- VII -
Địch cứ nghe ngóng và khủng bố, phong trào cứ lan rộng và đã xuống đến châu Ôn. Ở Quang Lang, cửa ngõ Chi Lăng đã có tổ. Các bà các chị trong làng cũng nhiều người biết cách mệnh, ở Khơ Lếch, ở Vĩnh Cốt, các chị đi giao thông. Chị Máo đấy, một tay nải truyền đơn này mà đem về rải xuống tận chợ Bãi. Chị Khó thì đưa cơm lên tiếp tế cho anh em họp trên hang Áng Cúm. Chập tối, chị đã vào đặt truyền đơn trước cửa đồn Đồng Đăng. Lính quát hỏi, bảo đi tìm trâu lạc. Hôm sau thì thấy truyền đơn vào tận nhà ăn.
Bọn Pháp tận Hà Nội cũng lo cuống. Một cánh mật thám Đăng Vít ở Lạng Sơn như mọi khi không đủ. Thế là thêm nhiều mật thám Hà Nội lên, bên Cao Bằng sang. Đêm ngày chúng xua quan châu, tổng đoàn xuống xã. Bỏ tiền, bỏ chức tước ra mua người làm chó săn thả đi ngấp nghé khắp các nơi. Mật thám tỉnh về đặt bàn giấy ngồi đôn đốc việc tận châu.
Ở Điềm He, phó tổng Liến đánh hơi thấy có cách mệnh về, nó ra xin đi bắt cách mệnh. Đăng Vít nói: “Này ông phó tổng, ông lấy được đầu Hoàng Văn Thụ thì quan cho con ông chân châu uý Điềm He”. Phó tổng Liến hỏi lại: “Bẩm quan, nộp đầu Lương Văn Chi có được không?”. Đăng Vít gật.
Phong trào đã bắt rễ đến Điềrn He thật.
Một hôm, hương sư Noãn đánh cá, làm rượu mời Tính đến đánh chén. Trong làng, Tính và Noãn, hai người có chút chữ nghĩa, thường chơi với nhau. Tính mới ra tranh trượt chân hương sư, bây giờ sắp phải đi Đồng Mỏ học thợ may. Nhưng còn trù trừ, vẫn ngóp được làm thầy giáo. Làm thầy giáo hơn ngồi lò khâu.
Rượu vào, hương sư Noãn nói:
- Tôi sẽ xoay cho anh. Năm kia tôi ra hương sư cũng phải lót tay các quan thế. Cốt biết đường chạy thôi.
Tính thở khà, nói:
- Tôi cần gì!
- Không nên bực chí. Cũng như ta ra đánh đố chữ ở Đồng Mỏ, thua chữ này, đặt chữ khác.
Tính trợn mắt:
- Không phải tôi bực chí. Mà tôi cũng chẳng cần cái hương sư đâu. Xã hội loài người bây giờ có những chuyện to lớn, thế giới lung tung lắm rồi, anh không biết ư?
Hương sư Noãn rụt rè, nghênh một bên tai:
- Tôi chẳng biết gì cả.
Tính càng làm ra vẻ hiểu biết:
- Giời ơi, thế thì anh chẳng biết cái gì cả thật đấy. Thằng Tây, thằng quan ở Lạng Sơn bây giờ không còn là to nhất đâu, nó như con cá chúng mình đương nhắm này, lúc nãy cá dưới ao bây giờ cá đã nằm trong chảo. Cách mệnh nổi khắp nơi rồi.
Càng nói thì Tính càng thấy là hương sư Noãn thật dốt. Thế mà nó lại hơn mình, nó lại đương có thế lực và định chạy việc cho mình khỏi đi lò khâu ở Đồng Mỏ! Lúc này, Tính cao hứng thấy thật là thương một con người như Noãn, xưa nay chỉ biết đến việc ra Đồng Mỏ ăn bát phở chua của nhà Tài Dẻo mà đã rối rít khen ngon rồi, ngày ngày nó chít khăn, đến lớp, nó gõ thước cạch cạch doạ trẻ con, nó chẳng còn trông thấy trời đất dọc ngang thế nào nữa, so với Tính, trí óc của Noãn chỉ bằng cái mắt con muỗi. Tính thấy thật như thế. Noãn chỉ biết co dúm lại gật gưỡng khen: “Giỏi quá, giỏi quá”, nghe Tính nói rồi lại cầm chai rượu, mở to đôi mắt thán phục, hỏi “thế ư? thế ư?” luôn miệng rồi cúi xuống rót rượu cho Tính. Anh hương sư Noãn khúm núm, như nghe Tính giảng dạy. Thế ra mình giảng dạy cho nó đến đâu thì nó mới biết đến đấy, cao hứng quá. Tính rút trong cái thắt lưng ra tờ truyền đơn gấp tư.
Noãn kêu khe khẽ:
- Trời ơi, từ nãy em tưởng anh nói thế chứ thật anh cũng là cách mệnh ư?
Tính vừa khoái chí vừa rùng mình nói:
- Bí mật đấy.
- Anh cho tôi theo cách mệnh với...
Nghe thế, Tính hết cái chợt hoảng vừa đến. Thế là Tính đã rủ được Noãn vào tổ chức. Noãn là người tốt, giác ngộ nhanh. Tính lại hăng hái trở lại như lúc nãy. Tính “hứ” một cái, rồi thì thào ghé tai Noãn.
Tính kể cho Noãn nghe rằng cả vùng Khe Lếch và Vĩnh Cốt này đã vào cách mệnh cả. Đàn bà mà dám đeo tay nải truyền đơn đi rải tận chợ Bãi. Lại đưa cơm lên hang Áng Cúm cho cách mệnh. Ghê nhất, có chị phụ nữ ở Khơ Đa, xông vào ném truyền đơn trong đồn Đồng Đăng, gặp lính chị giơ súng, lính chịu. Chị hô hào lính đánh Tây rồi ung dung đi ra. Ghê không.
Ít lâu sau.
Khắp châu Văn Uyên, châu Ôn, châu Điềm He, huyện Tràng Định, cả Lạng Sơn, cả bên Cao Bằng, có nhiều người bị bắt. Mật thám đem hòm điện về tra người bị bắt ngay tại làng. Rồi người bị bắt nhiều quá. Chúng đem về, đóng thành cũi, nhốt ra cả các cầu chợ Kỳ Lừa giữa tỉnh.
Ban ngày mà trời tối tăm lại. Bọn chó săn len lỏi, chui rúc được nhiều nơi, sang cả Hạ Đống, vào lớp huấn luyện chính trị. Một lần, suýt nữa thì Mã Hợp cũng bị sa lưới.
Giữa tháng tám, còn rốn làm xong một lớp nữa, Phong mới ra Hồng Kông có công tác. Lớp này tám người dự. Sau đó, ba người ở Lạng Sơn trở lại địa phương, có người thoát ly đi gây cơ sở.
Phong giao Mã Hợp đưa Mạo về công tác châu Bằng Mạc.
Địch vẫn đương khủng bố khắp nơi.
Xuống Bằng Mạc, đi đến trưa thì tới xóm Háng Pài. Hai người vào nghỉ trưa ở đấy. Vừa bước lên nhà, gặp người trong nhà ra, chủ nhà chào rồi đi thẳng.
Thấy đáng nghi, Mã Hợp nháy Mạo:
- Đi xóm khác thôi.
- Không sao đâu. Đói rồi, ở đây vậy.
Mã Hợp không nghe:
- Tao xem vẻ không tốt đâu.
Mạo dỗ Mã Hợp:
- Ăn đã.
Mã Hợp cứ thấy bồn chồn. Để Mạo thổi cơm, một lúc, Mã Hợp ra ngoài, lên đồi sau nhà, nhìn ra phía đầu xóm trước mặt. Bỗng nghe lối vào xóm có tiếng chó sủa. Tiếng sủa ông ổng như chó lài, không phải giống chó nhà. Mã Hợp hốt hoảng xộc xuống, bảo Mạo:
- Lính vào!
- Mặc kệ lính! Hăy ăn đã.
Thấy thế, Mã Hợp lại phốc ngay lên đồi. Trông xuống đã thấy áo lính vàng rộm đầu xóm. Mã Hợp lẩn vào rừng, vừa chạy vừa chửi: “Cái thằng Mạo đi mật thám, làm bẫy bắt cả mình mà cách mệnh không biết, định cho nó làm cán bộ, chết thôi!”.
Tháng sau, Mã Hợp sang chợ Đồng Đăng bán củi. Nhác trông ai như Mạo. Nó mặc áo đội xếp màu dạ cứt ngựa có bốn túi, thắt lưng da, đội mũ, đi giày vàng có cổ. Trước còn ngờ ngợ, đến lúc cố theo nhìn lên mặt thì là Mạo thật.
Từ hôm ấy, cứ thoáng thấy lính lại phải chạy. Năm trước, nói dối thằng Đăng Vít là từ thuở bé cứ thấy lính thì chạy, bây giờ hóa thật. Nhưng đằng nào thì cũng phải xuống Đồng Đăng bán củi có thằng Mạo làm đội xếp cạnh chợ. Không lẩn đi đâu được. Thế nào cũng có hôm phải gặp.
Một hôm, Mạo thấy Mã Hợp trước, nó gọi hỏi to:
- Có nhớ tao không?
Mã Hợp nghĩ: À tao nhớ mày rồi, mày là đứa phản trắc, bây giờ mày làm nghề đánh người ăn tiền của thằng đội Năm ngày trước ở Kỳ Lừa chứ gì.
Nghĩ thế, nhưng Mã Hợp chỉ rì rầm nói:
- Ông đội Mạo, tôi có nhớ... ông đội Mạo...
- Có sợ ông đội Mạo không?
Đột nhiên Mã Hợp sừng sộ:
- Mày làm chuyện hèn thế, ai mà sợ! Hôm ấy biết trước rồi chứ gì! Thế mà không bảo tao.
Mạo lúng túng cãi:
- Ai biết. Đến lúc nó vây quanh nhà rồi thì còn chạy đâu! A này có nhiều đồng chí hay qua Lũng Nghìu không? Anh Vương “cao” đã về Hạ Đống chưa?
- Không đứa nào dám về nhà tao nữa rồi. Tại mày đấy.
- Sao thế?
- Cách mệnh ngờ tao đi mật thám với mày.
Mạo nói:
- À, tao nghĩ đi cách mệnh có được xu nào đâu mà thằng Tây tóm được thì chết, tội gì theo đuổi mãi.
Mã Hợp không dám cãi câu phàn nàn ấy. Mạo rủ Mã Hợp về nhà uống nước. Sợ nó làm mẹo bắt. Nhưng nhìn quanh, không cách nào lủi, đành theo. Mã Hợp dựng bó củi ngoài vách. Nó bảo vác vào bán cho vợ nó. Mã Hợp đem củi xuống bếp rồi bước lên nhà, đi qua cái vải hoa đẹp che cửa gió phất phất.
Cái bàn cái ghế mới màu gụ, bàn ghế này của thợ khéo tận dưới Đồng Mỏ lên đóng.
Mạo chép miệng:
- Những điều anh Vương “cao” dạy tao ở bên Hạ Đống, tao càng nghĩ càng thấy đúng, không một câu nào bỏ đi được. Tao gặp anh Vương “cao” bây giờ thì tao vẫn phải chào anh ấy như chào thầy giáo mình thôi. Nhưng tao chỉ nghĩ thấy làm cách mệnh thì khó tao không làm được nên phải về đi đội xếp kiếm ăn vậy.
Mã Hợp nghĩ: “Mồm mày như cái sẹo trâu, đút lỗ mũi nào cũng được. Đểu quá”. Rồi Mã Hợp cứ vờ cằn nhằn:
- Mày giết tao từ hôm ấy. Tại mày chạy cho nên cách mệnh nghi tao, thế nào rồi nó cũng về giết tao. Mà mày đi báo Tây thì tao cũng chết. Đằng nào tao cũng chết, khổ thân tao.
- Tao nghĩ tình, tao tha tội cho mày rồi chứ không có lúc nãy ông xách cổ mày lên đồn Đồng Đăng thì còn gần hơn đi về đây. Thôi im đi!
Mã Hợp cứ lẩm nhẩm:
- Đằng nào thì rồi tao cũng chết thôi.
- Không sợ. Hôm nào tao sang Lũng Nghìu rủ mày đi Bằng Tường mua cái xoong, mày đi với tao nhé. Tao tha tội cho mày rồi, đừng sợ. Từ giờ tao chơi với mày, mày nghe tao bảo, thì rồi mày cũng được sung sướng, tao bảo thật.
Lúc ấy, vợ Mạo ra tưởng nó ra chào mình, hóa ra nó bước đến, chống một tay lên mạng sườn, mắng:
- Thằng Mán rừng bán củi kia! Ngồi bẩn ghế nhà tao, cút ngay!
Mã Hợp nghĩ đau trong bụng. Thế mà phải đứng dậy, bước ra. Vừa đi vừa nói một mình: “Ông tha cho mày thì có, không có cách mệnh thì ông giết chết tươi cả hai vợ chồng mày hôm nay rồi”.
Đến hôm gặp Thụ, Mã Hợp bảo:
- Thằng Mạo này mới làm mật thám, chưa biết nghề. Phải tay thằng mũi lõ Đăng Vít thì nó đã đem cái sổ to ra hỏi ảnh, hỏi chữ. Tức thật, mình biết chữ rồi mà nó không biết hỏi!
Thụ cũng phải phì cười. Nhưng Mã Hợp thở dài nói tiếp:
- Dạo này đứt môi cả các châu, bị bắt nhiều quá.
Thụ nói:
- Chỉ có một thằng Mạo, một thằng Noãn cam lòng làm chó thế thôi. Không đáng lo, Mã Hợp ạ. Một người không tốt, nhưng ta có trăm người tốt. Sự thật như thế đấy. Hôm nay chúng mình ăn cơm sớm, rồi sang Khơ Đa. Đêm nay, chúng ta làm lễ truy điệu đồng chí Sảo Kinh, rồi các tổ bên Khơ Đa đi đấu tranh cho thằng Tây biết, cách mệnh đã nổi lên rồi, không bao giờ nó vật nổi cách mệnh đâu.
Sáng đã lâu. Nhưng từ xóm Khơ Đa xuống cầu Tà Lài còn sương toả mù mịt. Những đám khói đốt sưởi đêm qua đọng lại, thành làn sương đặc quyện từ mặt suối Lũng Lừ lên các lán phu làm đường ở ven chân núi.
Tháng bảy “lá ngô héo, người già chết”, u uất, nặng, người đi xa càng nhớ nhà. Hôm kia, hôm qua đều có đám ma phu Bắc Giang chết.
Dọc đường lên Nà Sầm, quãng Tà Lài, chỗ có hầm xe hoả, các lán của phu làm đường tụ lại đấy. Ngày mai vẫn làm đây hay đi Bản Dạt, lên Nam Quan. Ai biết. Lại làm hầm hay làm đường. Không biết. Phu các châu phải đi dòng ba bốn tháng liền rồi.
Chiều hôm qua, có phu mới đến. Tiếng xì xào hỏi người châu nào, người châu nào, nhưng không ai biết. Có thay phu cho về không, không ai biết nốt. Cả mấy trăm phu mộ dưới xuôi lên cũng liên miên rải ra mặt đường hàng năm nay, ăn ngủ cứ rúc ráy vào chân núi, bây giờ cũng đến cả Tà Lài.
Có tiếng đồn rằng chủ thầu đường hầm Tà Lài chỉ mất hai phát mìn đáp vào cái núi đã rỗng sẵn, được không mấy vạn bạc của Tây. Chủ thầu sướng quá, vác tiền về Lạng Sơn ăn chơi phát rồ lên rồi. Phải thế hay không? Nhưng phải thế hay không thì ở các trạm phu đắp đường và phu đập đá làm hầm Tà Lài vẫn chẳng có gì khác. Nhà thầu hẹn một năm hai lần phát quần áo mà tháng bảy đã qua, chân tay làm đá như bị dao cắt. Mấy hôm lại phải khiêng người đi nhà thương vì đá bắn vào thủng mắt. Quần áo rách bươm, chẳng thấy cai sú nào ỡi ơi đến.
Đôi chốc, làn sương chợt mỏng, nhìn thấy mờ mờ một quãng đường 4 ngoi ra. Trước nhất thấy hai chiếc tàu hoả lu như hai con voi đen sì phủ phục chặn ngang. Góc đường, cái xe lục lộ sơn hắc ín bốn phía bưng kín không cửa sổ. Như chiếc quan tài đen đặt trên bốn bánh sắt cao lênh khênh. Có một người vừa chui trên quan tài ấy xuống, đương lúi húi nhóm lò củi đầu xe hoả lu. Cả người nọ run rẩy muốn đút tiệt tay chân vào miệng lò khói um.
Cũng lúc ấy, những đám phu trong lều lán quanh chân núi đương co ro kéo ra. Không phải họ mới dậy. Họ dậy từ gà gáy, đã thổi cơm, ăn rồi ngồi trong lều trông ra chờ sáng, bây giờ thấy ánh lửa thì dò đến. Chưa trông rõ mặt, chỉ thấy dòng dài người đến lố nhố ngồi đứng đông nghịt quanh hai cái tàu hoả lu và cái nhà hòm của phu lục lộ.
Những tiếng bàn tán lào xào nổi lên.
- Hôm nay xuống làm đường Bản Dạt.
- Có châu hôm nay được về à?
- Không ai được về đâu.
- Trời!
- Mày chịu khó đi phu cho qua Tết cơm mới nữa thì quan sẽ cho cái mề đay cửu phẩm rồi quan đá đít về.
- Chết thôi.
- Mất mẹ nó Tết tháng bảy.
- Đi trèo hồi còn khổ hơn đi phu, đi phu không sợ ngã cây.
- Ngã cây nhưng mà được tiền, còn hơn.
- Phu đâu mới mộ về thế?
- Không biết.
- Thấy nói đám phu này là bắt người Quán Hồ.
- Đông không?
- Dễ đến trăm.
- Thế thì châu ta được thay rồi.
- Có mà sang năm! Đường Bản Dạt còn mênh mông như cái chợ Kỳ Lừa ấy! Tao xuống xem rồi. Đến một nghìn người ném vào nó cũng chưa xong.
- Giời ơi! Cũng thì làm người!
- Quan lục lộ đến chưa?
- Rét thì mới tháng bảy mà đã buốt đến chân tóc!
- Các ông lính cũng chưa trở dậy nữa là!
Tiếng ồn ào kéo dài và lan ra. Có người, có tiếng nói, hình như cũng ấm hơn. Lúc ấy, tiếng ai bô bô to hẳn:
- Đi phu đến tróc vảy ra thế này thì chịu thế nào!
Bỗng dưng có người kêu:
- Cái gì trăng trắng kia.
- Giấy quan yết thị bán muối.
Chắc hẳn cái giấy nói việc bán muối từ hôm chợ Nà Sầm, phiên chợ đã qua. Tuy vậy, thấy có người nói thì nhiều người cũng thờ ơ nhìn lên mặt tường xe nhà lục lộ, chỗ tờ giấy trăng trắng nổi trên màu hắc ín đen ngòm.
Tiếng nói to, giựt lên:
- Không phải yết thị bán muối. Cái này khác. Đọc cho mà nghe này:
Hỡi anh em phu làm đường Nà Sầm, Bản Dạt. Thằng Tây có bọn chó săn tri châu, châu đoàn, xã đoàn bắt các dân tộc mình phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ. Không thể chịu được thế này mãi đâu. Chúng ta phải đánh thằng Tây lấy lại đất nước thì mới được yên ổn làm ăn. Anh em có biết tháng trước ở dưới Kỳ Lừa, anh em phu đã lấy thuổng cuốc, xà beng đánh chết tên quản Lộc cai thầu làm đường Keo Tấu ra Nhị Thanh...
Cũng lúc ấy, phía mặt tường xe bên kia lại có người đọc to hơn:
- Cái này nữa! Cái này nữa! Kỷ niệm Xô Viết Nghệ An! Anh chị em công nông...
Nhiều người chạy dồn sang phía ấy. Nhưng cũng nhiều người ở ngoài, xôn xao, rồi nhớn nhác đứng im. Tiếng thì thào:
- Bây giờ tao mới dám nói, hôm qua tao cũng thấy nhiều cái này dán trên toa tàu hoả ở Bản Trang...
- Ghê quá!
- Làm thế nào?
- Các người có ai biết chuyện đầu cầu Tà Lài này không?
- Không.
Một người đứng cao lên, kể thật to:
- Năm ấy, dân làng Ma Mèo, làng Khơ Đa cũng đi phu thế này, có bọn phải lên làm tận Bình Nghi kia, đi phu nửa năm chưa được về thế này, họ bỏ việc, rồi ra ngồi nấp cả dưới chân cầu kia, đợi thằng tuần phủ ở Thất Khê về Lạng Sơn đến chỗ cầu Tà Lài này thì người ta đổ ra đánh chết tươi ngay trên xe ngựa.
- Bây giờ ta đợi quan lục lộ đến thì ta cũng giết như thế. Trong giấy bảo thằng quản Lộc thầu đường dưới Keo Tấu cũng chết thế.
- Thôi, thôi!
- Thằng quản Lộc bị mấy nhát xẻng vào đầu.
- Không được đâu!
- Chúng ta khổ lắm rồi. Chúng ta đem nhau đến đây chẳng ai biết hết mặt nhau, nhưng chúng ta chỉ biết người Thổ, người Kinh, người Nùng, người Mán, mấy trăm con người này khổ lắm rồi, nhục lắm rồi, không chịu được nữa, từ nay thề có chết vì đòn lý trưởng xã đoàn cũng thề không đi làm đường cho Tây nữa.
- Hay ta về, ta bỏ về!
- Phải đấy. Cứ về thôi! Mặc mẹ nó.
Trong nháy mắt, bao nhiêu phu đã ở mặt đường hay còn ngồi trong lán đều rùng rùng tuôn ra rồi tan hết. Những phu ở Quán Hồ mới tới cũng về cả.
Khi nắng lên, bọn cai ở Nà Sầm mới lục tục xuống. Quanh cầu Tà Lài vắng ngắt, khác hẳn mọi hôm. Nó tưởng hôm ấy là ngày chợ Đồng Đăng, phu đi chợ. Nhưng đến lúc trông sang bên kia thấy đám phu Bắc Giang ngồi ép thành một đám bên cái xe hoả lu, như ai trói vào đấy. Không hiểu sao.
Phu mộ dưới Bắc Giang không có thẻ (1), không dám trốn (Các quan lục lộ phòng xa phu đường xuôi bỏ việc, đã giữ hết thẻ thân của phu).
Thành thử, hàng trăm con người cứ ngồi dúm một chỗ. Quan đến cũng không nhúc nhích. Như một đống gạch. Cũng không dám về lán. Họ sợ rời từng người ra bây giờ, có thể gặp nguy hiểm. Còn mấy người phu lục lộ đã lại chui cả vào cái nhà hòm từ lúc nào. Thấy cai đến, bấy giờ mói lóp ngóp chui ra, xuống nhóm lại lò than đầu hoả lu đã tắt ngấm từ lúc nào.
Bọn Tây lục lộ ở thị trấn Nà Sầm nghe tin có động, có thằng đã cưỡi ngựa tới. Thấy những người cai của nhà thầu vừa đến, đương quát tháo:
- Cái gì thế? Phu đâu? Phu đâu cả rồi? Sao thế này?
Không ai nói, không hiểu tại sao. Lạ lùng quá. Những người phu lục lộ chui trong cái nhà hòm ra nhóm lò cũng đứng ơ như mất hồn một lúc sau mới ngoảnh mặt nhìn lên tờ truyền đơn dán trên vách xe ngay phía ngoài trên chỗ đầu mình nằm.
Bọn cai trông theo, sấn đến đọc. Đọc chưa xong cai đã chạy. Chúng chạy hết. Vứt lại chiếc áo bành tô vàng loè xoè. Thằng Tây lục lộ cũng phóng nốt.
Một lát lính đồn Nà Sầm và Đồng Đăng, hai đầu đường đều kéo đến, tua tủa súng, nhớn nhác đi dò từng bước chân, từng bước.
Lúc ấy, Mã Hợp, Mã Anh và Chảo Pin đã về tới Khơ Đa. Họ đứng trên đồi nhìn xuống, họ trông thấy hai đám lính Nà Sầm và lính Đồng Đăng như hai dòng kiến bò đến gặp nhau ngang đường, nói gì to lắm, như chửi nhau.
Vàng Chỉn Sen cũng đã lên được đồi. Tay anh ta vẫn xách cái xẻng như lúc nãy đứng nói chuyện “người xóm Khơ Đa và Ma Mèo giết thằng quan phủ Tràng Định ngày trước”, tiếng sang sảng giữa những đám phu làm cầu Tà Lài. Như lạ lắm, Chỉn Sen trỏ tay, hí hửng:
- Hai đám chó chạy thi kìa...
Hai đám lính lại tất tả chạy quanh, rối lên.
Ba người nhìn lại nhau, hỏi:
- Khén Chang đâu?
Họ toan xuống. Đã thấy Khén Chang lò dò lên chân đồi.
Khén Chang nán lại nghe tình hình, vẫn nhiệm vụ nghe ngóng của Khén Chang. Như đã bàn trước khi tổ Khơ Đa đi tranh đấu. Tổ Khơ Đa đã quyết định. Sảo Kinh bị mật thám đánh chết... Sảo Kinh dặn trả thù cho nó... Phải trả thù cho nó... Phải đi tranh đấu trả thù cho nó! Cả Thụ và Mã Hợp cũng đi cùng! Anh em ở Khơ Đa xuống đường từ mờ đất, vác xẻng cuốc, như phu đi làm. Rồi hô hào tan đám phu. Cuộc tranh đấu thắng lợi!
Bây giờ, đường 4 vắng ngắt, không một bóng người phu nào. Nắng đã lên cao, lại trông thấy con suối Lũng Lừ lấp lánh từ đằng xa.
Những người thanh niên Nùng ở Khơ Đa đã về trong xóm, cất xẻng cuốc rồi, ai đi việc nấy. Khén Chang tháo gióng cho bốn con trâu trong gầm sàn ra. Lại như mọi ngày bình thường, Khén Chang theo đàn trâu xuống đồi. Đàn trâu gặm cỏ, ăn dần về phía Nam Quan.
Thụ về bàn với Mã Hợp:
- Cách mệnh chúng ta trưởng thành rồi, chúng ta không để thằng Tây được yên đâu. Chúng ta không cho nó tưởng nó mới được quyền đuổi đánh cách mệnh. Thằng Tây không thể khủng bố và lấy mất tinh thần của ta được đâu! Cách mệnh phải cho thằng Tây biết là lúc nào cách mệnh cũng đuổi đánh nó. Chúng ta sẽ tranh đấu. Công tác mới này rất quan trọng.
Thụ lấy trong bồ đựng đồ vá chảo ra một cuộn giấy to nhét vào cái nồi đồng cũ, lúc nãy Thụ vừa gánh về. Thụ mở tờ giấy có khẩu hiệu in trên giấy xanh, đỏ, mỗi tờ mỗi màu nhưng vẫn một dòng chữ to:
Ủng hộ Cách mệnh Tháng Mười
Ủng hộ Liên Bang Xô Viết
Thụ nói:
- Khắp Lạng Sơn mở cuộc tranh đấu dán lên khẩu hiệu này. Năm nay, lần đầu chúng ta được cùng nhân dân khắp năm châu bốn biển đứng lên tranh đấu kỷ niệm Cách mệnh Tháng Mười là quê hương của cách mệnh thế giới. Nhân dân sẽ được thấy cách mệnh. Thằng Tây sẽ sợ cuồng lên. Đảng ta bảo nó: mày sắp đến ngày chết rồi.
Bàn kế hoạch cho tổ Mã Hợp đi tranh đấu kỷ niệm Cách mệnh Tháng Mười rồi Thụ đi Thất Khê.
... Một đêm tối trời.
Mảnh trăng mùng tám, như chiếc lá hồi úa, đã rơi xuống sau đồi cao dưới thị trấn Đồng Đăng.
Đầu kỳ lương, lính và các ông ký ga, ký dây thép, nhà đoan kéo đến nhà cô then cuối phố đông ních. Mắt liếc theo mặt đàn, ngón tay cô then khéo nhấc cái tai đàn, phảy phảy. Tiếng đàn tính dấm dứt, ngẩn ngơ, dắt theo tiếng nhạc bạc rung nho nhỏ. Giọng then Lạng Sơn trầm xuống, vời vợi.
Lính tráng, cai đội, thầy ký nốc rượu tuý luý. Cả đến bọn lính tuần cũng chỉ kéo nhau tua mấy vòng lúc trăng chưa lặn. Sau đó vào ngồi chầu rìa nhà then, đùa đến sáng. Cứ đến kỳ lương thì không trai làng nào dám thò mặt ra tranh then ở phố cả.
Trăng vừa lặn, có hai bóng người từ Bản Dạt lên, đi thẳng vào chợ. Một nép vào tường. Một người dạo quanh cả hai quán chợ rồi quay lại. Những nén hương trước cửa mỗi nhà người Hán thường cắm từ chập tối cứ lập loè như những con sâu đất, cũng đã tắt từ lâu. Bốn phía phẳng lặng. Tiếng cười ở nhà then đằng kia đã khuất ngoài xa.
Họ chợt đứng lại đầu tường. Một người thụp xuống, kôông kêêng người kia lên vai. Hai bóng nối nhau vừa với đến cái chuôi vồ nóc cầu chợ. Người trên quơ tay qua lại, như quét mặt tường, rồi nghe sột soạt ập tờ giấy xuống. Lại nghe tiếng dao chém xuống phập phập mấy nhát.
Lúc ấy, trạm canh cửa trại lính cổng đồn quan hai ngoài đồi, vẫn như thường. Ánh đèn dầu hoả tù mù, chập chờn cái hình người lính gác đứng trong lều như đứng trong cái vò giữa bóng dãy núi đen sẫm, nhọn sắc, tựa cái lưỡi cưa đặt ngược.
Hai người đi quanh, dán lên nhiều quãng tường ở các phố nữa. Rồi họ quay ra. Nhưng chợt thế nào, họ lại trở vào, đến giữa phố, đứng lại ngay cửa nhà đội Mạo. Cả dãy phố cũng như nhà này, đã ngủ yên và tối om. Tiếng chó sủa nhúc nhắc đâu gần đấy.
Một bóng vào cửa lấy que ra quệt rồi đặt tờ giấy lên một bên cánh cửa ra vào. Cẩn thận, người dán còn quét đi quét lại mấy lần, đến lúc mấy con chó cắn xô đến mới bỏ đi.
Họ đã ra đến cuối phố Mới. Lại qua nhà cô then rộn rịch và có ánh đèn hắt một vệt sáng ra khe cửa.
Cây nở hoa đẹp mãi
Người chỉ có một thì...
Tiêng cười thô như có người cù nách bỗng rộ lên, át mất câu hát hay. Đêm về khuya, tiếng đàn nghe ngọt lắm. Đêm đã khuya ngày sắp rạng mà nghe đàn then thì cái tai cũng muốn lắc lư say. Vậy mà bọn lính tráng cai cú quỷ sống cứ đùa nhau tranh nhau loạn xạ, chí choé thế kia. Mất cả câu hát. Người trai trong làng chỉ qua ngoài đường, cũng tiếc.
Thế là hai người liền thèm nghe hát. Họ lẻn vào vách cửa, áp mặt nhòm. Trong nhà, toàn lính, ngồi lẫn với mấy cô gái ở chợ. Cô then trẻ, mắt sắc liếc theo ngón tay tung cái hoa cúc vạn thọ. Cô mặc áo chàm dài viền gấu đỏ, tay cầm đàn, ngồi trên chiếc ghế đẩu. Trước mặt, mẹt hoa hồng lẫn hoa đơn đỏ còn đầy nguyên. Cô mà “thưởng” hết ngần ấy hoa thì cũng phải gần sáng.
Cây nở hoa đẹp mãi...
Cô then buông đàn, tung một cái hoa.
Mấy lính ngồi gần, tranh nhau giơ tay sẵn rồi đẩy nhau vào nắm tay cô then. Nhưng đoá hoa đơn đỏ của cô then ném lại rơi ra xa. Bọn lính quay lại, huých nhau, vồ hoa chen bật cả ra cửa.
Một đứa kêu:
- Có trộm!
Mấy lính khác loạng quạng nhảy ra. Nhưng chỉ còn bóng tối. Hai bóng người vừa thấy nấp cánh cửa đã biến mất. Một đứa làu bàu:
- Lại mấy thằng con trai Bản Dạt lên nấp cửa nhà then. Thảo nào, thảo nào then ném hoa ra cho nó. Ý tứ với nhau thế, gớm thật, phải vào tra tấn cho ra mới xong.
Cả bọn lại chen vào quây quanh ngọn đèn ba dây với mấy cô gái chợ. Tiếng cười nói hí hố càng ầm ĩ đến sáng, chẳng nghe ra đàn hát gì nữa.
Tờ mờ hôm sau, Mã Hợp và Hán Pang vào Đồng Đăng bán củi sớm. Bó củi đè trĩu lưng, hai người cúi bước lật đật như con rùa núi đội cái mai gồ ghề đương bò quanh chợ. Chưa có ai hỏi đến, người bán củi chợ Đồng Đăng bây giờ nhiều hơn người mua củi, khó khăn quá, hai người đi rao bán qua phố.
Một quang cảnh lạ. Rồi cứ thấy không ai nói với ai, mọi người chạy đùng đùng sang nhà nhau. Mấy nhà đã mở cửa, bây giờ cũng đóng lại, một chốc, chẳng nhà nào còn ngỏ cửa nữa. Nhà đội Mạo vẫn đóng ỉm. Nhưng trên cánh cửa gỗ xoan mới, chỉ còn vệt hồ. Cái khoá đuôi chuột khoá trái. Chắc nó dậy, sợ quá, vợ chồng tếch lên trú ẩn trong đồn rồi.
Hai người đứng lại trước bức tường đầu chợ. Nếu có người gọi mua củi lúc ấy chắc cả hai đều giật nảy mình. Bởi vì họ đương mải nghênh lên nhìn bờ tường cao. Giữa hai tờ giấy xanh đỏ dán liền nhau, đứng xa cũng nhìn thấy dòng những chữ: Ủng hộ Cách mệnh Tháng Mười. Ủng hộ Liên Bang Xô Viết.
Nhiều người đi chợ cứ xúm đến.
Mấy đội xếp cuống quýt. Tờ truyền đơn dán tận trên cao. Có đội xếp lấy gậy chọc nhưng không được. Tờ giấy đã dính chặt từng mảnh rời vào tường gạch xám. Người đi chợ càng xúm đông, ngước lên. Bao nhiêu lính trong đồn ra mà loay hoay không bóc được. Đến lúc quan hai Tây xuống, thấy đông quá, quan hai luống cuống, sai thổi kèn báo động. Tò te... Tò te... quay đi quay lại, tiếng kèn vảy rộng sang bốn phía chân núi. Thế là vỡ chợ.
Người các làng về chợ đông và sớm quá. Không hiểu từ đâu, nhiều làng đồn hôm ấy về chợ Đồng Đăng sẽ thấy nhiều cái lạ. Cho nên, người chạy về, người ùa vào, cứ đông ùn ùn, khiến bọn lính cứ phải lồng quanh đuổi đánh người như đèn kéo quân, cả cái chợ vỡ, tiếng lừng lên rằng Cộng sản đã về dán giấy báo sắp vào lấy Đồng Đăng, thế là ai cũng nhớ ngay đến năm nào Hồng quân lấy Long Châu bên Trung Quốc, ai cũng nhớ chuyện thằng Tây lãnh sự Long Châu cởi trần chân đất chạy về, nhiều người trông thấy và nhiều người nhớ, còn kể chuyện về các làng bên ấy bắt địa chủ mặc áo lụa dài ra đứng cho nhân dân mắng kể tội rồi ai nghèo đều được chia ruộng. Bây giờ Cộng sản ta cũng sắp về lấy Đồng Đăng, lấy Lạng Sơn, đuổi thằng Tây đi. Các làng, người về, người rộn rịch đi, người tin, người ngờ, chấn động đến tận mỗi làng xa.
Hai người vừa đi vừa tíu tít chuyện về tận Lũng Nghìu. Không bán được củi, nhưng trong bụng Mã Hợp và Hán Pang vui lắm.
Mã Hợp nói:
- Anh Năm đã bảo cái giống Tây nó sợ truyền đơn nhất. Lần này mình mới được thấy nó sợ thật.
Hán Pang cười khì khì:
- Bảo mà, dán kỹ rồi, chém đứt ra, đố nó bóc nổi! Tiếc, những cái dán trong phố không kịp làm thế.
- Tao trông thấy Tây bắt lính xuống tận đầu đường Bản Dạt khiêng lên thùng nhựa.
- Không bóc được thì phải quét nhựa đường lên vậy.
- Từ nay ai đi chợ cũng trông thấy vết nhựa, vết nhựa ấy như quét vào trán thằng Tây, ai cũng biết cách mệnh vẫn mạnh khoẻ, thế là được.
Mấy hôm sau, Thụ cũng ở Thất Khê về.
- Chúng mình bỏ truyền đơn vào tận sân trại lính. Lại bỏ thêm khắp phố cổng Đồn. Thế là thằng Tây ở Đồng Đăng, ở Thất Khê, lại Kỳ Lừa và bên tỉnh, chúng đương cay bắt cách mệnh bỏ tù cách mệnh, nhưng cách mệnh vẫn tiến lên như thường.
Thụ kể thêm:
- Chúng mình cũng dán khẩu hiệu kỷ niệm Cách mệnh Tháng Mười lên chỗ cửa sổ buồng ngủ nhà quan Ba đại lý. Nhưng không ai mê then vào nhòm vách dại như các đằng ấy!
Đánh trống lảng, Mã Hợp kể đã dán khẩu hiệu Cách mệnh Tháng Mười vào cửa nhà thằng Mạo. Khoái chí nhất chuyện ấy.
Lần này, Phong và Thụ với Chi hẹn về gặp nhau ở Lũng Nghìu.
Trời sáng trăng trong vắt. Ba người ngồi trên mỏm đá trước nhà Mã Hợp.
Trước mặt, những rặng núi xếp nếp loang lổ giữa ánh trăng trong.
Chòm lửa của các xóm Mán đốt rừng làm nương, mùa hè nào cũng nhìn thấy những đốm lửa lang thang của đời người Dao. Suốt đêm, từng mảng tàn than lốm đốm như đàn vạc lửa ăn khuya bay về tận sông Kỳ Cùng.
Trên mỏm núi, chỗ hòn đá to này, năm năm trước, có ba người thanh niên uống rượu, đập chén giết gà ăn thề kết anh em. Mỗi lần đến Lũng Nghìu, Thụ và Chi đều nhớ lại những kỷ niệm vừa ngây thơ, vừa hào hứng ấy.
Ánh đèn thị trấn Đồng Đăng hẩng cao trước mặt, sau hình một trái núi. Họ có cảm tưởng ngồi đây là đương ngồi trông đến tận mỏm Cà Mâu chỗ cao và xa nhất đằng cuối đất nước được.
Phong nói:
- Gặp các đồng chí lần này để bàn một công tác cần. Chúng ta phải tìm và lập cho được nhiều con đường thông về đồng bằng. Khi cách mệnh đã phát triển từ Nam ra Bắc thì những đường lên biên giới, những con đường riêng của ta thông lên biên giới phía bắc sẽ có tầm quan trọng đến sống chết đấy. Ngay bây giờ, ta phải có đường bí mật về Hà Nội không theo đường xe lửa, không theo đường 3. Chúng ta phải đánh những con đường về xuôi, từng chặng có quần chúng cách mệnh bảo vệ đường của cách mệnh. Vì thế, cách mệnh đi lúc nào cũng được. Đấy là công tác cần bàn hôm nay.
Thụ nghĩ: “Dạo còn Hùng ở nhà, chúng mình đã làm thế. Chúng mình đã thông đường sang Cao Bằng, Hùng đã giả làm thợ gặt đi tận Hữu Lũng tuyên truyền cách mệnh cả mùa gặt năm ấy”.
Những người cách mệnh trẻ tuổi, mỗi lần bàn nhau về những dự định của công tác cách mệnh, họ lại thấm thía, nhớ ngày đầu tiên đi tìm cách mệnh. Càng về sau họ càng hiểu việc quan trọng của cách mệnh không phải chỉ là đi tìm cách mệnh ở đâu đâu mà đường cách mệnh trước nhất thấy dọc ngang khắp đất nước và quanh mình.
Thụ nói:
- Vương “cao” à, đường cách mệnh về Hà Nội tốt nhất gần nhất là qua châu Bắc Sơn, mà địch không ngờ được. Phải, châu Bắc Sơn. Xuống Điềm He vào Bắc Sơn hoặc từ Tràng Định xuống Bắc Sơn cũng như ra Văn Uyên vào Bắc Sơn, đường nào ta cũng tới Bắc Sơn. Đến được Bắc Sơn thì sang Bắc Giang hay xuống Thái Nguyên, đường nào cũng tiến về Hà Nội được cả.
Phong đột ngột nói chen:
- Bắc Sơn à?
Rồi trầm ngâm:
- Phải, người Bắc Sơn trước đã can đảm lên rừng Lũng Lắc theo Cai Kinh, lại đi với Đề Thám đánh Tây ở đèo Canh Dàn, người Bắc Sơn sẵn tinh thần lắm. Phải, Bắc Sơn. Vậy thì ta xuống Bắc Sơn, phát triển chi bộ Đảng ở từng làng từ trên nàv toả vào cho đến Bắc Sơn lập thành con đường quần chúng thật chắc chắn để bảo vệ giao thông cách mệnh.
Chi nói:
- Để tôi xuống Điềm He vào Bắc Sơn.
Thụ nói:
- Tôi sang Thất Khê rồi xuống Bắc Sơn.
Chi về Điềm He.
Có đến hơn năm năm rồi, Chi mới trở lại đất quê. Nhưng Chi cũng không một nỗi xúc động nào da diết. Mỗi người, khi ra đi, có một tâm tình riêng, cảnh của Chi, nỗi lòng Chi, thật hiu hắt, có Thụ đã biết.
Chi quảy bồ, cắm cúi, mải miết đi. Chi gày gò, không ai có thể nhớ được đây là cậu Chi người Bản Hẻo, học trò trường tỉnh được. Dáng thất thểu, ủ rủ càng giống những người đói mỗi năm đến mùa thường qua các làng hỏi việc gánh hồi mướn.
Những thân hồi lưa thưa mốc trắng. Đầu cành, lá xanh thẫm, đã nhú quả hồi toẽ năm cánh. Vào mùa này, quả hồi còn xanh như lá mà qua dưới gốc đã phảng phất có mùi thơm hồi quấn theo.
Suốt buổi sáng, đi hết những cánh rừng vắng, không gặp một ai. Nhưng khi vào Bản Hẻo, cẩn thận, tránh qua xóm gặp người làng, Chi phải trèo lên rừng rồi tắt thẳng xuống đầu ngõ.
Thế nào, không may, đụng ngay với tri châu Điềm He cùng bọn dõng đương đi lên bên chân đồi.
Bọn dõng lẻ tẻ, uể oải, đứa trước đứa sau, quanh con ngựa tri châu đã đẫm mồ hôi xuống bụng, người và ngựa nhễ nhại đi trong bóng nắng trưa.
Có lẽ bọn này vào nhà chức việc trong làng để nghỉ ăn cơm trưa. Không tránh đằng nào được nữa.
Tri châu vào nhà chánh tổng, bố Chi. Thấy người một mình trên đồi xuống, Tri châu quát hỏi:
- Thằng kia đi đâu?
Chi mặc tấm áo Nùng rộng, mặt láng mặt nâu. Chiếc nón to ngật ngưỡng sau cái gáy cạo trọc lốc. Tri châu có thể nghi ngờ người này ở biên giới vào nên mới quát hỏi thế. Một suýt thì Chi cũng buột miệng: “Không, tôi là người Bản Hẻo đấy”. Nhưng Chi chợt nhớ, vội nói:
- Tôi về nhà anh em trong Bản Hẻo để lấy diêm sinh đây.
- Thật không?
- Thật mà.
- Mày mà về dắt đất ăn cươp thì ông bắn tan xác đấy.
Nói thế nhưng họ cũng không khám, không giữ lại. Trong nhà,cũng không ai biết, không thấy người chạy ra. Có lẽ lúc ấy gần bữa, nhà nào cũng đương nghi ngút quanh bếp, không còn ai ngoài sân sàn. Mâm rượu nhà bố Chi đã dọn sẵn đợi quan trong kia. Thầy và tớ, và cả con ngựa mướt mao mồ hôi cũng khập khễnh, tất tả, đương đói.
Chi vẫn chưa vào nhà, còn tạt ra ngồi trong bụi sim sau gò đất. Xế trưa thường có trẻ trong xóm ra chăn trâu ở đấy. Chắc bây giờ vẫn thế.
Nhà Chi kề bên đồi. Trẻ con trong xóm dồn trâu ra đồi ăn đều qua phía ấy. Chi ngồi đợi suốt buổi trưa nắng.
Đến lúc ánh nắng đã vàng đầy khắp đồi, thấy Nhàn, lững thững đằng kia. vẫn lệ quen ngày trước, Nhàn hay đi trâu sớm nhất xóm. Nhàn đã nhớn. Thoạt thấy em trai, chỉ mới thoáng dáng, Chi nhận ra ngay cái đầu nó vẫn trọc nhẵn. Lúc ấy, Nhàn quay lại, gọi trâu:
- Cừa! Cừa! (2)
Nghe tiếng em gọi trâu, Chi nghẹn ngào trong lòng. Trên quả đồi này, những năm trước, hai anh em thường ra chăn trâu. Bấy giờ Nhàn còn loắt choắt, theo anh đi chơi. Những lần Chi bị bố đánh, Chi trốn lên đây ngồi khóc mẹ. Em chạy theo anh, thấy anh khóc, cũng khóc theo. Đến bữa ăn, em thu thu đem cho anh nắm cơm của chị nắm giấu cho. Hai anh em lại khóc, nước mắt ướt cả cơm, tối mịt mối về. Nghĩ về Bản Hẻo, Chi chỉ còn nghĩ đến hai anh em và những chuyện buồn ấy.
Chi bước tới.
- Em Nhàn ra chăn trâu à?
Nhàn nhìn Chi rồi nhắm mắt, oà khóc. Sợ quá, đứng sững, không dám chạy. Nó tưởng thằng kẻ cướp.
- Anh đây... Anh Chi đây...
Chi bỏ cái nón che rợp nửa mặt xuống. Nhàn mở hé mắt, thấy đúng là anh Chi mình thật. Nhàn ôm chầm lấy anh. Thế rồi Nhàn không hỏi anh Chi được một câu nào, Nhàn lại nức nở khóc to hẳn thành tiếng.
Chi dỗ:
- Nín đi em. Ngồi xuống, anh bảo.
Nhàn ngồi xuống bên cạnh anh.
- Chị có nhà không?
- Có.
- Em về gọi chị ra đây. Anh đợi đằng gò sim kia.
- Sao anh không xuống nhà?
Chi cười:
- Em không sợ bố đánh anh à?
Nói thế, Nhàn hiểu. Nhàn chưa hiểu công việc của anh như thế nào. Nhưng mấy năm nay, Nhàn cứ mang máng một chuyện gì lôi thôi to lớn lắm đến với anh Chi. Bây giờ anh mới về, anh đi đâu lâu lắm mới về thế này thì chắc là bố sẽ đánh anh thật. Nhàn lại ứa nước mắt. Chi bảo em:
- Đừng nói có anh ở trên này nhé. Chỉ bảo với chị thôi.
Nhàn chạy nhanh xuống đồi. Nhàn đã hiểu cần phải kín đáo như thế, trước cả khi anh Chi dặn.
Mẹ Chi mất từ năm nào, Chi không biết mặt. Mẹ Chi chỉ được có mình Chi. Bố Chi lấy vợ kế, sinh ra chị em Nhàn. Chi rất thương yêu hai em. Từ khi còn bé, ba anh em Chi lúc nào cũng quấn quýt, thương nhau. Những ngày đi xa, mỗi khi phảng phất tình cảm đối với quê nhà, chính là nhớ đến các em với hoàn cảnh triền miên trong một đời sống tẻ nhạt, buồn chán ở xó làng của các em mà thôi. Lát sau, hai chị em lấp ló lên đồi. Chị tất tả theo Nhàn, nét mặt vừa nhớn nhác vừa hớn hở không giữ được.
Chưa trông thấy Chi, hai mắt cô bé đã mọng đỏ.
- Bấy lâu anh đi đâu?
Chi nói:
- Anh đi làm cách mệnh em ạ.
- Em chưa hiểu là anh nói thế nào...
- Đằng trước cửa nhà mình vẫn còn chiếc cối đá to, em nhỉ? Anh còn nhớ cái chày gỗ giã xuống mãi đến nỗi lòng đá cối lõm sâu bằng gang tay. Có dễ cái chày giã xuống đến một nghìn năm rồi. Một nghìn đời người đói khổ rồi. Mãi thế ư? Không được. Không thể mãi thế. Phải thay đổi, em ạ. Thay đổi đời người là làm cách mệnh, anh đi làm cách mệnh để đánh thằng Tây, lấy lại đất nước, đem cái thay đổi sung sướng lại cho mọi người.
Cô gái cũng chưa hiểu thế nào. Nhưng nước mắt cô dòng dòng xuống. Dù cho những năm vừa rồi anh đi xa, anh đi đâu nhưng cũng chưa bao giờ cô biết anh có lý tưởng và những ước mơ khác lạ như thế. Nhưng nghe anh nói và cứ gẫm như đời anh và đời em, trong cảnh tù ngục gia đình suốt cả tuổi trẻ, đã khiến cô gái nói:
- Anh đưa em đi cách mệnh với.
Nhàn cũng bắt chước chị:
- Cho em đi với.
Chi mỉm cười. Thế là đường cách mệnh vào Bắc Sơn đã làm được đến Bản Hẻo rồi.
Thụ vào Bắc Sơn.
Lâm ở Nà Khan lên biên giới đón Thụ. Ngẫm nghĩ cũng đặc biệt, bên Nà Khay, các cơ sở cách mệnh Trung Quốc và cả cách mệnh Việt Nam nữa đều người dân tộc Nùng. Bước sang Bình Nghi và vào đến giữa cánh đồng Thất Khê, các chi bộ toàn Tày. Hai dân tộc làm chủ biên giới hai nước đã đứng lên rồi. Chi bộ Đảng đến tận Háng Đông, đầu cánh đồng bên kia tường đồn nhà quan ba đại lý Thất Khê.
Sương đêm trắng xoá, đến sáng, khi sương tan, mở ra từng sườn núi, Lâm và Thụ đã đương qua cửa Bình Nghi.
Những vạt núi tranh thoai thoải xuống đến khuất tầm mắt. Đồi trọc nối nhau như đàn rùa đói, khô xác kiệt sức chết đứng đấy tự bao giờ. Gió thổi hút vào lòng chảo cao nguyên từ cửa ngõ Lộc Bình sang, người và gió và nhà cửa cứ rú lên, suốt mùa gió bấc.
Từ Ngãi Kỷ cách mệnh đã phát triển sang Yên Khuyến, Vĩnh Lại, Nông Đồn... Trong khi bọn tổng xã đoàn vùng ấy cứ đêm ngày thúc dõng canh gác các ngả đường hẻm. Dõng làng cơm nhà việc quan, khó nhọc quá. Tổ cách mệnh tìm đến tuyên truyền dõng, từ đấy, có phải đi gác đêm, dõng chỉ ngủ tụ lại một nơi.
- Cách mệnh chỉ đánh Tây và đánh vua quan. Cách mệnh không phải kẻ cướp, đừng bắt.
- Để người ta yên, có khi còn được nhờ.
Đến Nà Han, thì Hải và các đồng chí đón. Các tổ cắt người gác tất cả ngã ba đầu xóm từ giáp Ngãi Kỷ. Từng quãng, lại đổi người quen đưòng đi với Thụ. Gặp lính tuần, đã có hiệu trước. Lúc nào cũng chắc chắn như đi trong nhà, bởi vì Thụ đương đi trên đường cách mệnh, đường của Đảng, của quần chúng bảo vệ.
Nửa đêm, từ Nà Han xuống. Giữa đường, Hến đã đứng đón Thụ vào cánh đồng Thất Khê.
Được mấy hôm, Thụ xuống châu Bắc Sơn, đến Vũ Lăng.
Cuối làng Vũ Lăng, giữa châu Bắc Sơn, chạy dài một dải núi răng cưa thông với châu Vũ Nhai dưới Thái Nguvên, sang huyện Hữu Lũng bên Bắc Giang. Ở Vũ Lăng, đi tay trái, ra Chi Lăng, tới núi Cai Kinh - nơi Cai Kinh đóng quân ở rừng Lũng Lắc chống Pháp luôn mấy năm, rồi tạt xuống Na Lương, mỏ Trạng, vào giữa vùng rừng rậm lúp xúp ấy, nhiều nơi còn gặp cả một quãng tường đá ong có lỗ châu mai, dấu vết căn cứ và khu vực chiến đấu của nghĩa quân Đề Thám.
Các xóm Vũ Lăng ở vun vào giữa cánh đồng, xung quanh đồi hoang vào đến chân núi. Xưa nay vào đấy chỉ có người vào đặt cạm bẫy hổ mà thôi.
Vùng Bắc Sơn có cách bắt hổ bằng cũi giương bẫy. Cái cũi hai ngăn, có con chó nhốt ngăn trong. Hổ đói mồi, vờn quanh cái cũi bắt chó. Ngăn ngoài vẫn giương cửa đợi. Hổ xộc vào. Bẫy sập. Con chó nằm bên kia trông sang ngang mặt con hổ, mà hổ chịu. Nhưng con chó mất vía. Đêm đêm, trong chân núi, khi nghe tiếng chó rít khủng khiếp, biết đấy là hổ về. Đêm nào cũng thế. Đêm nào cũng có hổ sa bẫy. Đêm nào cũng có những con chó sợ chết ngất.
Rồi một năm, có những gia đình người Nùng từ biên giới xuống, trôi đến Vũ Lăng. Người Nùng nghèo khó phải lang bạt đi bốn phương. Có người theo Lương Tam Kỳ vào nước ta giúp triều đình Huế đánh Tây, đến khi Tây và triều đình Huế dàn hòa, Lương Tam Kỳ thất thế, ra hàng, nhiều người bỏ đi phá hoang lập quê sâu trong các vùng hẻo lánh ở Chợ Chu, Đại Từ, Vũ Nhai, Bắc Sơn. Đến Việt Nam còn có những người Nùng năm xưa ở các vùng quê quanh Quảng Châu và Long Châu, bọn quan quân đánh nhau liên miên, lại nữa, chúng báo thù sau Quảng Châu công xã và Long Châu đỏ, biết bao nhiêu người Nùng túng đói, có chí khí cách mạng, bị đánh đuổi, phải bỏ quê chạy xuống biên giới rồi lần hồi về Bắc Sơn.
Ở Vũ Lăng, những người bơ vơ đến sau cứ giạt tự nhiên vào chân núi. Đầu tiên, cái rừng lau bẫy hổ cuối làng có mấy gia đình anh em họ Đường đến khai khẩn. Những con hổ phải chạy vào rừng thẳm từ đấy thành một cái xóm nhà lơ thơ, xóm Bò Tát. Thấy vui đất, mấy người Nùng ngoài làng Hữu Vĩnh cũng vào phá hoang trồng ngô. Những năm đầu họ còn đi lại hai quê, sau ở hẳn. Xóm Bò Tát đông dần.
Tuy vậy, những mái nhà xóm Bò Tát vẫn chỉ mấp mé lút trong cỏ tranh. Người đi phải gạt ngọn tranh ra mối thấy lối. Cũng phải vào quãng giữa trưa mới có người dám từ ngoài làng vào xóm. Bởi vì, hình như hổ vẫn rình, mặt trời chỉ xế một chút trên ngọn tranh đã có hổ ra lởn vởn tìm mồi. Ở xóm này, ai cũng gặp ngang mặt hổ ít ra vài lần. Trẻ con đứng trên đầu sàn thì trông thấy hổ đi qua ngoài rào nứa luôn. Con chó nào dại dột, chỉ xuống chân thang nhà sàn lúc chập tối, ông hổ rình đâu, đã nhảy vào, tát chân bắt chó, đập cả vào cột sàn, đổ cây đèn mỡ trên bếp.
Bấy giờ, cuối tháng bảy. Bầu trời nắng nung nấu như cái chảo rang úp trên đầu. Những nương ngô vàng rạc. Châm mồi lửa, có thể bùng cả cánh bãi và cháy lém hết xóm Bò Tát.
Thụ lên nhà bỏ đôi dép cỏ và cái túi chàm ngoài đầu thang. Thấy Thông đương thổi cơm, Thụ chào hỏi và nói ngay, như đã quen biết sẵn:
- Chào cụ! Anh Thông thổi cơm à? Anh Nhất ở Đại Từ dặn tôi lên gặp anh.
Người lạ, nhưng vừa nói thế, Thông đã hiểu ngay. Thông mừng và hồi hộp lắm. Người mà Thông đương mong đợi đây.
Tháng trước, Nhất ở huyện Đại Từ gửi lên cho Thông hai việc: một quyển điều lệ Đảng và một câu nhắn: “người của ta sắp đến”. Quyển điều lệ thì được đọc rồi. Thông đã rủ được bốn người cùng xem điều lệ và đợi cán bộ. Nhưng “người của ta” vẫn chưa thấy đến.
Nhìn Thụ, Thông nhớ năm trước hình như có gặp anh này ngoài Long Châu. Năm ấy, Thông ra ăn Tết quê nội ở Khẻo Mèo. Tình cờ, gặp mấy anh khác ở Lạng Sơn cũng ra Khẻo Mèo ăn Tết. Họ vờ thật. Họ ra lớp huấn luyện. Mấy người rủ luôn Thông đi Long Châu dự huấn luyện. Thế là Thông đi.
Thông được dự học ba hôm. Gần rằm mới về đến Vũ Lăng. Về nhà ông tưởng cháu mải chơi theo đám then, mắng mãi. Nhưng Thông im lặng, không dám cãi lại. Có phải chơi then đâu. Cái này cao xa hơn then nhiều. Ba ngày chỉ nghe cán bộ nói toàn chuyện cách mệnh và thế giới với kế hoạch đánh Tây lấy lại đất nước. Rất say sưa, nhưng cách mệnh dặn tổ chức phải khéo, phải kín, ai chưa tin thì không được hở ra. Về nhà muốn nói hết ngay mà cứ phải giữ miệng.
Thông nhớ cái nhà gác ở Long Châu, có lối sau xuống bờ sông, có anh trắng cao cao, hay ngồi đọc sách giống anh này. Anh em rỉ tai nói trong nhà này có Hoàng Văn Thụ ở Văn Uyên là người giỏi của ta. Nhưng việc bí mật, không dám hỏi ai.
Ăn cơm tối xong, Thông hỏi:
- Anh có ở Long Châu không?
Thụ đáp:
- Cũng có lần đi qua.
Thông lại hỏi, sốt sắng:
- Có phải anh là Hoàng Văn Thụ ở Long Châu năm trước không?
Thụ cười cười, đáp:
- Tên tôi là Vân, anh Thông à.
Thông không hỏi nữa. Nhưng vẫn ngờ ngợ.
Từ hôm ấy, Thụ ở luôn nhà Thông. Người Vũ Lăng ra Bò Tát có tò mò hỏi, bảo là anh em ở Khẻo Mèo bên Trung Quôc về chơi, cả xóm ai cũng khen Thụ người trẻ thế mà thành thạo, có hôm nằm tiêm thuốc phiện cho ông cụ nhà Thông, đánh xái thật dẻo tay, rồi lại chuyện suốt đêm. Thụ thuộc chuyện lịch sử nước ta từ đời Hồng Bàng. Thụ đọc bạch thoại, thạo tiếng quan hoả, cả tiếng Bắc Kinh. Các cụ già trong làng biết tài, tìm gặp Thụ để đấu chuyện, làm thơ, ra câu đối khảo chữ, bàn việc đời, rồi khen: “Cháu này còn ít tuổi được ăn học những đâu mà khá lắm”.
Trong xóm, trẻ con chăn trâu, gặp Thụ, đã thành thói quen, lần nào cũng đòi anh kể chuyện và xin bài hát. Trên gò chăn trâu bò ngoài bãi ngô, hôm nào có Thụ ra cũng đều đông nhộn người và trẻ chơi. Rồi đứa nào tóc dài thì ngồi xuống. Thụ loay hoay cạo đầu cắt tóc cho thật gọn, không nhôm nhoam, không xát không chảy máu. Thanh niên cũng thích. Bờm đầu cho các cậu, Thụ chỉ lấy kéo cắt, tanh tách một lúc mà được cái đầu khéo như vừa cắt hiệu thợ cạo ở phố ăn chơi Đồng Mỏ.
Mà cũng hay, Thụ biết thật đủ chuyện. Làm bùa yểm, Thụ thuộc cả những bài mo cúng gà to nhất. Thụ hát được những bài hát gốc then Cao Bằng ở Hoà An. Ngày cúng hái hoa ở nhà cô then, Thụ uốn bàn tay xách cái tai đàn tính lên, khéo như cô then. Vừa bước rung nhạc, miệng hát theo tay đàn, bao nhiêu con gái tận xóm trong cũng đến - đàn khuya mới đốt đuốc về, mê then đến nỗi quên sợ hổ.
Nhưng Thụ bảo Thông: “Bây giờ bận. Còn phải làm cách mệnh đã, rồi mới chơi được”.
Trong xóm ai làm nhà, Thụ đến giúp. Ngày thượng lương, Thụ biết dựng cái cột gỗ nghiến lên, lấy bánh dầy bọc giấy xanh giấy đỏ quăng hai bên mái như các cụ từ đời trước, ở Bắc Sơn vẫn làm phép khi lễ dựng nóc như thế, trẻ con ra nhặt bánh cúng ăn lấy khước.
Nhưng Thụ bảo với anh em trong tổ cách mệnh: “Bây giờ chẳng mấy ai làm nổi cái nhà to tát để ở. Anh em ta còn nghèo quá. Phải đuổi thằng Tây lấy lại mọi thứ thì bấy giờ mới làm nhà ở yên được”.
Thụ chẳng nề hà việc gì, vác củi, gánh nước, thối cơm, xay bột vắt bún, đun chảo lợn. Tết tháng năm, Thụ làm bún sợi mướt, ngọt, như tục làm bún Tết ở Bắc Sơn.
Chẳng bao lâu, đã như người xóm Bò Tát.
Người xóm Bò Tát thật, bởi vì Thụ biết đi bẫy hổ. Năm nay rồi đói to, trời nắng cháy cả vụ ngô. Lại thêm hổ quấy, cả xóm có vài con bò. Hổ về quật chết, dần mòn tha đi. Người làm nương mà mất bò thì như bị chặt tay, còn gì! Còn có hai ba con bê mới vực cày. Không dám thả chăn, độc nhốt gầm sàn rồi ngày ngày đi cắt cỏ. Lại thêm công người khó nhọc nữa. Người xóm Bò Tát chưa qua tháng tám mà trông ai cũng gầy, mặt ai cũng xanh xám như mùa đông tới. Trời phá, hổ phá, thế này thì đến phải bỏ đi nơi khác mất.
Thụ cũng áy náy không yên. Các bẫy đều đóng chốt cụp xuống cả. Có mấy con chó mồi đều sợ hổ phát ốm chết hết. Ban ngày cho nó cơm ba bữa. Nhưng đến chiều, con chó phải ra bẫy, đã biết lệ, nó sợ trợn xanh mắt không sủa ra tiếng nữa. Sáng sớm ra, con chó đã chết trong đêm rồi.
Cả xóm không còn con chó. Thụ đã nghĩ ra một cách. Thụ lên núi đá, kiếm được một bó củi thật chắc. Thụ cõng ra bán ở chợ Mỏ Nhài. Tết rằm mà trong nhà cứ lạnh và sạch quang như thường ngày. Nghĩ vậy Thụ thấy cần đi chợ, kiếm quà Tết rằm về cho trẻ con. Khó nhọc một chút, nhưng được như ý muốn, Thụ không bao giờ nghĩ ra việc mà để đấy.
Hôm nay, Thụ đã bàn vói Thông, rủ anh em đến họp, thành lập chi bộ Đảng.
Xế trưa, Thụ về. Bó củi Thụ to, toàn củi núi, đượm lửa, bán ngay và được tiền. Và được như dự tính nữa: Thụ đã đeo bên nách cái rọ trong có con chó con, trên rọ buộc gói bỏng mật quà Tết rằm cho trẻ con.
Thụ bảo Thông:
- Bây giờ Thông đi rủ anh em nhé. Mình ra đặt con mồi này ngay. Phải tấn công luôn mới được. Nếu được thì đêm nay ăn to rồi.
Chặp tối, các đồng chí đã về cả nhà Thông. Có Khai Lạc, người ở Hữu Vĩnh vào Bò Tát khai hoang. Quỳnh Quang, Quảng Long, và Phòng xóm ngoài. Thông cũng đã về. Nhưng không thấy Thụ. Ông bố nói:
- Tao thấy thằng Vân đem nỏ chạy đi từ nãy.
Mọi người khấp khởi, hồi hộp. Có dễ mà được rồi. Hôm ấy rằm tháng Tám. Trong bóng tối cây lau dường như đã nghe phảng phất hơi thu, nhưng những mái nhà xóm Bò Tát còn thấp hơn ngọn lau, cho nên cái nóng âm ỉ của mùa hè muộn càng âm ỉ ngột ngạt từ trong lòng đất bốc ra. Không một hẩy gió. Tất cả muốn nẫu ra, hoặc sống hoặc chết đây. Cho đến lúc trông ra sau núi, sáng hẩng một chút, xung quanh mới ràng rạng nhẹ nhàng hơn, ấy là trăng đã lên. Thông sốt ruột:
- Hay là ta ra xem sao.
Vừa lúc ấy, Thụ bước vào. Mọi người lao xao hỏi:
- Thế nào? Thế nào, anh Vân?
Thụ đặt cái rọ xuống chân thang, trong rọ có con chó, vẫn nằm im thít, chưa qua cơn sợ. Thụ khoan thai treo cánh nỏ lên hóc cột, cởi phăng cái áo, ném lên sợi dây mây căng ngang nhà, nói tự nhiên như nói một việc bình thường hàng ngày.
- Đúng là con hổ đói. Lại được con chó lạ, cứ kêu nhũng nhẵng, hổ ta trong rừng sâu nghe tiếng, chỉ một lúc đã ra rồi. Mình đến đã thấy hổ mắc cũi, đương phá, chuyển cả cọc. Mình nã cho cậu ta ba phát nỏ đích đáng, nằm nhe răng ra rồi. Mọi khi, đúng vết chân con này, to lắm. Họp xong, chúng mình sẽ ra khiêng về.
Ngoài rừng, con hổ mắc bẫy và bị trúng nỏ đã nằm chết trong cũi.
Cuộc họp thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của châu Bắc Sơn vào đêm trung thu, trăng trong leo lẻo như chỉ có sự tốt lành và tiếng hát của trẻ con từ ngoài Vũ Lăng vẳng vào qua trên ngọn lau. Con hổ, nhưng con hổ đã sa bẫy, đã bị mấy phát nỏ cho chết cẩn thận, thịt xương nó sắp được đem làm thịt và bán, như thế, con hổ ác cũng thành điều tốt lành rồi đấy. Mỗi người đảng viên cộng sản ở Bò Tát đêm nay đều có ý nghĩ so sánh thấy thằng Tây như con hổ, mà Đảng ta là anh Vân và chúng mình, anh Vân đã bắn chết thằng Tây con hổ và chúng mình sắp đi khiêng thằng quỷ ác ấy về ngay đêm nay, lột da nó, nấu xương nó, chén thịt nó.
Cuộc họp ở góc nhà Thông, bên cạnh cửa sổ, trên sàn trông ra, thấy ông trăng lóng lánh. Đầu tiên, Thụ đọc quyển điều lệ Đảng cho mọi người nghe rồi hỏi ai muốn hỏi gì. Nhưng không ai hỏi nữa và mọi người đã được đọc và Thụ đã nói chuyện cho từng người, ai cũng thấy ở đấy là lời dặn dò người đảng viên đứng lên đánh thằng Tây, đấy là điều tất nhiên ta làm như thế mà Đảng tóm tắt lại cho ta thuộc như thế, lúc nào cũng sẽ nhớ đinh ninh.
Sau Thụ hát bài Quốc tế ca.
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại, để ngày mai
L' Internationale
Sẽ là xã hội tương lai...
Thụ cắt nghĩa từng câu hát một. Mọi người ngồi trông ra cái cửa sổ lúc ấy có một miếng ánh trăng lọt vào, trải trên cái chiếu trúc lát đã gãy - nhưng nan trúc bóng trong ánh trăng càng óng ả thêm. Ai cũng thấy ra quang cảnh những người “cực khổ bần hàn” khắp thế giới đương sôi nổi cách mệnh. Chúng mình đêm nay lập chi bộ Đảng ở tất cả mọi nơi như chi bộ ta. Đêm nay giai cấp công nhân các nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ cũng đương lập chi bộ Đảng. Bên Trung Quốc thì chi bộ Đảng đã thành Hồng quân cầm súng bắn nhau với quân thù. Bên Nga thì đã thành nước Xô Liên thành trì Cộng sản đầu tiên trên thê giới, ở đấy sung sướng và có hạnh phúc lắm rồi. Bốn biển năm châu, giai cấp công nhân và nông dân đương đứng lên làm cách mệnh, đánh đuổi đế quốc đưa đất nước lên chủ nghĩa Cộng sản, như Xô Liên.
Lần lượt, cả năm người đứng dậy, thề trước Đảng, suốt đời vì Đảng làm cách mệnh. Phía trong, ông bố Thông nằm đương khù khụ ho. Mất mùa ngô, người lớn ăn một bữa, chỉ có đám trẻ con chơi ngoài sân sàn, được đủ hai bữa, hôm nay có bỏng mật của chú Vân đi chợ Mỏ Nhài mua về cho Tết rằm. Cái vui nho nhỏ mà quan trọng. Cũng như cái cảnh nghèo khổ bao quanh cuộc thành lập chi bộ Đảng, cùng nhau gắn bó trong một ý nghĩa và chốc nữa, cả bọn sẽ đi vác con hổ mắc bẫy về - như vác xác thằng đế quốc thế giới, vừa đi vừa hò reo hát rằng: “Trận này là trận cuối cùng. Đánh một đòn chết hết kẻ thù công, nông trên thế giới”.
Một hôm, Thụ lại bàn vói Thông:
- Chi bộ Đảng chúng ta sẽ tranh đấu thử thách.
Thụ dặn Thông đi Long Châu, đến cửa hiệu Tắc Lì (Đại Lợi), phố Tây Cai, số 17, ra mật hiệu và nói như thế... như thế...