- Còn thức thì tập hát nào. Mã Hợp học lại bài Sli này. Tôi hát trước nhé.
- Hát nào.
Gửi thư đi, bảo bạn
Ở đời nhiều nỗi buồn
Chuyện xa xôi không hiểu
Nói chuyện Việt Nam mình
... Việt Nam đất rộng
Ai không tin, đi Bắc Giang xem
Bắc Giang ruộng thẳng băng
Bên phải xuống Sơn Tây
Bên trái về Lạng Sơn
Trước mặt sang Thái Nguyên
- Mã Hợp này, đi dài hơn hai nghìn cây số vẫn là nước ta. Thái Nguyên chưa xa mấy đâu. Ừ, Thái Nguyên không xa. Mã Hợp hát lại đoạn này:
... Địa chủ ác thật
Đá chị Lầm chết lúc có mang
Nhìn cao không thấy trời
Giơ tay không với đến chốn
Người nghèo làm sao không cứu được
Chính thằng Tây cướp nước ta
- Nghĩ đời người như thế có đáng thương không. Mã Hợp nhớ áp Tết năm ấy, cũng ở Khau Bây này, anh em ta cầm tiền của Mảy cho đem về đưa mẹ sắm Tết... Tôi mua ba đồng pháo... Chóng quá. Mã Hợp à... Mã Hợp hát lại nhé... Khi nào hát đến đoạn này là đoạn cách mệnh tranh đấu đương thành công thì ta phải thật phấn khởi, thật hăng hái, ta hát to, hát đi hát lại nhiều lần. Lúc ấy có đông người cùng hát đều thì càng hay.
Khắp nơi ta tổ chức
Lời nói lên cùng một đường
- Hát lại đoạn này nhé:
Tới ngày cách mệnh thành công
Việt Nam được thế giới biết tiếng
Trai gái bình quyền, bình đẳng
Làm ăn ta hỏi nhau
Làm “quan” không kể người to nhỏ
Giàu nghèo ngồi ngang hàng(2)
Bên kia núi, con tắc kè tháng bẩy kêu muộn. Tiếng nó khe khẽ rơi lạc đâu đó, vừa dứt thì trời sáng. Sương chảy cuồn cuộn trong rừng hồi. Những chỏm cây hồi xanh sẫm lô xô chọc lên trên làn sương trắng ngần.
Thụ và Mã Hợp bàn luôn công tác ngày hôm ấy. Thụ không để mình một phút nghĩ vẩn vơ. Công việc hôm nay túi bụi tràn ngập: củng cố các tổ xóm Bó Lào, Phố Lẩu. Làm thế nào cho Viết cứng cáp hơn. Rồi chập tối hôm sau, Thụ và Mã Hợp rời Nhân Lý.
Vảy trăng lưõi liềm vừa khuất xuống bên kia, hang sáng lên, khiến cho những mỏm đồi đen thẫm như duỗi dài thêm ra trên nền trời lặng mờ.
Hai người đi qua trước Phạc Lạng xuống cánh đồng.
Chẳng mấy chốc, Thụ thấy chân mình đương bước chỗ ngã ba xóm nhà mình ra Phố Lẩu. Như trông thấy cái tường trường Đon Đình trăng sáng trăng trắng đằng kia. Lúc ấy đã vắng. Giờ này, ai cũng ở trong nhà. Trên xóm, nhà mình đã cài gióng cửa. Bây giờ, mẹ đương đứng nhìn xuống cánh đồng đây. Nhà chị Khai cũng cài gióng cửa. Nhà chị Dụ bên Cò Noong cũng cài gióng cửa. Cái bếp ở vách trong nhà nào cũng bập bềnh lửa. Những đãy hồi hái về, chất đầy góc nhà, thơm phức. Mẹ mình đương... trong ánh lửa, tưởng có bóng người bước vào. Nhưng không.
Thụ cũng không nghĩ thêm. Cánh đồng Bó Lào lạnh ngắt. Có hai người đi qua.
Họ lên đến dốc Kéo Sa thì tối hẳn.
Chợt lố nhố một bọn từ trên dốc lại.
Có tiếng quát:
- Đi đâu tối thế, các người kia!
Đường này sang Điềm He, Mã Hợp đã thuộc làu trong trí, những khi đi vá chảo làm công tác. Mã Hợp đoán nhanh: nó quát hỏi cách dài dòng thế, không phải lính, lập tức Mã Hợp sấn lên quát to hơn:
- Đi đâu? Chúng mày đi đâu?
Hai bên giáp mặt nhau. Mã Hợp cười hề hề nói theo:
- Đằng này đi đòi tiền rượu, các người anh em không biết à?
Ba cái bóng nọ im thít lẳng lặng lướt qua được một đỗi xa, Mã Hợp nói:
- Bọn này đi trộm trâu ở Phố Lẩu, biết nhau cả!
Đằng sau, Nhân Lý vào sương mù. Xa rồi, Thụ lẳng lặng đi qua Keng Vài, sắp xuống bờ sông Kỳ Cùng. Trời đã hơi hửng sáng trăng. Một lúc nữa đã có trăng. Đêm lơ lửng trăng như đêm nay, đi suốt sáng được. Hai người đã định thế.
Nhưng có một việc mà họ không biết trước. Vừa khỏi bụi cây, trông ra thấy nước Kỳ Cùng mênh mang, hai người giật mình. Những con lũ ngoi lên ngồn ngộn trong ánh trăng trắng mờ cả lùm cây trước mặt. Mưa nguồn tận đâu đâu dồn về. Giữa tháng bảy mà còn nước lũ cuối to thế.
Mã Hợp chép miệng:
- Nưóc to quá, anh Năm à.
Đứng ngẩn một lát, Mã Hợp nói:
- Hay ta quay về Khau Bây đợi nước rút.
- Không.
- Cỏ trên bờ còn khô lắm, nước còn lên nữa, chẳng nhẽ cứ đứng chôn chân đây đến sáng a?
Thụ nói:
- Ta tìm cách.
Cách nào. Những con lũ lặng lẽ nhưng thâm hiểm đầy sức mạnh ngầm có thể vần đi được cả tảng đá bằng gian nhà. Người xuống va vào lũ thì mất tăm ngay.
Hai người đi men suối. Một quãng, gặp bụi mai. Trông thấy những ngọn mai vút cong trên nền trời, Mã Hợp nghĩ ra một cách. Mã Hợp bảo Thụ:
- Anh đứng đợi đây nhé.
Mã Hợp rút dao lưng, lách vào bụi. Chọn cây mai non, mẩy, Mã Hợp khoanh dao thiến vào. Chỉ ấn lưỡi dao, không một tiếng động nhỏ. Độc có con dế vừa cất giọng nỉ non trong vắt ngâm giữa làn cỏ mới ngập nước. Mã Hợp đã róc hết đầu mấu, một chốc, lôi ra bốn cây mai mà vừa trông Thụ đã thấy ra đấy là bốn chiếc phao dài hơn cây nứa ngộ.
Thụ reo lên:
- À!
Mã Hợp nói:
- Có thế vượt được đây.
Thế là, cởi quần áo buộc lên đầu, mỗi người ôm hai cây mai, họ lựa người rồi lướt ra. Bờ chỗ ấy phẳng. Nước cuốn người băng đi một đỗi xa, phải vứt bớt đi một cây mai mới vùng vẫy dạt sang bờ bên kia được.
Đã hẹn nhau, họ giả ếch nằm bọng kêu đối đáp vọng trên mặt nước. Nghe tiếng ếch cách nhau có đến hơn ki-lô-mét.
Chỗ ấy, sau lưng Bản Thẳm. Trông vào xóm Bản Thẳm thấy còn ánh lửa bếp leo lét. Tiếng nói chuyện văng vẳng đâu trong vách. Đằng cuối dòng sông ánh nưóc đã ửng hẳn. Rồi bóng nước lồng lộng ánh trăng, trông mặt nước ấy thật hiền mà hóa ra dữ.
Bị nước quật đau khắp mình mẩy, hai người phải ngồi nghỉ một lúc rồi mới đứng lên đi.
Họ đi qua những vùng núi đất quanh Bình Gia lúp xúp có túp nhà sàn lẻ loi trên ngọn đồi nhỏ. Đôi chỗ vẫn còn thoi thóp lửa. Rồi họ đi qua bên những trái núi đá đen kịt tròn xoe ngồi chồm chỗm. Trên đỉnh, một cây nghiến kiên cường sống trong đá vút cao thẳng vào một trời sao rợn sáng. Từng hàng núi nhấp nhô, tưởng như những bức tường trắng. Nhưng núi cứ chụp kín, người vẫn lọt qua. Đây đã tới đèo Tam Canh.
Bấy giờ quãng nửa đêm. Những con thú dữ nhất ở rừng thật sâu ra ăn vào giờ này. Đi một quãng, nghe tiếng hổ kêu hộc... hộc... lập tức, ngay trước mặt, thấy ào cơn gió trên ngọn lau, một cái lườn dài mờ mờ lướt qua như ai tung tấm vải chàm.
Hai người đứng sững.
Mã Hợp nói:
- Lượn chơi thế thôi, chứ nó việc nó, ta việc ta, chẳng ai làm gì nhau đâu.
Lên lưng dốc, lại đụng một con hổ nữa. Trong ánh trăng lần này trông rõ cái đầu hổ tròn to bằng chiếc nón. Đuôi dài cong, con hổ đứng sững nhìn lại rồi thủng thĩnh trước mặt hai người một lúc mới chịu rẽ ngang.
Xuống đầu dốc bên này, đã nghe vẳng lại tiếng gà làng Quỳnh Sơn gáy đổ trống canh. Đến đây trong phễu đá, đã hình dung được làng xóm châu Bắc Sơn, từ Long Đống đổ vào, chi chít bám quanh những quả núi đá trong bóng tối.
Xưa kia, đồn Mỏ Nhài trên châu lỵ, ngọn đèn chòi gác của người lính cơ sáng trắng bệch lơ lửng giữa cánh đồng Hưng Vũ. Tiếng mõ đốc canh lốc cốc. Xem ra cái đồn đêm canh ảm đạm như thằng người chết đứng mở mắt.
Thụ bảo Mã Hợp:
- Đên đây thì hết nhiệm vụ đưa anh, em trở lại được rồi. Ừ nhỉ, đường này, gần lắm. Mã Hợp nhớ nhé!
Nói thế, Thụ cũng chưa đi mà Mã Hợp vẫn đứng đấy. Mấy năm nay, Mã Hợp cùng đi với Thụ, nhiều lần đã chia tay giữa đường, nhưng lần này sao quvến luyến khác thường. Mã Hợp cũng cảm thấy lần này chắc anh Năm đi xa lắm. Sương khuya rờn rợn trong ánh trăng. Lưng đèo Tam Canh im phắc giữa hai thành núi đá. Trong bước đường hoạt động, Thụ đã đi khỏi biên giới nhiều lần, sang Long Châu, Nam Ninh, đến Ma Cao, Hồng Kông rồi. Nhưng lần này, Thụ cũng thấy lòng bồi hồi. Vì nỗi đau của đêm qua không chợp mắt, vì những ngày sắp tới Thụ được tiến hành cuộc vận động cách mạng ở giữa trái tim của cả nước, rất mới lạ đối với Thụ nhưng cũng hấp dẫn vô cùng.
Thụ bảo Mã Hợp:
- Bây giờ cả nước sắp sửa bước vào cuộc tranh đấu to lớn và quyết định, Mã Hợp ạ. Thằng Tây có doạ nạt thế nào, có giết bao nhiêu người, thì thằng Tây cũng không sức đâu ngăn được ngày cách mệnh thành công. Trong cuộc tranh đấu này, những con đường giáp biên giới cũng quan trọng như vận mệnh của Đảng, những con đường ra biên giới, các đồng chí phải giữ cẩn thận cho Đảng.
Thụ nói tiếp:
- Có nhớ lần vắng ba năm rồi anh em ta gặp lại nhau ở Long Châu không? Chuyến này cũng thế, rồi anh em ta lại gặp nhau.
Mã Hợp vịn vai Thụ nói:
- Người ta bảo nó về Đại Từ. Hay là anh Năm tiện đường cứ xuống qua Thái Nguyên thử tìm xem.
Thụ ôm hai tay lên vai Mã Hợp:
- Rồi anh em ta lại gặp nhau. Không phải đến Long Châu mới gặp được nhau mà chúng ta sẽ gặp nhau ở Hà Nội, và có khi ở Sài Gòn cũng nên.
Mã Hợp quay về, chạy một hơi tới bờ sông Kỳ Cùng.
Lại vác cây mai lúc nãy lội ào xuống con lũ.
Đến Khơ Đa, Mã Hợp rẽ vào. Hán Pang dậy sớm đã lập loè bếp đun nước. Mã Hợp thì thào: “Anh Năm về xuôi rồi”. Anh Năm về xuôi! Hai người tưởng tượng cách mệnh như con gió nam lớn, theo bước chân anh Năm, đương bồng bột tràn khắp miền xuôi, khắp cả nước, đâu cũng có cách mệnh, đâu cũng có cách mệnh rồi.
Mã Hợp ở lại đấy, chặp tối mới xin đuốc về Lũng Nghìu.
Quãng ấy lại có một con hổ ở đâu ra ăn sớm quá, cứ đuối theo tàn đuốc của Mã Hợp. Đến đầu xóm Lũng Nghìu, Mã Hợp chợt quay lại, đâm cả bó đuốc vào mặt nó. Con hổ chạy, người cũng vùng chạy. Lúc ấy, trăng vừa hẩng sáng như đêm trước, khi anh em từ Nhân Lý ra đi.
Xế chiều, Thụ vào đến Vũ Lăng.
Phía trưóc mặt, xóm Bò Tát đỏ háy hoa lau trong nắng muộn. Thụ đeo cái đãy chàm, đi giày cỏ - như người khách họ nội bên Long Châu vẫn thường sang chơi các nhà Nùng ở Bò Tát.
Thụ không đi thẳng vào xóm. Thụ quanh qua cái nương ngô của nhà Thông bên kia suối. Lại như tháng bảy, năm ngoái, nhiều nắng quá, cây ngô gãy như cây lau, lá héo táp vàng cả.
Ở cuối cái nương ấy có một cây gỗ chò chỉ to mấy người ôm, đứng vặn mình cao ngất. Trên thân cây có cái lỗ trống hôc. Dạo trước, khi đi, đã có hẹn với Thông để trên gốc cây hai hòn cuội to. Khi trở lại, thấy nguyên hai hòn cuội ấy là trong xóm bình thường, vào được. Nếu thấy mất cuội thì đừng vào.
Thụ đến trước cây chò chỉ, Thụ đặt túi ngồi xuống, như người nghỉ chân. Trông xung quanh không thấy ai, Thụ trèo lên lưng cây. Trai Văn Uyên giỏi trèo hồi, Thụ bám cây, leo thoăn thoắt như con tắc kè đuổi mồi. Thụ nghển nhìn vào trong hốc. Hai hòn cuội xám tròn trặn nằm im trong rêu xanh đen như toé ra một nỗi mừng.
Thụ xuống xách túi, toan đi. Giữa lúc ấy, sau quả núi đá trước mặt có tiếng nói lao xao đưa lại. Một đám người đương đi về phía đằng này, nhưng họ còn khuất mép núi, chưa trông thấy. Như vậy, trong xóm yên lành như lúc Thụ ở, không đáng ngại, Thụ cũng tần ngần đứng lại. Vả lại, dù đi cũng chỉ vài bước lên thì đám người đã ló ra. Tiếng lao xao đã gần, nghe được cả bước chân huỳnh huỵch. Đám người khiêng cái gì.
Đám người vừa nhô đến, Thụ nhận ra ngay đấy là Thông, Khai Lạc và xúm xít cả mấy đồng chí nữa. Toàn các đảng viên cả. Họ khiêng một con hổ đã chết.
Hãy còn trông thấy mũi tên cắm xuyên phía tai xuống, máu còn chảy, thỉnh thoảng nhỏ một giọt to xuống bậc đá.
Cây mai tươi làm đòn ống trĩu cong. Đầu và cái đuôi dài đều ngật quệt xuống phía đất, con hổ này nặng có vài tạ. Con hổ mắc bẫy. Xóm Bò Tát ở giữa rừng xanh và cỏ lau, người ở lẫn với hổ, quanh năm, lúc nào cũng luẩn quẩn thấy những hổ là hổ.
Thông ngẩng mặt trông thấy Thụ. Thông reo to:
- A kìa anh Vân!
Rồi cả bọn quẳng con hổ xuống đất. Vừa hay, họ đã đến gốc cây chò chỉ. Thụ nói:
- May quá, mình vừa đến đã được ăn thịt hổ.
- Ừ nhỉ, chúng tôi biết anh đến nên bẫy hổ mừng anh đây. Hổ ra ăn ban ngày đấy, ghê không. Vùng này loạn rừng hay sao, hổ về nhiều lắm. Anh Vân à, tháng tám năm ngoái họp chi bộ đầu tiên, chúng mình bẫy được con hổ, năm nay anh Vân về, lại được con hổ nữa.
Thụ cười:
- Đánh hổ cũng là tập đánh thằng Tây đấy.
Khai Lạc nhanh nhẹn, hấp tấp:
- Anh Vân à, đúng đấy, chúng mình đánh con hổ này cũng giống đánh thằng Tây. Dạo đầu năm, Thông bàn cách nào nghĩ ra kế gây quỹ cho Đảng. Nung vôi, đóng gạch, kiếm củi, làm các thứ ấy cũng được cả, nhưng sau thấy chỉ có bẫy hổ tiện nhất, bí mật, không mất công mấy mà được thì được to. Cái da, cái xương đều bán ra tiền. Được con hổ này là con thứ ba. Thế là đánh hổ cũng bằng đánh Tây rồi. Chỉ khác cái thằng Tây chết thì xác nó thối ra, chẳng được xu chó nào.
Thụ cười khà khà thật to:
- Thế là chúng mình bắt con hổ phục vụ cách mệnh. Các đồng chí ạ, trong cả nước chỉ có chi bộ Đảng ta ở Bắc Sơn là có cái quỹ dữ dội nhất đấy.
Mọi người vào trong xóm. Thụ cùng đi với cả chi bộ đương khiêng một con hổ. Mà Khai Lạc nói cũng đúng. Bắt được con hổ ác không phải dễ. Công phu bẫy lại phải bắn cho nó chết.
Cũng khó như tổ chức tranh đấu đánh đổ thằng Tây. Bắn được nó chết rồi mới khiêng nổi nó đi thế kia.
Đánh hổ cũng giống đánh thằng Tây, câu ví hình ảnh mộc mạc của Khai Lạc mà thật sâu sắc. Đi đường cùng chi bộ khiêng con hổ về xóm Bò Tát, Thụ bột nhiên cảm thấy như đang đi trên con đường cách mệnh giữa tình đồng chí chiến đấu, đương dâng lên trong mọi người và tràn khắp xóm Bò Tát, lan cả làng Vũ Lăng, cả châu Bắc Sơn, suốt tối những xóm bãi nghèo trên bờ sông Hồng ở Hà Nội rồi đi cả nước.
Hôm sau, Thông và các đồng chí tìm quần áo khác thay cho Thụ.
Thụ chít khăn lượt vố, mặc tấm áo chàm cũ đã bạc hai vai. Lại quảy một gánh nâu, có cái ô cũ buộc dọc theo đòn gánh. Như anh trai nhà nghèo, ở một làng cuối châu, về chợ tỉnh, tuy phải gồng gánh nặng nhưng cũng cố gắng cho có mẽ trai xuân một đôi chút.
Thông và Khai Lạc đưa Thụ đi tắt rừng xuống Tràng Xá. Thế là Đảng đã mở tới châu Vũ Nhai. Thụ và hai đồng chí đi với khí thế của người cách mệnh từ rừng núi toả xuống chắp mối với đồng bằng. Bấy giờ là mùa thu năm một nghìn chín trăm ba mươi nhăm (1935).
1970
HẾT
Chú thích:
(1) Bó Lào, tiếng Tày: vùng mỡ
(2) Bài hát Nùng của đồng chí Hoàng Văn Thụ (Ty Văn hóa Lạng Sơn sưu tầm). Mã Thế Vinh dịch.