← Quay lại trang sách

HY SINH

Ngôn ngữ là một thứ lạ lùng. Nói quả không ngoa, hình như mỗi một người có một vốn liếng từ vựng đặc trưng. Chỉ cần ai đó dùng chệch đi vài từ, theo cách riêng của anh ta; trừ phi bạn hiểu con người này, bằng không, tuyệt đối bạn không hiểu nổi mấy từ đó.

Tôi quen Mao tiên sinh đã là chuyện ba năm trước, khung cảnh lần đầu tiên hai chúng tôi gặp mặt, tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng, vì không sao hiểu nổi lời của ông ta, thành thử phải chăm chú lắng nghe ông ta đích thân giải thích, nhờ đó cũng nhớ luôn cả tình hình khi ấy. Tôi không hiểu lời của ông ta, hoàn toàn không phải ông ta không biết nói tiếng quốc ngữ. Khả năng sử dụng quốc ngữ của ông ta có kiểm tra qua ủy ban quốc ngữ thì cũng phải công tâm cho ông ta tám mươi điểm. Tôi nghe rõ mồn một. Thế nhưng không tài nào hiểu nổi, giả dụ ông ta viết một cuốn tiểu thuyết bằng chính vốn liếng ngôn ngữ ấy, in ấn đẹp ngời ngời, nhất định tôi vẫn không hiểu, trừ phi mỗi câu mỗi chữ có kèm theo lời chú thích của chính ông ta.

Đó là vào một ngày thu đẹp trời, lá cây vừa phơn phớt nhuốm vàng; lũ bướm vẫn tung tăng nô giỡn với vô số hoa thu. Đó là một loại thời tiết đặc biệt. Ngồi trong nhà thì bứt rứt, dường như bên ngoài đang có thứ gì đó vẫy gọi anh, nhưng ra phố thì lại chẳng có việc gì đáng làm; gây người ta cái cảm giác làm việc đáng tiếc, mà ở yên cũng đáng tiếc. Chính tôi đang lâm vào cái cảnh tiên thoái lưỡng nan như vậy, mắt trông thấy nắng thu tràn ngập ngoài song cửa, tôi những muốn bay vút vào không trung xanh thẳm; nghĩ tiếp nữa, bay lên đó để làm cái gì chứ? Đứng lên, rồi lại ngồi xuống, không biết bao nhiêu lần, y hệt lũ bướm ngoài kia cất cánh vù lên cao rồi tiếp tục đậu xuống. Sắc thu khiến cả lũ bướm lẫn con người rạo rực ngây ngất vô duyên cớ.

Cuối cùng, tôi quyết định đi thăm một người bạn nào đó, cứ như thể thăm bạn rốt cuộc là một sự kiện, mà lại như có thể tha thứ cho mình được vậy. Ra đến phố, tôi vẫn chưa quyết định đi tìm người bạn nào. Thời tiết gợi ý cho tôi. Bầu trời trong trẻo thế kia, đương nhiên là phải tới những chỗ thoáng đãng, tôi nghĩ ngay đến anh Mai ở trường đại học Quang Huệ, bởi lẽ trường vừa ở ngoại thành, vừa có khuôn viên rộng thênh thang, mát mẻ.

Từ dưới lầu tôi đã biết anh Mai đang ở nhà, cửa sổ phòng anh mở toang, trên bệ cửa còn phơi hai chiếc khăn tay trắng tinh. Tôi gọi anh một tiếng, anh thò đầu ra ngay, mái tóc như tỏa ra quầng trắng dưới ánh mặt trời. Anh gọi tôi lên, tôi nhún nhảy leo lên. Không chỉ riêng phòng anh, cửa sổ cửa ra vào các hộ trên lầu đều mở tung, từng mảng nắng in trên sàn nhà, khiến con người cảm thấy sảng khoái phi thường. Anh Mai đón tôi ở cửa. Anh đánh một đôi dép lê, bận áo ngắn, nom dáng tự tại ghê; tôi đoán chừng anh không có giờ lên lớp.

- Thời tiết đẹp hỉ? - Hai chúng tôi cùng đồng thanh thốt lên, cùng tỏ ý tán dương.

Hóa ra trong phòng còn một người nữa tôi không quen.

Tay anh Mai kéo một đường nối giữa tôi và người đó, chúng tôi lập tức trịnh trọng nhoẻn một nụ cười, rồi hai bên gục gặc đầu chào nhau, răng hé lộ, sắp sửa hỏi "quí tính" đối phương. Nhưng anh Mai lại thay chúng tôi nói cả:

- Anh... tiến sĩ Mao - Chúng tôi lại nhăn nhăn răng với nhau. Tôi ngồi xuống giường anh Mai, tiến sĩ Mao quay lưng ra cửa sổ, ngồi xeo xéo cừa phòng; còn anh Mai lại ngồi trên ghế tựa; không phải bọn họ quen thân quá, mà chính là anh Mai không kính trọng vị tiến sĩ này cho lắm, tôi nghĩ thế.

Vừa chuyện phiếm với anh Mai, tôi vừa liếc chừng vị tiến sĩ đó. Con người này hơi đặc biệt. Ông ta diện âu phục theo kiểu "vũ trang đến tận răng", đáng ra sao thì dập khuôn thế ấy, chẳng hạn khăn tay nhét vào túi áo ngực, trên cà vạt cài một chiếc kẹp, dây đeo đồng hổ vắt ngang ngay sát dưới mu bàn tay, mũi giày da bóng loáng v.v... Có điều bộ quần áo như đã mặc không dưới ba năm, đế giày dầy một cách không bình thường, rõ ràng từng thay đế. Ông ta không phải đang "mặc" âu phục, mà như là thể theo nguyện vọng của ai đó, thề bắt phải đóng bộ âu phục liền ba năm vậy; khăn tay phải đặt chỗ này, kẹp cà vạt phải đính chỗ kia, tất cả là một trách nhiệm, một điều luật trong tôn giáo. Ông ta không đưa đến cho người ta chút cảm nhận ý vị khi mặc âu phục. Mà làm người ta liên tưởng đến cái vẻ gượng gạo miễn cưỡng của ông hiếu tử chống gậy mặc áo xô gai.

Mặt ông ta nghiêng nghiêng hướng ra cửa, vốn đã treo một chiếc gương khá lớn trên tường cạnh cửa ra vào, ông ta đang soi gương. Mặt ông ta gồm hai gò má nổi rõ, ở giữa trũng, giống một cái giỏ Nguyên bảo, mũi hệt cái nôi. Đôi mắt, do nguyên nhân địa thế - trượt từ trên gò xuống - nom cũng sâu thăm thẳm, giống hai cái máng tròn nhỏ, đáy máng đọng ít nước đen đen; cằm vểnh lên gò, vì thế hàm răng dưới vươn ra lồ lộ, như thế chành chọe suốt cả đời với hàm trên vậy.

Dáng ông ta không cao, chẳng béo mà cũng chẳng gầy, vừa đủ để vận cái bộ âu phục nghĩa vụ ấy lên, song không được hăng hái cho lắm. Trên đó đặt chiếc đầu Nguyên bảo, đầu mọc một ổ tóc đen một cách đầy trách nhiệm, chải đến bóng lộn bằng tinh thần trách nhiệm thái quá.

Ông ta soi gương, ngắm đi ngắm lại, thưởng thức thấm thía vẻ đẹp của chính mình lắm lắm. Nhưng tôi thấy ông ta sao sao ấy. Ông ta quay lưng ra khoảng nắng, thành thử phần giữa mặt hơi tối, vì vùng đó trũng sâu xuống. Hễ nhìn vào vùng tối mà trũng này, tôi liền hớt hải ngó ra cửa sổ, chỉ sợ trời thoắt tối sầm lại. Vị tiến sĩ này, khổ sở giữa khung cảnh trời trong mây lành đẹp dường kia khiến người ta hoài nghi cả vẻ đẹp của tạo hóa. Con người này quá xấu dáng.

Ông ta như chẳng có tâm trí nghe hai bọn tôi nói chuyện gì, ấy thế nhưng lại không nỡ bỏ đi, vô vị, tẻ nhạt, vì tẻ quá thành ra hết sức chú ý đến bản thân mình. Ông ta khiến tôi chợt nghĩ rằng: Mặc âu phục và cách sống của con người này đều là một loại trách nhiệm.

Tôi không nhớ chúng tôi đang nói gì, ông ta bất chợt quay ngoắt mặt lại, đôi mắt hõm sâu khép lại một thoáng, vẻ đang lục tìm thứ gì trong đầu. Đến khi mở mắt ra, miệng ông ta chuẩn bị cười lại thay đổi ngay kế hoạch, thành tiếng thở dài se sẽ, ông ta hoàn toàn không moi được một tí gì trong bộ não. Trong lòng ông ta chắc cũng rỗng tuếch.

- Sao thế, tiến sĩ? - Giọng điệu anh Mai cho thấy anh không mấy kính trọng vị tiến sĩ này.

Tiến sĩ Mao như không cảm thấy điều đó. Nhân dịp thở dài, ông ta hé lời:

- Chao! Trời nóng nực khủng khiếp. Hy sinh lớn quá! - Ồng ta nói, vật người ra ghế chân duỗi thẳng đơ.

- Tiến sĩ Harvard, chịu đựng nỗi đọa đày Tây dương này hử?

Anh Mai quyết ý giỡn tiến sĩ Mao một phen chơi.

- Thật đấy! - Giọng tiến sĩ Mao gần như run rẩy - Thật đấy! Một con người không nên hứng chịu nỗi đọa đày ấy! Không bạn gái, không phim ảnh - Ông ta dừng một lát, hình như không nghĩ ra mình còn cần gì nữa. Khi ấy quá bứt rứt, liền buông sõng một câu:

- Chẳng có gì hết! - May mà mắt ông ta trũng thế kia, chứ không thì hẳn trào nước mắt từ lâu rồi, quả thực sự buồn tủi của ông ta không để đâu cho hết.

- Ước gì đang ở Mỹ nhỉ? - Anh Mai lại giúp thêm một nhịp.

- Đúng thế! Dù ở Thượng Hải chăng nữa: Phim ảnh rất khá, bạn gái thì nhiều - Ông ta lại ngưng bặt.

Ngoài điện ảnh và phụ nữ, có lẽ trong lòng ông ta chẳng còn gì khác. Tôi nghĩ thế. Tôi thử ông ta một câu:

- Tiến sĩ Mao, kịch phương Bắc hay, có thể xem thử.

Ông ta thừ người hồi lâu mới đáp:

- Nghe bạn bè nước ngoài nói, kịch Trung Quốc mọi rợ!

Chúng tôi hết chuyện nói. Tôi nhấp nhổm không yên. Khá lâu sau, tôi đề nghị đi tắm; trong thành vừa khai trương một nhà tắm mới toanh, nghe nói trang bị được lắm. Tôi vốn định rủ anh Mai đi, nhưng chẳng lẽ không mời tiến sĩ Mao lấy một câu, ông ta đang lù lù ở đây, huống hồ lại cô đơn thế kia.

Tiến sĩ Mao lắc đầu nói:

- Nguy hiểm đó!

Tôi lại mụ cả đầu; xưa nay tắm táp ở bên ngoài, đã dìm tôi chết ngoẻo bao giờ đâu cơ chứ.

- Đàn bà kỳ cọ! Bồn tắm bẩn đến khiếp! - Ông ta có vẻ rất sợ hãi.

À, hiểu rồi: Trong lòng ông ta, ngoài nước Mỹ, chỉ còn có Thượng Hải.

- Ở đây Thượng Hải - Tôi giải thích cho ông ta.

- Nhưng Trung Quốc đào đâu ra nơi nào văn minh hơn Thượng Hải? - Lần này thì ông ta cười rồi, cười không đẹp tí nào, miệng thiếu chút nữa thì choang vào trán, mũi chìm nghỉm đi đằng nào mất.

- Nhưng Thượng Hải sánh thế nào được với nước Mỹ! - Anh Mai cố ý pha trò.

- Đúng quá! - Tiến sĩ Mao lại trở nên trịnh trọng - Ở Mỹ nhà nào cũng có bồn tắm, phòng nào trong khách sạn cũng có bồn tắm! Muốn tắm hả, "róc rách" vừa mở nước: Nào nóng nào lạnh, tùy ý chọn, muốn thay đổi bồn khác hở, "ro" xả hết nước cũ đi, đổi bồn khác, róc rách - Ông ta cho liền một hơi, mỗi một từ "ro" đều mang theo ít sao bọt, cứ như miệng ông ta là con rồng nước đến từ Mỹ vậy. Sau cùng, ông ta bổ sung một câu vắn tắt - Người Trung Quốc bẩn tệ hại!

Thừa lúc tiến sĩ Mao "ro - ro" anh Mai đã đánh bộ áo dài, giày dép tề chỉnh.

Tiến sĩ Mao ra về trước, buông một tiếng:

- Tạm biệt nhé! - Giọng khó nghe vô cùng, tựa như trong lòng ngập tràn nước mắt ấy. Ông ta không nỡ cáo biệt chúng tôi, ông ta thực sự cô quạnh, thế nhưng ông ta lại không thể đến nhà tắm "Trung Quốc", bất kể sạch sẽ đến đâu!

Chúng tôi xuống lầu, ra đến sân, tôi trông thấy tiến sĩ Mao còn ngó theo chúng tôi qua một khung cửa sổ. Ánh nắng chiêu xiên xiên trên đầu ông ta, bóng của chiếc mũi in một vệt mờ trên khuôn mặt; phần thân trên của ông ta rung rung, vệt tối đó cũng thoắt dài thoắt ngắn. Chúng tôi bước gần tới cổng trường, tôi ngoái đầu nhìn, ông ta vẫn đứng đó; đơn độc chống chọi với ánh nắng, dường như thế.

Dọc đường và cả trong nhà tắm, anh Mai mấy lần định nhắc đến tiến sĩ Mao, tôi chẳng mấy hào hứng. Anh không tôn trọng ông ta, tôi không muốn ý kiến cá nhân anh nhuộm bất cứ sắc màu nào lên ấn tượng của tôi về ông ta, tuy nó chẳng được tốt đẹp gì cho lắm. Tôi vẫn không hiểu rõ ông ta, tôi chỉ cảm thấy ông ta giống một thứ gì đó ương ương dở dở. Ồng ta không phải hạng du thủ du thực ở Thượng Hải, cũng chẳng lớn lên tại Mỹ; không hoàn toàn giống người Trung Quốc cũng chẳng y chang người nước ngoài. Ông ta như thể không có gốc rễ. Nhận xét của tôi chưa chắc đã đúng, nhưng tôi không trông chờ anh Mai giúp đỡ; tôi muốn đích thân thấu hiểu con người ông ta. Một mặt tôi cảm thấy ông ta chán ngắt, mặt khác, tôi thấy ông ta khá thú vị! - Không phải đáng để qua lại, mà là một thứ thú vị về "người ba đảng của ba loài" vậy.

Ít lâu sau, tôi có được một cơ hội. Anh Mai nhờ tôi lên lớp thay anh. Anh Mai là người thế này: Chẳng ai biết anh bố trí sắp xếp ra sao, cứ mỗi học kỳ, chí ít anh xin nghỉ phép hai ba tuần. Lần này, theo anh tiết lộ, vì đứa cháu lớn của anh bị chó dại hỏi thăm, không về nhà vài ngày không xong.

Anh Mai giao chìa khóa cho tôi, tôi tuy không ngủ lại ở chỗ anh, nhưng nghỉ ngơi và soạn giáo án tại đó.

Được hai ngày, tôi biết ngay là không thể nghỉ ngơi và soạn bài ở đó được. Hễ thấy tôi vừa ló mặt, tiến sĩ Mao lập tức bay vù sang như một chiếc lông. Con người này cô đơn quá. Đôi khi khóe mắt ông ta ươn ướt như thế đang rấm rứt trong phòng, nghe thấy tiếng tôi đến vội ùa ra, chẳng buồn lau nước mắt. Bởi vậy tôi luôn giúp ông ta tươi tỉnh, tuy ông ta không để tôi yên lấy một giây.

Tuy đã sang mùa hoa cúc rồi, nhưng nắng thu phương bắc chưa đến mức khiến người khỏe khoắn phải bi thu mà than vắn thở dài tiếc thương. Tiến sĩ Mao vẫn u sầu như trước. Hễ nom thấy ông ta, tôi liền phải nhìn ngó sắc trời. Như thể ông ta biết tự tạo cho một thế giới gió mưa dầm dề, có thể đuổi sạch tất cả ánh nắng trong nhà ra ngoài vậy.

Phải mất mấy ngày, tôi mới hơi hơi hiểu ngôn ngữ của ông ta. Ông ta có thể mặc xác ai đó sững cả người vì ông ta. Ai thích sững người cứ việc, ông ta cứ một mực huyên thuyên chuyện của ông ta. Ông ta mặc kệ ngôn ngữ là vốn để truyền đạt tâm ý giữa người nọ với người kia; trò chuyện với ông ta, tôi chỉ còn mỗi cách so sánh: mình là một cái máy quay đĩa, ông ta cũng là một cái máy quay đĩa, ai nói gì, mặc, không cần bận tâm người nọ hiểu người kia hay không. Thảo nào anh Mai thường vẫn lấy tiến sĩ Mao làm trò cười, ai kết bạn nổi với một cái máy quay đĩa?

Bất kể ông ta như thế nào, tôi vẫn muốn điều trị căn bệnh buồn khổ cô tịch của ông ta; thanh xuân phơi phới thế kia không nên suốt ngày ủ rũ như vậy. Hẳn nhiên tôi không dám nêu lên chuyện tắm táp hay kịch kiếc. Loăng quăng ngoài phố vẫn nên chứ.

- Một mình thì đi thế nào được? Tiến sĩ thở dài.

- Một mình sao lại không thể đi được? - Tôi hỏi.

- Anh phải hưởng thụ đôi chút chứ - Ông ta phản công.

- Hả? - Tôi dám thề, tôi chưa từng mụ mị như thế bao giờ.

- Một mình dạo phố! - Mắt ông ta, tuy sâu hun hút, song vẫn tóe lửa bốc lên.

- Tôi đi cùng anh, thế nào?

- Anh lại không phải là phụ nữ - Ông ta thở dài sườn sượt.

Bây giờ tôi mới vỡ lẽ.

Khá lâu sau, ông ta mới bổ sung thêm một câu:

- Người Trung Quốc quá bẩn, phố xá cũng không sao dạo bước nổi.

Con đường này tắc nghẽn, tôi lại chuyển sang ngả khác.

- Rủ bạn bè đi ăn cơm, chơi quần vợt, hoặc một mình đọc tiểu thuyết, luyện chữ... - Tôi đưa ra một lô dài dằng dặc những phương pháp giết thời gian; có bộ âu phục trách nhiệm của ông ta lù lù ngay trước mặt, tôi chẳng dám hé ra việc nào có ý nghĩa hơn.

Câu trả lời của ông ta vẫn thống nhất, một câu có thể sao ra thành cả trăm bản: Không có phụ nữ, chẳng làm được gì ráo.

- Thế thì đi tìm phụ nữ là hay rồi! - Tôi ngắm chuẩn thế trận, phát động tổng tấn công: - Món đó thì đâu khó khăn gì.

- Nhưng hy sinh lại quá lớn! - Ông ta tiếp tục tung pháo hỏa mù.

- Hà! - Cũng hay, rốt cuộc tôi được dịp luyện tập chớp mắt rồi, ông ta đã dắt tôi vào mê hồn trận.

- Thì anh cũng phải mua món gì cho cô ta chứ? Anh phải mời cô ta đi xem phim, ăn cơm chứ? - Ông ta nói như để chất vấn tôi.

Tôi nhủ thầm "kệ thây ông".

- Đương nhiên là phải mua, đương nhiên là phải mời rồi. Đó là nguyên tắc của nước Mỹ, nhất định phải làm thế. Nhung người Trung Quốc nghèo quá; tôi, tiến sĩ Harvard, môi tháng mới được có hai trăm đồng Tây dương. Tôi, phải yêu cầu tăng lương thôi! Bớt xén khoản này đâu có được? - Rõ ràng ông ta đã vào trúng mạch, tôi chăm chú lắng nghe - Ví thử tiêu pha khoản tiền ấy, rồi đính hôn, kết hôn thuận lợi, cũng tốt thôi, tuy đính hôn phải tốn kém ra phết đấy, nhưng đâu thể không mua cặp nhẫn vàng? Giá vàng đắt như cứa thịt! Kết hôn tiêu tốn bao nhiêu tiền, tuần trăng mật ắt phải đi nơi khác chơi, đó là nguyên tắc Mỹ quốc. Nhà cửa cũng phải bày biện đôi chút: Giường đệm thì khỏi phải nói nhé, bồn tắm Tây dương thì tất yếu rồi, đàn piano phải có, sô pha không thể không có này, lại món thảm trải sàn nữa chứ. À, thảm Trung Quốc cũng tàm tạm, cả người Mỹ cũng chuộng! Ngần ấy thứ phải chi mất bao nhiêu? Đấy là còn thuận lợi, giả dụ anh tốn kha khá để mua đồ, mời xem phim, nhỡ cô ta không cần đến anh thì sao? Có phải quẳng tiền vô ích rồi không? Ở Mỹ thường xảy ra khối chuyện như thế đây, nhưng người Mỹ giàu có, lấy Harvard làm ví dụ nhé, giao tế giữa nam và nữ, riêng khoản tiền ăn kem, người Trung Quốc đã gánh không nổi rồi! Anh biết đấy...

Tôi đợi cả buổi, ông ta vẫn chưa nói tiếp, có lẽ quên đã nói những gì; hoặc giả bị cái chất "Trung Quốc" làm cho lú lẫn đi mất rồi.

Tôi hết phép với con người này. Ông ta chỉ giỏi làm buồn khổ ông ta thôi.

Trước khi anh Mai quay về, hàng ngày tôi được giảng giải về nề nếp của nước Mỹ, cùng những thứ mọi rợ của Trung Quốc, ấy là Thượng Hải còn đỡ một chút, bất hạnh thay Thượng Hải vẫn còn cơ man nào là người Trung Quốc, điểu này đánh tụt vị trí của Thượng Hải xuống đi rất nhiều. Về Thượng Hải ông ta sợ bao nhiêu chuyện: đàng điếm, trộm cướp, phóng hỏa giết người, mối đe dọa nào cũng có hết, đều do có người Trung Quốc - chứ không phải tại có tô giới. Người Trung Quốc trong mắt ông ta, y hệt hình ảnh người Trung Quốc trong phim Mỹ - Anh phải làm việc bằng tinh thần Mỹ, phải nhìn nhận sự việc bằng con mắt người Mỹ! - Khi ông ta nói đến đoạn cao hứng - vẫn còn tốt chán, ông ta nhờ bàn về nước Mỹ mà thi thoảng nở một nụ cười - dặn đi dặn lại tôi thế. Tinh thần Mỹ là cái gì cơ chứ? Ông ta không thể giảng giải cho tôi biết một cách đơn giản nổi. Ông ta phải từ từ dẫn ra người thật việc thật, ví dụ trong nhà bắt buộc có bồn tắm, ra khỏi cửa bắt buộc phải ngồi xe hơi, đâu đâu cũng có vườn điện ảnh, đàn ông đều có bạn gái, mùa đông nhiệt độ trong phòng hơn bẩy mươi độ, cánh phụ nữ xinh tươi, phòng khách phải trải thảm... Tôi xâu hết những chuyện này thành một chuỗi, song vẫn chưa hiểu tinh thần Mỹ cho lắm.

Anh Mai quay về, tôi cảm thấy hơi thất vọng: Tôi mong có thể liền một lúc hiểu hết về tiến sĩ Mao, nhưng anh Mai đã về, tôi không thể ngày ngày gặp con người đó. Điều này không thể oán anh Mai được. Thì ra, con chó cắn cháu anh không phải là chó dại, anh không thể không về sao?

Bài giao bài giảng đã đến đoạn nào xong xuôi, tôi rủ anh Mai đi ăn cơm. Tiện thể mời luôn tiến sĩ Mao. Tôi muốn xem xem rốt cuộc ông ta có thể tiếp nhận giao tế kiểu "Trung Quốc" được không, hay là ông ta không nỡ bỏ tiền.

Ông ta không đi. Nhưng từ chối một cách đầy thiện ý:

- Thanh niên chúng ta nên tiết kiệm tiền một chút, hà tất phải ra ngoài ăn cơm, trong tương lai chúng ta bắt buộc phải có một gia đình nhỏ, giống như nước Mỹ ấy. Giường đệm, bồn tắm, bếp điện - Nói đến đây, ông ta như nảy ra một niềm vui nho nhỏ - Một đôi uyên ương son trẻ hiện đại rì rào dưới ánh đèn điện sô pha, hai người cùng đọc "Tình yêu hôn nhân", đó là niềm sung sướng đích thực, thật đấy! Giờ phải tiện tằn một chút...

Không đợi ông ta trình bày hết, tôi lôi tuột ông ta đi. Về chuyện không chịu bỏ tiền, coi như ông ta có kế hoạch và mục đích riêng, giả dụ lời của ông ta đáng tin cậy; được thôi, tôi xem xem ông ta có biết hưởng thụ một bữa ăn ngon hay không?

Đến nhà hàng, tôi mới vỡ lẽ, ông ta thực sự không biết hưởng thụ! Ông ta không gọi món, ông ta không hiểu món ăn Trung Quốc.

- Nước Mỹ cũng có vô số quán ăn Trung Quốc, thật đấy. Nhưng, đồ ăn Trung Quốc rốt cuộc không vệ sinh gì cả. Thượng Hải được đấy, ăn món Âu cũng tiện. Hẹn bạn gái dùng món Âu, phải thế chứ!

Tôi định bảo ông ta đổi họ thành "Mao Nhĩ"[*] hay "Mao Lợi Tư"[*]. Chẳng rất "mốt" sao? Nhưng lại ngại. Tôi và anh Mai gọi món.

[*]Chu thich: Marx

[*]Chu thich: Morris

Thức ăn bê lên, tiến sĩ Mao không mặn mà dùng cho lắm. Gương mặt trũng của ông ta như sắp nhỏ nước xuống, thỉnh thoảng đờ người nhìn bàn ăn. Anh Mai lại đùa:

- Ước gì có hai ba cô bạn gái, tiến sĩ hỉ?

Tiến sĩ bỗng bừng tỉnh:.

- Một nam một nữ; đông người không hay. Thật đấy. Trong cái gia đình nhỏ của mình, hai người hầm một con gà nhấm nháp, đầm ấm bao nhiêu!

- Thế anh không bao giờ mời khách? - Anh Mai ngẩn mặt giả bộ ngô nghê.

- Người Mỹ không kết bạn bừa bãi như người Trung Quốc, người Trung Quốc quá mải mê kết bạn, quá không biết trân trọng thời gian, không ổn tí nào - Tiến sĩ Mao, vẻ ta đây lên mặt dạy dỗ anh Mai.

Tôi và anh Mai không nổi sùng; vị tiến sĩ này quá thành thực, ông ta thật lòng ghét mọi thứ của người Trung Quốc - trừ thảm. Ồng ta sinh ra ở Trung Quốc, một sự hy sinh quá lớn, nhưng chẳng phép gì thay đổi được. Ông ta đành căm ghét người Trung Quốc, và hòng dồn hết sức lực tổ chức một cái gia đình nhỏ kiểu Mỹ, soi chút ánh sáng cho số phận mình và Trung Quổc. Hẳn nhiên, tôi không tin cái tinh thần Mỹ lại giống với những gì ông ta hình dung, nhưng những gì ông ta nhìn thấy ấy, ông ta đều thành kính sùng bái, bồn tắm và sô pha là linh hồn của ông ta. Tôi cũng nghĩ rằng, giả dụ ông ta sống tại Mỹ vẫn bằng cái cách như ở Trung Quốc, chắc ông ta chẳng nhìn thấy gì sất. Nhưng đích thực ông ta đã nom thấy vườn điện ảnh của nước Mỹ, đích thực đã chứng kiến người Trung Quốc không sạch sẽ, vệ sinh, thế thì hết phép rồi.

Vì lẽ đó tôi càng chú ý đến ông ta hơn. Tôi quyết tâm không trị dứt nỗi sẩu khổ của ông ta, cũng chẳng định cắt xẻ cái linh hồn ấy. Tôi muốn mở to mắt xem rốt cuộc ông ta sẽ ra sao.

Tuy tôi không lên lớp thay cho anh Mai nữa, nhưng tôi vẫn liên tục đến chỗ anh, thành thử cũng thường xuyên gặp tiến sĩ Mao. Có lúc anh Mai không ở nhà, tôi liền sang phòng tiến sĩ Mao ngồi chơi.

Đổ đạc trong phòng tiến sĩ Mao chẳng có bao lăm. Một chiếc giường nhỏ, bên cạnh kê hai chiếc tủ sắt một to một nhỏ. Một cái bàn con con, trải khăn trắng tình, bày vài món đổ dùng văn phòng toàn là hàng Mỹ. Hai chiếc ghế, một để ngồi, một luôn chễm chệ một chiếc máy đánh chữ. Còn một cái xích đu khác, trên đó đặt một chiếc gối thêu con rồng uốn lượn chuyên để bán cho người Tây dương. Hễ rảnh rỗi ông ta liền ngồi lắc lư trên chiếc ghế xích đu này, có lẽ muốn xoay qua xoay lại cho ánh nắng hết đường xâm chiếm, hoặc giúp ông ta đạt được mục đích đó nhanh hơn một chút. Trên bệ cửa sổ bày mấy quyển sách Tây. Trên tường có lá cờ tượng trưng của trường Harvard, mấy tấm ảnh chụp ở Mỹ. Thứ mang hương vị Trung Quốc nhất trong phòng chính là bản thân tiến sĩ Mao, tuy chắc rằng ông ta không muốn thừa nhận.

Tôi sang phòng ông ta không chỉ một lần, song chưa từng thấy ông ta bày một chậu hoa tươi, hoặc giả dán một bức tranh hay tấm ảnh phong cảnh nào lên. Đôi khi ông ta lén ngắt một đóa hoa nhỏ trong vườn trường, thì chỉ để cài lên bộ âu phục của mình. Lý tưởng của con người này hoàn toàn chỉ là sáng tạo cho một gia đình nhỏ mô thức kiểu Mỹ, ấm cúng sạch sẽ cho một cá nhân. Tôi ngờ rằng, ví thử cái gia đình nhỏ lý tưởng ấy thành sự thực vào một ngày gần đây, hẳn ông ta sẽ buông rèm cửa sổ - kể cả sắc trời bên ngoài cũng biến thành tím sẫm, hoặc giả mặt trời mọc từ đằng tây, ông ta cũng chẳng bỏ chút thời gian đưa mắt liếc một cái. Có lẽ ngoài bản thân và chút ít tinh thần Mỹ trong con người ông ta, tất cả vũ trụ không hề tồn tại.

Thực tế cũng chứng minh điều này. Chủ đề trò chuyện của chúng tôi giới hạn ở tiền bạc, âu phục, phụ nữ, kết hôn, điện ảnh Mỹ. Đôi khi tôi nhắc đến chính trị, tình hình xã hội, văn học nghệ thuật hay mấy chuyện bất chợt nghĩ ra hoặc một sự kiện xôn xao một dạo, ông ta đều hết sức thờ ơ. Được cái, ví thử mấy chuyện ấy có dây mơ rễ má với nước Mỹ ông ta vẫn sẵn sàng đãi bôi qua loa vài câu, khổ một nỗi là ông ta lại nói theo cách khác. Chẳng hạn, bàn về chính trị nước Mỹ, ông ta liền kể cho tôi một sự thực: Khi nghị sĩ Mỹ A kết hôn, cặp vợ chồng mới ngồi ô tô đến nhà thờ B nào đó, huy động bao nhiêu cảnh sát giữ gìn trật tự, vì người xem bên ngoài nhà thờ đông như kiến! Những chuyện khác cũng vậy, chính trị, mỹ thuật và bất cứ thứ gì... trong tâm trí ông ta đều là vật phụ thuộc vào hình ảnh rực rỡ của kết hôn và văn hóa giai cấp trung lưu. Còn về phần Trung Quổc, Trung Quốc vẫn có nhiều vấn đề chính trị, mỹ thuật xã hội v.v... Ồng ta ghét nhất điện ảnh Trung Quốc; điện ảnh Trung Quốc dở tệ, đương nhiên mọi thứ khác cũng chán phèo. Điểm không hài lòng nhất trong điện ảnh Trung Quổc chính là nam nữ không ghì chặt và hôn nhau cuồng nhiệt.

Mấy năm sống ở Harvard đã giúp ông ta có được chút tinh thần Mỹ ấy, điều này tôi đã rõ. Tôi chỉ không hiểu: Lẽ nào ông ta không phải sinh ra ở Trung Quốc? Gia đình ông ta không phải gia đình Trung Quốc sao? Ông ta không sống ở Trung Quốc - trước khi sang Mỹ ít nhất đến chừng hai mươi tuổi sao? Tại sao không thấu hiểu, và thờ ơ với Trung Quốc đến thế?

Tôi đã thử thăm dò bao nhiêu lần, tình hình gia đình ông ta như thế nào, kinh nghiệm học hỏi và làm việc ra sao...? Hừm! Miệng ông ta kín hơn miệng bình! Kể cũng lạ thật, ông ta chuyên môn vui đâu chầu đấy, xán vào người ta huyên thuyên tầm phào, nhưng ông ta lại không chịu nói về chuyện của mình!

Qua lại với ông ta gần một năm, tôi nhận ra một điểm: Vị tiến sĩ này không giản đơn như tôi vẫn nghĩ. Dù ông ta thực sự đơn giản, nhưng kiểu đơn giản của ông ta lại khác hẳn. Phải chăng ông ta có cái giới luật mang tính tôn giáo nào đó khiến ông ta đơn giản mà lại thần bí?

Ông ta đã không hé miệng, tôi đành đánh giá vẻ ngoài của ông ta lại từ đầu. Mỗi lần tôi hỏi đến chuyện cá nhân của ông ta, tôi đều để tâm quan sát sắc mặt ông ta. Ông ta không trả lời vào câu hỏi của tôi, nhưng gương mặt không hẳn kín như bưng. Ông ta nhất định không phải là người xấu, gương mặt đã bán đứng ông ta. Điều bí ẩn sâu kín của ông ta chưa thể chiến thắng hoàn toàn sự giản đơn của ông ta, nhưng ông ta cần phải bí mật. Hoặc giả đó là vì tiến sĩ Mao vốn dĩ là tiến sĩ Mao; bằng không, còn có lý do nào nữa. Con người phải có thứ gì đó nắm bắt được bản thân. Có người luôn luôn treo nó bên mép, kẻ mãi mãi cất giấu nó trong lòng. Cái khác nhau, còn ý vị thì thế cả thôi. Tiến sĩ Mao muốn buộc bản thân vào trái tim chính mình. Tinh thần Mỹ và cái gia đình xinh xắn lý tưởng của ông ta treo sát bên mép, nhưng phía sau đó, phải ở "mặt sau" đó, mới là một tiến sĩ Mao đích thực.

Gương mặt ông ta, khi tôi thử dò xét, dường như đặc biệt trũng sâu. Từ nơi trũng nhất phát ra một vùng tối, từ từ trùm kín khuôn mặt, giống một đám sương mù. Đôi mắt, vốn đã sâu hun hút, khó mà trông thấy, giờ càng thụt vào sâu hơn, tựa như muốn trốn biến đi. Hàm răng thì suốt ngày cái nọ chen lấn nhau khe khẽ nghiến vào cái kia, vành tai khẽ động đậy, tựa hồ như tất cả những chuyện trong lòng ông ta đều đóng kín lại, chỉ sợ gió lọt vào. Sau đó, mặt ông ta lại đột nhiên lóe sáng, lớp bóng tối trên mặt dần dần cuộn lại, cuộn cả vào mái tóc!

- Đúng thế! - Ông ta nói bâng quơ, chẳng có lấy một phần vạn dính dáng đến điều tôi hỏi. Ông ta đã thắng, nửa ngày trời rồi vẫn liếc chừng tôi vài cái liếc bằng đuôi mắt.

Cứ như thể vừa sinh ra ông ta đã là tiến sĩ nước Mỹ, tuy biện pháp đã cắt giảm hết mức, nhưng chuyện thì hoàn toàn hỏng. Hỏi không hỏi được, đành đợi vậy. Đằng nào ông ta cũng không thể cứ ngồi ì trên cái ghế đó lắc đi lắc lại hoài mà chẳng làm gì khác.

Cái kim trong bọc lâu ngày rồi cũng lộ ra. Quả nhiên, tôi đã đợi được đến khi xảy ra một chuyện.

Gần vào dịp hè, tôi đến chỗ anh Mai. Gặp anh Mai, đương nhiên tôi cũng mong gặp được con người tượng trưng cho nỗi muộn phiền kia. Nhưng tiến sĩ Mao chẳng hề ló dạng.

Tôi nghiêng đầu ra ngoài hỏi:

- Vị kia đâu?

- Đã hơn một tuần nay không thấy mặt đâu cả! - Anh Mai đáp.

- Sao thế?

- Nghe mọi người nói, ông ta đòi nghỉ việc, tôi chỉ biết loáng thoáng thế thôi - Anh Mai cười cười - Cậu biết đấy, ông ta có chuyện riêng với ai bao giờ đâu.

- Mọi người nói sao? - Quả thật tôi rất nóng lòng muốn biết.

- Họ bảo, ông ta ký hợp đồng ba năm với nhà trường.

- Anh thì mấy năm?

- Chúng tôi đều không có hợp đồng, nhà trường chỉ gửi chúng tôi tờ tuyển dụng một năm.

- Sao mỗi mình ông ta lại có vậy?

- Tinh thần Mỹ mà, không ký hợp đồng ông ta cóc làm. Đúng là tiến sĩ Mao!

Anh Mai nói tiếp:

- Họ bảo, hợp đồng của ông ta gồm Trung văn, Anh văn, mỗi thứ một bản, tuy trường học toàn người Trung Quốc. Có lẽ tiến sĩ Mao không tin tưởng chữ Trung Quốc cho lắm. Họ kể, hợp đồng viết rằng trong vòng ba năm không bên nào được rút chân, không được đòi tăng lương, cũng không cho phép cắt giảm lương. Hai bên ký tên, đúng tinh thần Mỹ. Nhưng, làm được một năm, chẳng phải sắp nghỉ hè rồi sao, ông ta đòi tăng lương, bằng không, hết hè ông ta không trở lại nữa.

- Ô hô! - đầu óc của tôi quay một vòng - Còn hợp đồng nữa chứ?

- Khi lập hợp đồng là theo tinh thần Mỹ, khi phá hợp đồng thì theo tinh thần Trung Quốc - Giọng nói của anh Mai ít khi tỏ ra cay nghiệt.

Nhưng câu này của anh ngầm lộ ra không ít sự mỉa mai. Cũng có thể anh Mai chỉ thuận miệng mà nói vậy thôi, có điều lại nói rất trúng tâm tư tôi.

- Còn nhà trường? - Tôi hỏi.

- Theo họ nói, nhà trường từ chối yêu cầu của ông ta; hẳn nhiên thôi, có hợp đồng mà lại.

- Thế còn ông ta?

- Ai mà biết nổi! Chuyện riêng của ông ta có cho ai biết đâu. Giao thiệp gì với nhà trường, ông ta cũng chỉ viết thư, ông ta có máy chữ.

- Nhà trường không tăng lương, ông ta có làm nữa không?

- Ông ta chẳng bảo với cậu thì còn ai biết! - Anh Mai như có vẻ coi thường tôi - Ông ta không làm, là ông ta tự đánh mất sự tín nhiệm; nhưng tôi biết chắc, nhà trường sẽ không vác bản hợp đồng đi kiện tụng ông ta đâu, ai công đâu làm chuyện rỗi hơi đó.

- Anh cũng không rõ lý do ông ta đòi tăng lương? - Ôi! Tôi là anh chàng quá hồ đồ! Tôi tự động bóc mẽ mình một câu, nhung từ một mặt khác, lại đưa ra cái ý: "Hình như nên có người đứng ra khuyên nhủ ông ta một chút!".

- Cậu cứ đi mà khuyên; đùng để phần cho tôi! - Anh Mai lại cười - Mời ăn cơm, không ăn; mời uống rượu, không uống; hỏi cái gì, không nói; điều ông ta muốn nói, không ai muốn nghe; con người như thế, ai có phép gì khuyên nhủ nổi như một người bạn được?

- Chẳng phải chính anh bảo tiên sinh này khá thú vị sao?

- Còn phải xem xét trên khía cạnh nào chứ. Các nhà tâm lý học cũng thấy bệnh nhân rất thú vị đây thôi.

Ngữ khí anh Mai không bình thường lắm, tôi lặng nghe. Nghĩ một lúc, tôi lại hỏi:

- Anh Mai, tiến sĩ Mao có lỗi gì với anh hả? Tôi biết xưa nay anh không tôn trọng gì ông ta, nhưng...

Anh cười:

- Đúng là tai vẫn gần mắt, cậu này, thật...! Gần đây tôi cũng hơi ghét ông ta thật. Từ sáng đến tôi, chỉ phụ nữ, phụ nữ và phụ nữ, ai chịu nổi.

- Đó vẫn chưa phải là nguyên nhân chính - Tôi bồi thêm một câu. Tôi biết rất rõ cách đôi nhân xử thế của anh Mai: Anh không dễ dàng khâm phục ai; nhưng ví thử có ai có lỗi với anh thật, anh cũng không tùy tiện bàn luận về người đó. Ngay từ đầu anh không kính trọng tiến sĩ Mao, nhưng chẳng ẩn chứa ý tứ gì, thành thử bông đùa một cách rất tự nhiên; còn lúc này, tiến sĩ Mao hẳn đắc tội với anh thật, nên anh không muốn nói ra. Có điểu, tôi hỏi thẳng ra thế, anh cũng hết cách tránh né.

- Kể cho cậu nghe vậy! - Anh cười rất gượng gạo - Một hôm, tiến sĩ Mao hỏi tôi, Mai tiên sinh, anh cũng là giáo sư à? Tôi đáp, nhà trường mời tôi, tôi biết làm sao được. Nhưng, ông ta bảo, anh hẳn không phải là tiến sĩ Mỹ? Tôi đáp không phải; tiến sĩ Mỹ thì đáng mấy đồng một tấm bằng. Tôi hỏi ông ta thế. Ông ta không nói năng gì, song mặt xanh lè ra. Thế vẫn chưa gay cấn đâu, từ hôm đó, ông ta như để bụng tôi. Thậm chí còn viết thư chất vấn hiệu trưởng. Mai tiên sinh chưa có học vị tiến sĩ, tại sao lại được hưởng mức lương ngang một người đã có học vị tiến sĩ - hơn nữa còn là của nước Mỹ? Tôi không hiểu ông ta dò hỏi ở đâu ra mức lương của tôi.

- Ông ta cũng không phải, đáng lý không nên để anh xem bức thư đó.

- Ông hiệu trưởng không hồ đồ thế đâu; tiến sĩ Mao cũng đưa cho tôi một bản bức thư đó, không ký tên. Có lẽ ông ta không thèm làm đồng bọn với tôi - Anh Mai cười càng gượng gạo hơn - Đám thanh niên đều kiêu căng cả.

- Hừ, chắc đây chính là lý do ông ta đòi tăng lương?

- Tôi đoán.

- Không biết. Chúng ta nói chuyện khác đi!

Từ biệt anh Mai, tôi định bụng trước khi nghỉ hè, ít ra cũng nên gặp tiến sĩ Mao một lần, biết đâu hỏi thêm được điều gì đó. May thay, tôi bắt gặp ông ta trên phố. Ông ta bước vội bước vàng, mày cau vào, mặt trũng xuống như một cái muôi. Ông ta không giống đang bước đi, mà như muốn trút cả một bụng giận dữ ra ngoài.

- Đi đâu đấy, tiến sĩ? - Tôi gọi ông ta.

- Đến bưu điện đấy! - Ông ta đáp, rút khăn tay ra, không phải chiếc khăn nhét trong túi ngực kia - lau lau mồ hôi.

- Sắp nghỉ hè rồi, định đi nghỉ ở đâu?

- Đúng thế! Nghe nói Thanh Đảo rất nhộn nhịp, giống nước ngoài. Có lẽ đi xem sao. Có điều...

Tôi biết chắc ông ta định nói gì, thành thử chẳng đợi cái "có điều" hạ hồi phân giải, liền hỏi luôn:

- Hết hè có quay lại nữa không?

- Chưa chắc! - Có thể là vì tôi hỏi quá gấp, đâm ra ông ta lỡ miệng mà đáp: "Chưa chắc đương nhiên là có ý không trở lại nữa". Ông ta lập tức nhận ra điều đó, liền, nói trớ ngay: "Chưa chắc đã đi Thanh Đảo". Vờ như không nghe thấy câu hỏi của tôi - Nhất định tôi phải đến Thượng Hải, xem phim mấy lần cho đã; làm việc ở phương bắc, hy sinh lớn quá, chẳng có phim hay để xem! Lên trường thư giãn thôi, đỡ quạnh quẽ! - Lời chưa kịp nhả ra, ông ta đã bỏ đi, từng bước chân mau mắn lộ rõ vẻ muốn chạy.

Tôi không hiểu cái "đỡ quạnh quẽ" của ông ta là chỉ ai. Còn ông ta đi hay ở, đành chờ hết hè gặp lại ông ta xem vậy.

Vừa thi xong, tiến sĩ Mao đã đi ngay, nhưng chưa dọn hết đồ đạc mang theo. Theo anh Mai dự đoán: Hẳn tiến sĩ đến nơi khác tìm việc; nếu thành công thì kiên quyết không quay về theo tinh thần Trung Quổc, mặc xác cái hợp đồng ký mấy năm. Còn ví thử không tìm được việc thì sẽ trở lại, biểu hiện cái tinh thẩn Mỹ. Sự thực hình như ăn khớp với dự đoán này: Tiến sĩ Mao xin lĩnh ba tháng tiền lương. Chúng tôi tuy không muốn ước đoán xấu về người khác, nhưng hành động của ông ta khiến mọi người không thể nghĩ tốt về con người đó được. Lương nắm chắc trong tay rốt cuộc vẫn an toàn hơn, ông ta chỉ tin tưởng bản thân, bởi lẽ ông ta thường xuyên khiến người khác không tin tưởng gì ông ta.

Kỳ nghỉ hè trôi qua, tôi lại lên lớp thay anh Mai. Nguyên nhân nghỉ phép lần này, không chừng chính bản thân anh Mai cũng chẳng biết chắc, anh có bảo với tôi đâu. Cứ như thế anh đinh ninh đã có tôi đây làm thay rồi, có lý do hay không chẳng can hệ cho lắm.

Tiến sĩ Mao đã quay lại rồi.

Ai cũng cảm thấy chuyến trở lại lần này thật chẳng mấy hồ hởi, ngoài chính bản thân tiến sĩ. Ong ta rất đỗi rạng rỡ. Nếu nỗi ưu phiền của ông ta khẽ gây cho mọi người một sự đồng cảm nào, thì gương mặt tươi cười hớn hở kia xem ra cũng có phần xa xỉ. Ông ta dự định bày tỏ niềm sung sướng trong lòng bằng nụ cười tươi tắn, nhưng khổ nỗi gương mặt kia không ủng hộ ông ta. Hễ ông ta hé miệng thì cứ y như sắp ngáp, mãi đến khi trông rõ ràng mắt ông ta không ngấn nước, tôi mới chợt bừng tỉnh. Hóa ra ông ta cười. Cười như thế thì cười hay không cũng chẳng can hệ gì. Ông ta cứ cười mãi, gây cho tôi cảm giác sắp nổi gai ốc.

- Từ Thanh Đảo về đấy à? - Tôi cất tiếng chào. Ông ta đang đứng sẵn ở cửa.

- Không. Thanh Đảo nhạt hoét, thật đấy! - Ông ta cười.

- Hả?

- Vào đây, vào đây, cho cậu xem vật báu này!

Tôi, theo ông ta vào, như một gã ngớ ngẩn.

Phòng vẫn hệt như hồi trước, chỉ khác ở chỗ là có thêm một cái màn trên giường. Ông ta thò tay vào màn lấy một vật gì đấy, giấu sau lưng - Đoán đi!

Tôi chả hứng thú với trò đó.

- Anh bảo phụ nữ phương nam hay phụ nữ phương bắc hơn? - Tay ông ta vẫn khư khư sau lưng.

Tôi không bao giờ trả lời những câu hỏi kiểu đó.

Ông ta thấy tôi không có ý định trả lời, đành chìa tay ra phía trước, đưa cho tôi một tấm ảnh. Tiếp đó kề sát vai vào vai tôi, nét cười trên mặt hình như sắp chạy sang cả mặt tôi thật hay sao ấy; im lặng; miệng ông ta cũng không biết làm thế nào, cứ chép chép thành tiếng.

Ảnh phụ nữ. Xem ảnh để phán đoán xấu đẹp quả không gì dễ mắc lừa hơn, tôi không muốn nói người con gái ấy nom thế nào. Những cái cho tôi nhận thấy, chẳng qua chỉ là tuổi tác chưa lớn, tóc uốn khá phức tạp và khúc mắc, gương mặt nhỏ, cằm tròn, mắt to. Không khó coi, cứ bình bình vậy thôi.

- Đính hôn rồi à, tiến sĩ? - Tôi cười hỏi.

Tiến sĩ toét miệng cười đến nỗi chẳng thấy mắt mày đâu, nhưng không thốt tiếng nào.

Tôi lại ngắm tấm ảnh, trong lòng bất giác thấy buồn. Dĩ nhiên, tôi càng không cố đoán định điều gì thay cho cô ta, có điều giả dụ tôi là một người con gái...

- Hy sinh lớn quá! - Tiến sĩ khó nhọc lắm mới hé được lời - Nhưng đáng, đáng lắm! Phụ nữ hiện đại khôn ngoan gớm, mới hai mươi mốt tuổi, chuyện gì cũng biết, như thể đã từng du học ở Mỹ vậy! Lần đầu chúng tôi xem phim xong, cô ấy nằng nặc đòi về, khôn ngoan chưa! Lần thứ hai, vẫn không cho tôi cầm tay, khôn ngoan quá! Vé xem phim đều do tôi chịu! Lần xem phim sau cùng mới cho phép tôi hôn một cái, thật đấy! Tốn bao nhiêu tiền cũng đáng, chẳng mất không đâu; tôi sắp lên đường, cô ấy tiễn tôi ra bên xe, mua hoa quả cho tôi! Tốn ít tiền, đáng lắm, cô ấy vĩnh viễn là của tôi; kiếm loại đàng điếm đâu có được, tốn bao nhiêu cũng tiếc, vả chăng còn nguy hiểm nữa! Bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi phải tiết kiệm tiền thôi.

Tôi chen vào một câu:

- Xưa nay anh tiêu không nhiều lắm thì phải?

- Ôi chao ôi! - Đôi mắt dưới đáy vũng sâu tóe lên con phẫn nộ - Sao không tốn tiền cơ chứ! Một con người, ăn cơm, giặt quần áo. Món nào chả động đến tiền. Hai người chẳng qua cũng tiêu chừng ấy; cơm, tự nấu; quần áo, tự giặt. Vợ chồng phải giúp đỡ lẫn nhau chứ!

- Vậy thì, hà tất phải đặc biệt tiết kiệm tiền?

- Giường đệm có cần không? Bổn tắm có cần không? Sô pha có cần không? Tuần trăng mật có cần tiền không? Gia đình là gia đình? - Ông ta nghĩ ngợi - Kết hôn mời cả mục sư cũng phải gửi tiền chứ!

- Mời mục sư làm gì?

- Trịnh trọng, người có thể diện bên Mỹ đều mời mục sư làm phép cưới, thật đấy! - Ông ta lại ngẫm nghĩ - Lệ phí nữa! Cô ấy là người Thượng Hải; hai người đi từ Thượng Hải tới đây, ngồi vé tàu hạng hai! Trung Quốc thật không mê nổi, vé loại ba không sao ngồi nổi! Cậu thử tính xem tổng cộng cần bao nhiêu tiền hử? Cậu tính thử xem! - Miệng ông ta lẩm nhẩm, ngón tay cũng sẽ sàng co lại, rõ ràng ông ta đang tính toán khoản tiền đó. Chắc nhất thời tính chưa thông, ông ta cau mày lại: Liền ngay đó lại cười - Bao nhiêu cũng phải chi! Giả dụ cậu mua một viên kim cương năm nghìn đồng, chẳng phải đeo cho người ta ngắm sao? Một mỹ nhân phương nam đến miền bắc, của tôi, không vinh dự sao? Thật đấy, cô ấy là cô gái đẹp nhấát Thượng Hải, còn không đáng hy sinh ư? Một con người luôn luôn phải hy sinh!

Từ đầu chí cuối tôi vẫn không hiểu thế nào là hy sinh.

Dạy thay anh Mai hơn một tháng, tai tôi cả ngày cứ ong ong nào là Thượng Hải, nào là kết hôn, hy sinh, vinh dự, giường đệm... có lúc tôi nhầm cả ý này sang ý khác rồi tiếp tục phải sửa lại từ đầu; ông ta đã khiến tôi mụ mị cả đầu óc. Tôi thiết tha mong mỏi anh Mai về sơm sớm để được nghỉ ngơi tĩnh lặng một vài ngày. Quan sát tính cách con người là công việc đấy ý nghĩa, có điều nếu ông ta dính nhằng nhằng như bánh chưng ngày tết thế này, dính chặt cả tim gan tôi vào, thì cũng có lúc tôi không chịu nổi.

Còn năm sáu ngày nữa thì anh Mai về. Đúng lúc này tiến sĩ Mao lại trưng bày một bộ dạng mới. Ông ta như thế một bài luận đầy mẹo mực ấy, chính vào lúc khiến người ta sắp chán ngấy rồi lại thòi ra một câu đến mỹ miều.

Niềm phấn chấn của ông ta đã qua đi. Ngoài giờ lên lớp, ông ta ở lì trong phòng đánh máy lách ca lách cách. Lách cách một chặp, cửa mở ra, men theo chân tường, hệt chú cá nhỏ, ông ta xuống lầu đi gửi thư. Đi thế nào, về thế ấy; thình thình bước trong phòng. Quành đi quành lại, thở dài một tiếng rất to, tựa như muốn thở cho sập cả tòa lầu để cùng lôi nhau chết cả nút. Thở dài xong, ông ta sang tìm tôi, nụ cười nhàn nhạt rất đỗi thảm hại hăn trên mặt.

- Ôi! - Ông ta bước vào, thở đánh phù một hơi trước đã, cứ như trong phòng rặt bụi là bụi. Sau đó - Bọn anh sướng thật đấy, chẳng có gì phiền muộn, đau lòng!

Lời lẽ của ông ta vẫn cứ theo cái phong cách khác thường kiểu ấy, khiến người ta hết cách tiếp lời. May sao ông ta biết tự động giải thích:

- Không thể sống nổi nữa, thật đấy! Khóc cũng vô ích, thời gian cứ chậm rì rì! Hận nỗi không thể bay đến Thượng Hải!

- Một ngày viết mấy bức thư? - Tôi tìm ra một câu hỏi.

- Một trăm bức cũng vô tác dụng! Tôi đã bảo cô ấy, tôi muốn tự sát đây! Thế này không phải là cuộc sống, không phải! - Tiến sĩ lắc đầu liên hồi.

- May mà chưa đầy ba tháng nữa thì nghỉ tết - Tôi an ủi ông ta - Chắc kết hôn vào dịp nghỉ tết chứ?

Ông ta không đáp, đi lại trong phòng. Hổi lâu mới nói:

- Kể cả ngày mai cưới, hôm nay vẫn bứt rứt!

Tôi đang vắt óc tìm ý nào đó để nói, ông ta bỗng như quên phắt mọi chuyện quan trọng, chạy vèo ra như một tia chớp. Vừa về đến phòng mình, lách cách, lách cách, cái máy chữ lại vang lên rào rào.

Anh Mai về rồi. Trước khi nghỉ tết tôi không tìm ông ta. Qua tết, ông ta gửi cho tôi một tấm thiếp hồng. In bằng Anh văn. Tôi vui mừng thay cho tiến sĩ Mao, đã đạt được mục đích rồi, sau này chỉ còn nỗ lực cho phương diện khác của cuộc sống.

Hai ba tuần sau tết, tôi đến chơi với anh Mai. Trò chuyện dăm ba câu lại nhắc đến tiến sĩ Mao.

- Tiến sĩ Mao thế nào rồi? - Tôi hỏi - Anh trông thấy bà tiến sĩ chưa?

- Chẳng ai thấy chị ta cả; ngoài giờ dạy ông ta không ló mặt ra, cả họp giáo vụ cũng không thấy bóng dáng nốt.

- Hai chúng ta sang thăm đi?

Anh Mai lắc đầu:

- Người ta không gặp; trong đám đồng nghiệp có người đã bị ê mặt rồi.

Chuyện đó khơi gợi lòng hiếu kỳ của tôi. Chẳng bảo anh Mai, tôi lẳng lặng đi thám hiểm.

Tiến sĩ Mao sống trong năm gian phòng mái bằng, ba mặt xung quanh là hàng tùng dày thấp lè tè. Xa xa, tôi trông thấy một thiếu phụ đứng trong sân, người mảnh mai, mặc chiếc áo dài màu đen, mặt hướng về phía nắng. Cô ta không hề nhúc nhích, tay buông xuôi, mái tóc xổ tung như khảm vào khoảng không quạnh quẽ lạnh lẽo. Tôi bước chầm chậm, cô ta vẫn im lìm như pho tượng. Cổng nhà là hai cây tùng khá cao, kẹp lấy một mái lều xanh mờ thâm thấp. Tôi đã tiến sát chiếc cổng be bé ấy, đối diện với cô. Cô ta như bị giật mình, nhìn tôi một thoáng rồi quay vội vào trong, đôi mắt to ngơ ngác, tội nghiệp như chú dê con lạc đường, tóc dày đen nhánh, hợp với bộ áo dài màu đen bên dưới thành một dải đầy ai oán, bi thương. Cô ta bước vội vàng, như dứt bỏ hết ánh nắng ở bên ngoài nhà. Tôi không gọi cửa, từ từ quay ra. Lòng tôi thoắt giá lạnh, rồi cảm thấy nỗi bứt rứt mơ hồ. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn nhớ rõ người thiếu phụ áo đen này.

Có lẽ đại đa số đàn ông đều tỏ vẻ nghĩa hiệp đặc biệt với phái nữ. Tôi gần như trở thành tay trinh thám nghiệp dư của cô ta. Tiến sĩ liệu có thường đưa cô đi chơi, ví như đi xem phim hay không? Giường của ông ta liệu có phải là giường đệm? Bồn tắm? Sô pha nữa? Khi ông ta cà kê với tôi mấy chuyện này, tôi cảm thấy ông ta chẳng ra dáng nam tử. Nhưng từ bữa trông thấy cô, mớ chuyện vớ vẩn này lại đè nặng trong lòng tôi, dĩ nhiên, giá trị của những thứ ấy nhờ cô mới có được. Tôi tìm đủ mọi cách để dò hỏi, thậm chí hốì lộ cả người hầu nhà họ Mao - họ thuê một cô hầu gái. Điều tôi dò hỏi được là họ chưa từng ra ngoài đi chơi, chẳng giường lò xo lẫn sô pha. Họ ăn thịt gà một lần, hàng ngày chưa đến chín giờ đã đi ngủ...

Hình như tôi hiểu đôi chút về tiến sĩ Mao rồi. Những gì ông ta kể lể - ngoài việc ông ta có một hầu gái không thể không cần - còn lại toàn những điều ông ta coi là không cần thiết; nguyên nhân của sự không cần thiết là do ông ta yêu tiền quá độ. Ông ta mơ tưởng làm một người Mỹ; tới khi tiền đã rủng rỉnh rồi, ông ta bèn giơ ngay cái món "chồng là cái dây cương cho vợ" cũ rích của Trung Quốc ra. Ông ta là một con khỉ ích kỷ, mà lại giỏi bắt chước. Ví thử ông ta chưa từng sang Mỹ, nhất định ông ta sẽ không như thế, chí ít cũng còn đôi chút nhân tình thế thái mang chất Trung Quốc. Ông ta đã tới Mỹ, cảm thấy rằng ông ta phải làm một công dân Trung Quốc thật là một chuyện hết sức oan khuất. Ông ta có thể dựa vào những điểm thuận lợi của mình, dưới cái lớp trang sức tinh thần Mỹ, làm được hết thảy. Kết hôn, đại loại chỉ có ý nghĩa là đi ngủ sớm một tí.

Tôi không dám nêu chuyện này ra với anh Mai, vì sợ anh cười tôi; nói thật lòng, tôi thật sự căm phẫn thay cho người thiếu phụ áo đen ấy. Nhưng, tôi không dám nói với anh; trí tưởng tượng của anh chẳng dễ dàng hướng về con đường độ lượng, khoan dung.

Kỳ nghỉ xuân, tôi nắm được tin tức về khối người từ chỗ anh Mai: Bác này lên núi chơi, anh kia đi du lịch vùng khác, nghe mãi mà chẳng thấy tên vợ chồng tiến sĩ Mao. Trường học đông người đến thế hình như chẳng ai bận tâm đến vợ chồng họ - theo lẽ thường tình, vợ chồng mới cưới là hấp dẫn sự chú ý của mọi người nhất.

Tôi quyết định đi thăm họ.

Hàng liễu rũ trong vườn trường đã xanh mướt, nom ra dáng lắm. Còn hoa đinh hương thì chỉ mới hé nụ. Các giáo viên, có người không đi du lịch, gần như ở cả ngoài vườn loay hoay trổng hoa. Đến gần mé trái nhà tiến sĩ, tôi thấy ông ta đang đứng trong sân. Ồng ta vẫn vũ trang, âu phục đến tận răng, tuy đang trong thời gian nghỉ. Nơi ánh nắng khó với tới được nhất, vẫn là phần giữa gương mặt của ông ta. Tôi chào ông ta qua bức tường ngăn bằng hàng tùng.

- Không đi đâu chơi sao, tiến sĩ?

- Chẳng đâu hơn nơi này - Mắt ông ta liếc về phía xa xa.

- Người Mỹ chả coi trọng du lịch là gì? - Tôi vừa nói vừa xáp vào cổng.

Ông ta im lặng. Mắt dòm dòm tôi, một mực giật lùi, tỏ vè không hoan nghênh tôi vào. Tôi dày mặt, cơng cơng tiến bước. Ông ta lùi đến cửa, tôi cũng cách đó không bao xa. Ông ta cười méo xệch, cắn răng mấy lượt, rồi mới nói:

- Cô ấy ốm rồi, để hôm khác sẽ đón tiếp anh nhé.

- Được thôi - Tôi cũng cười cười.

- Hôm khác đến - ông ta bỏ lửng câu nói.

Tôi quay ra cổng, mùa xuân trong vườn trường như thể đột nhiên biến mất. Tôi khó chịu quá.

Chừng nửa tháng sau, tôi gửi cho tiến sĩ một bức thư, mời vợ chồng họ dùng cơm. Tôi tính chắc họ sẽ đến; ông ta không kết bạn với ai, cô không biết cũng đâu có chịu cả đời giam trong nhà?

Đến ngày hẹn, tiến sĩ xuất hiện một mình. Quầng mắt đỏ quạch, cứ như vừa dụi lấy dụi để ấy. Phần giữa của khuôn mặt trũng xuống một cách đặc biệt, gân với guốc trên đầu nổi cả lên.

- Sao thế, tiến sĩ? - May sao tôi chẳng mời thêm ai khác, vừa tiện trò chuyện một mình với ông ta.

- Đàn bà, đàn bà đều xấu tuốt! Đều không hiểu biết! Đểu đáng giết tuốt!

- Cãi nhau với phu nhân hay sao? - Tôi hỏi.

- Kết hôn là một loại hy sinh, thật đấy! Anh đối xử tốt với cô ta, cô ta chẳng hiểu cho đâu! - Tiến sĩ trào nước mắt.

- Rốt cuộc là cơ sự gì mới được?

Tiến sĩ thút thít hồi lâu, mới nặn ra bốn từ:

- Cô ta phới rồi! - Ông ta gục đầu vào tay, khóc nấc lên.

Tôi chẳng có ý định an ủi ông ta. Trách tôi là kẻ cười trên sự đau khổ của người khác cũng được, tôi thực sự vui mừng, vui mừng thay cho cô ta.

Nửa ngày trời, tiến sĩ mới ngẩng đầu lên, chẳng buồn lau nước mắt, đăm đăm nhìn tôi, rền rĩ:

- Hy sinh quá lớn! Bảo tôi, thật tình, làm sao còn gặp được ai nữa chứ? Tôi là tiến sĩ Harvard, tôi là giáo sư đại học! Cô ta chẳng hề nghĩ hộ tôi! Đàn bà có khác!

- Tại sao chị ấy lại bỏ đi chứ? - Tôi giả bộ chau mày.

- Không hiểu - Tiến sĩ hỉ mũi - Những gì tôi có thể vì cô ta, cần phải làm, tôi làm cả rồi.

- Chẳng hạn?

- Dành dụm tiền, bảo hiểm, tan dạy liền về nhà với cô ta, ngủ sớm, nhiều nữa, nhiều nữa! Phàm những việc tôi thấy nên làm, tôi đã làm đủ hết; cô ta chẳng hiểu, cô ta không trân trọng, hàng ngày lên lớp, thế nào tôi cũng phải hôn một cái, còn đòi hỏi gì nữa chứ? Anh xem!

Tôi chẳng có gì đáng nói, tự ông ta tiếp tục diễn giải. Ông ta ngột ngạt thật sự rồi, ở trường, ông ta không có lấy một người bạn.

- Đàn bà chẳng hiểu đàn ông gì sất! Đính hôn rồi kết hôn, đã tốn biết bao tiền, lẽ nào cô ta không hiểu? Kết hôn nghĩa là cả hai bên nam nữ đều bắt buộc phải hy sinh. Tôi đã hy sinh nhiều đến thế, cô ta đã hy sinh cái gì nào? Còn bây giờ, phới mất rồi, phới mất rồi! - Tiến sĩ bật dậy, tay đút túi quần, mày dính vào nhau - Phới mất rồi!

- Tính sao bây giờ? - Tôi hỏi bừa một câu.

- Không có phụ nữ tôi sống không nổi - Ông ta không nhìn tôi mà dán mắt vào cái cà vạt của mình - Sống không nổi!

- Đi tìm chị ấy vậy?

- Dĩ nhiên! Cô ta là của tôi! Chạy tới chân trời góc biển, không có tôi, cô ta là "con hủi"! Cô ta là của tôi, cái gia đình bé bỏng ấy là của tôi, cô ta phải theo tôi cả đời! - Ông ta lại ngổi xuống, tay ôm lấy trán.

- Giả dụ chị ấy xin ly hôn thì sao?

- Dựa vào cái gì chứ? Chẳng nhẽ cô ta không biết tôi yêu cô ta sao? Không biết rằng tất cả số tiền kia tôi tiêu là vì cô ta sao? Chẳng có tí lương tâm nào hay sao? Ly hôn? Tôi chả có lỗi gì sất!

- Đó là thực sự - Minh tôi biết điều đó có ý nghĩa gì.

Ông ta ngẩng đầu lướt nhìn tôi, dường như bớt giận chút ít, liếm liếm môi, thở sườn sượt - Thật đấy, tôi vừa thấy mặt cô ta hơi nhợt nhạt, hôm sau liền cho cô ấy ăn thêm một con gà! Tân tâm đến thế cơ mà! - Ông ta lại im lặng, đờ đẫn ngó mũi giày.

- Anh có biết chị ấy đi đâu không?

Tiến sĩ lắc đầu. Ngồi thêm một lát, ông ta đòi về. Tôi giữ ông ta ở lại ăn cơm, ông ta lại lắc đầu:

- Tôi về đây, có lẽ cô ấy sẽ trở lại. Tôi mà là cô ấy, tôi nhất định quay về. Chắc cô ấy cũng muốn thế. Tôi về xem sao. Tôi mãi mãi yêu cô ấy, bất kể cô ấy đối xử với tôi như thế nào! - Nước mắt ông ta lại chực rơi xuống, gượng gạo mỉm cười, chụp mũ lên đầu, xăm xăm bước ra.

Lúc này, tôi thấy hơi hơi thương hại ông ta. Từ một ý nghĩa nào đó, đích thực ông ta là một kẻ hy sinh - nhưng không thể trách cô ấy.

Qua vài ngày, tôi đi thăm ông ta, ông ta không chắn cửa tôi vào.

Bày biện trong nhà quá ư đơn giản, ngoài vài thứ đồ đạc vốn có của ông ta, thì chỉ thêm có hai chiếc ghế mây, một chiếc bàn dài, trên bàn bày mấy quyển sách Tây dương của ông ta; góc phía tây có một cánh cửa nhỏ, thông sang gian khách treo một tấm rèm đơn vải Tây dương. Trên cửa sổ đều giăng rèm vải màu xanh, ánh