Chương 11.
Trở về
(Le retour)
Sóng bể quất vào bờ từng đợt ngắn và một điệu đều đều. Gió cuốn những mảnh mây trắng nhỏ bay vùn vụt như những cánh chim qua khoảng trời xanh lơ, mênh mông; làng xóm, trong một nếp thung lũng nhỏ thoai thoải ra biển, đang sưởi ấm dưới ánh mặt trời.
Ngay ở lối vào làng, ngôi nhà của gia đình Martin - Lévesque trơ trọi ở bên đường… Đó là một nhà nhỏ của dân đánh cá, tường đất thó, mái gianh trên trùm những đám hoa diên vĩ xanh lơ. Trước cửa, một mảnh vườn nhỏ bằng chiếc khăn tay, trong đó trồng hành, vài cây bắp cải, rau mùi tây, thảo hoàng liên. Chung quanh là một hàng rào chạy dọc theo đường cái.
Người chồng đi biển, và vợ, ở trước nhà, đang sửa mắt một tấm lưới nâu lớn, căng trên tường như một mạng nhện bao la. Một đứa con gái nhỏ mười bốn tuổi, ở cửa vườn, ngồi trên một chiếc ghế nhồi rơm ngả về phía sau vá quần áo, quần áo nhà nghèo, đã vá, díu chằng chịt. Một đứa con gái khác, kém một tuổi, bồng trong tay một đứa nhỏ tí ti, còn chưa biết nói năng và cử chỉ; hai đứa nhãi độ lên hai lên ba, phệt đít xuống đất, chúi mũi lại, những bàn tay vụng về đang chơi làm vườn và hắt từng vốc cát vào mặt nhau.
Không ai nói gì cả. Duy có đứa nhỏ mà người ta cố ru ngủ thì cứ khóc liên hồi, tiếng yếu ớt và the thé. Một con mèo ngủ trên cửa sổ; và những cây đinh hương hoa nở ở chân tường thành một chòm trắng đẹp, một đàn ong vo ve chung quanh.
Đứa con gái nhỏ đang khâu gần cửa bỗng gọi:
“Mẹ!”
Người mẹ đáp:
“Cái gì thế?”
“Hắn lại tới kia kìa.”
Từ sáng đến giờ, mấy mẹ con lo lắng, vì có một người đàn ông cứ rình mò chung quanh nhà: một lão già có vẻ nghèo khổ. Họ thấy hắn ta khi tiễn người bố ra thuyền để đi biển. Hắn ngồi bên cái rãnh ở trước cổng. Rồi khi ở bãi biển về, họ vẫn thấy hắn ngồi nguyên đấy, và cứ nhìn vào nhà.
Hắn trông như ốm và khổ cực lắm. Hắn ngồi yên không chuyển hơn một tiếng đồng hồ; rồi, thấy người ta coi mình như một kẻ gian phi thì hắn đứng dậy và lê chân bỏ đi.
Nhưng chẳng mấy lúc lại thấy hắn trở lại, bước đi chậm chạp và mệt nhọc; rồi hắn lại ngồi xuống, lần này xa hơn một chút, như để dò dẫm gì họ.
Người mẹ và những đứa con gái nhỏ sợ hãi. Nhất là người mẹ thì cứ nơm nớp vì tính vốn rút rát, mà ông chồng thì mãi đến chập tối mới đi bể về.
Chồng mụ tên là Lévesque; mụ thì người ta gọi là Martin, và người ta cứ gọi chung họ là nhà Martin - Lévesque. Đầu đuôi như thế này: chị ta đời chồng trước lấy một người thuỷ thủ tên là Martin, anh này mùa hè năm nào cũng đi đánh cá thu ở Terre-Neuve*.
Terre-Neuve (tiếng Pháp: Đất Mới): tức quần đảo Newfoundland của Canada (Caruri).
Lấy chồng được hai năm thì chị đẻ một đứa con gái nhỏ, và đến khi chị lại có mang được sáu tháng thì chiếc tàu Deux-Soeurs chở chồng chị, một loại tàu ba cột buồm ở Dieppe, bỗng mất tích.
Từ đó người ta không bao giờ nhận được tin tức gì về chiếc tàu đó nữa; không một thuỷ thủ nào làm trên tàu trở về; rút cục người ta coi nó như mất tích cả người lẫn của.
Chị Martin chờ chồng trong mười năm, vất vả lắm mới nuôi nổi hai đứa con; rồi, vì chị ta đảm đang và tốt nết cho nên một anh dân chài trong vùng là Lévesque, goá vợ và có một đứa con trai, hỏi cưới chị. Chị lấy anh ta và trong ba năm lại đẻ thêm hai đứa nữa.
Họ sống vất vả, cần cù. Bánh thì đắt, mà thịt thì hầu như xa lạ đối với nhà này. Đôi khi, mùa đông, trong những tháng gió bão, họ lại mắc nợ người hàng bánh. Nhưng may những đứa trẻ đều khoẻ mạnh. Người ta thường bàn tán:
“Nhà Martin - Lévesque rõ là đảm đang. Mụ Martin thì chịu thương chịu khó, mà lão Lévesque đi biển thì chẳng ai bằng.”
Đứa con gái nhỏ ngồi bên hàng rào lại nói:
“Hình như hắn quen biết nhà ta. Hay lại là người nghèo đói nào ở Épreville hay ở Auzebosc.”
Nhưng người mẹ thì không lầm được. Không, không, đích không phải là người ở vùng này!
Thấy lão kia cứ ngồi ỳ như cây gỗ, mà lại cứ nhất định giương mắt ra nhìn vào nhà mình, mụ Martin nổi giận, và, sợ quá hoá liều, mụ vác một cái xẻng ra trước cửa.
“Này, anh làm gì ở đây?” mụ thét hỏi tên du đãng.
Hắn đáp bằng một giọng khàn khàn:
“Tôi hóng mát, chứ làm gì! Tôi có làm gì đến nhà chị đâu?”
Mụ lại nói:
“Tại sao anh cứ rình mò trước cửa nhà tôi?”
Hắn cãi lại:
“Tôi chẳng làm hại đến ai cả. Thế ngồi ở đường cái cũng cấm à?”
Không biết trả lời thế nào, mụ đành quay vào nhà.
Ngày như kéo dài. Quãng trưa, gã kia biến mất. Nhưng khoảng năm giờ chiều, hắn lại đi qua. Đến tối thì không thấy hắn đâu cả.
Quá tối Lévesque mới về nhà. Nghe kể chuyện lại thì anh ta kết luận:
“Chắc lại một đứa tinh quái, ma mãnh nào đấy.”
Và anh thản nhiên đi ngủ, còn mụ vợ thì cứ nghĩ ngợi đến tên du đãng kia, sao nó lại nhìn mụ bằng con mắt quái lạ.
Sáng ra, trời gió to không đi biển được, bác thủy thủ cùng vợ đem lưới ra vá.
Khoảng chín giờ, đứa con gái lớn, con riêng chị Martin, đi mua bánh chạy về, nét mặt hốt hoảng và kêu lên:
“Mẹ ơi, hắn lại đến kia kìa.”
Mụ ta xúc động, mặt tái đi, bảo chồng:
“Nhà nó ra hỏi hắn xem thế nào, bảo hắn đừng có rình mò nữa, chẳng có tôi cứ lộn máu lên thế này này.”
Thế là Lévesque, một tay thuỷ thủ to lớn, nước da màu gạch, râu rậm và đỏ, mắt xanh có chấm đen, cổ vạm vỡ lúc nào cũng quấn khăn vì sợ mưa gió ngoài khơi, thản nhiên bước ra và đến gần gã du đãng.
Mấy mẹ con đứng đằng xa nhìn họ, lo lắng và rờn rợn.
Bỗng người lạ mặt đứng lên và cùng với Lévesque đi lại phía nhà.
Mụ Martin hoảng hốt lùi lại. Chồng mụ bảo:
“Lấy cho anh ta một ít bánh và một cốc rượu táo. Hai hôm nay anh ta chưa ăn gì cả.”
Và cả hai người bước vào nhà, mụ vợ và các con theo sau. Gã du đãng ngồi xuống ăn, đầu cúi gằm trước con mắt của mọi người.
Người mẹ đứng nhìn chòng chọc vào mặt hắn; hai đứa con gái lớn, con riêng của Martin, đứng tựa cửa, một đứa bồng em bé, cả hai cứ giương mắt thao láo ra nhìn hắn; còn hai đứa nhãi ngồi trên đống tro ở lò sưởi, bỏ không nghịch chiếc nồi đen nữa, dường như cũng để ngắm người lạ mặt.
Lévesque kéo ghế ngồi và hỏi:
“Thế ra bác từ xa đến à?”
“Từ Cette.”
“Đi bộ à?”
“Phải, đi bộ. Không có tiền thì làm thế nào được.”
“Thế bác định đi đâu?”
“Tôi đến đây.”
“Bác có quen biết ai ở đây không?”
“Có lẽ có.”
Họ im lặng. Gã kia ăn thong thả, tuy đói, và cứ mỗi miếng bánh lại uống một ngụm rượu. Mặt anh ta tiều tuỵ, nhăn nheo, hốc hác, và có vẻ đã đau khổ nhiều.
Bỗng Lévesque hỏi:
“Thế tên bác là gì?”
Gã kia đáp, mặt vẫn không ngẩng lên:
“Tôi là Martin.”
Người mẹ rợn mình lên một cách quái lạ. Chị ta tiến lên một bước, như để nhìn tận mặt gã du đãng, và đứng ngây ra trước hắn, hai tay buông thõng, mồm há ra. Không ai nói gì nữa. Cuối cùng, Lévesque hỏi:
“Bác người ở đây à?”
Hắn đáp:
“Tôi người ở đây.”
Và hắn vừa ngẩng mặt lên thì, mắt người đàn bà và mắt hắn gặp nhau, nhìn nhau chòng chọc, xoắn xuýt, cứ như ngoặc lấy nhau.
Và chị ta bỗng hỏi, giọng đổi khác, khe khẽ, run run:
“Phải nhà nó đấy ư?”
Hắn thong thả đáp:
“Phải, tôi đây.”
Hắn không cựa quậy, mồm vẫn nhai bánh.
Lévesque, ngạc nhiên hơn là xúc động, lắp bắp:
“Thế ra bác Martin đấy ư?”
Gã kia đáp gọn:
“Phải, tôi đây.”
Và anh chồng thứ hai hỏi:
“Thế bác ở tận đâu về kia?”
Anh chồng thứ nhất kể:
“Tôi từ bờ bể châu Phi về. Bọn tôi va vào đá ngầm đắm tàu. Ba đứa chúng tôi thoát chết, Picard, Vatinel và tôi. Thế rồi chúng tôi bị bọn mọi đen bắt giữ mười hai năm trời. Picard và Vatinel chết rồi. Một người Anh đi du lịch qua nhận tôi và đưa tôi về Cette. Và bây giờ tôi về đây.”
Chị Martin oà lên khóc, lấy tạp dề che mặt.
Lévesque tuyên bố:
“Làm thế nào bây giờ?”
Martin hỏi:
“Bác là chồng mụ ấy phải không?”
Lévesque đáp:
“Phải, tôi.”
Họ nhìn nhau và im lặng.
Thế là Martin ngắm nghía những đứa trẻ đứng vòng quanh hắn, hất đầu về phía hai đứa con gái nhỏ.
“Những đứa này là con tôi à?”
Lévesque nói:
“Phải, con bác đấy.”
Hắn ta cũng chẳng đứng dậy, cũng chẳng ôm hôn chúng, hắn chỉ nhận xét:
“Lạy trời, chúng nó lớn thật!”
Lévesque lại nhắc:
“Làm thế nào?”
Martin phân vân, cũng không biết tính thế nào. Cuối cùng hắn quyết định:
“Tôi ấy à, thôi bác tính sao thì tính. Tôi không muốn để thiệt cho bác. Kể thì cũng có điều ngang trái, là vì cái nhà. Tôi có hai con, bác có ba, con ai người nấy. Còn mẹ chúng, thuộc về bác hay thuộc về tôi? Thôi thì để tuỳ ý bác; nhưng còn ngôi nhà, nó thuộc về tôi vì là bố tôi để lại, tôi đẻ ra ở đây, và đã có giấy tờ ở phòng quản lý văn khế.”
Chị Martin vẫn khóc, thút thít trong mảnh tạp dề. Hai đứa con gái nhớn đã lại gần và nhìn bố, vẻ lo sợ.
Hắn đã ăn xong. Đến lượt hắn nói:
“Làm thế nào?”
Lévesque nảy ra ý kiến:
“Phải đến nhà linh mục, ông ấy sẽ quyết định.”
Martin đứng dậy, và hắn vừa tiến lại gần vợ thì chị ta lao mình vào ngực hắn, khóc nức nở:
“Bố nó ơi! Martin anh ơi! Khốn khổ thân anh!”
Và chị ôm chầm lấy hắn, lòng bỗng ấm lại hơi ấm xưa kia, tê mê bàng hoàng với bao nhiêu kỷ niệm nhắc lại những ngày hai mươi tuổi và những ân ái đầu tiên.
Martin cũng xúc động, ôm hôn vào mũi chị. Hai đứa bé, trong lò sưởi, đều thét lên khi nghe tiếng mẹ nó khóc, và đứa đẻ cuối cùng, trong tay con bé Martin thứ hai, kêu the thé như cái ống sáo lạc điệu.
Lévesque đứng đợi, rồi nói:
“Thôi đi, phải làm cho hợp lệ.”
Martin buông vợ ra, và thấy bố nó nhìn hai con gái thì mẹ nó bảo:
“Thế chúng mày hôn bố đi chứ.”
Hai đứa cùng bước lại gần, mắt ráo hoảnh, bỡ ngỡ, hơi rút rát. Thế là hắn lần lượt ôm lấy chúng, hôn vào hai bên má, cái hôn ngượng nghịu của nông dân. Thấy người lạ mặt đến gần, đứa bé tí kêu xé lên, tưởng như bị sài giật.
Rồi hai người đàn ông cùng ra đi.
Khi qua trước cửa quán rượu Commerce, Lévesque hỏi:
“Hay ta làm cốc đã?”
“Phải đấy,” Martin tuyên bố.
Họ bước vào, ngồi trong gian phòng còn vắng.
“Này, bác Chicot, cho hai cốc rượu mạnh, hảo hạng ấy nhé, bác Martin bác ấy về đấy, Martin của mụ vợ tôi ấy mà, bác biết chứ gì, Martin ở tàu Deux-Soeurs, mất tích ấy mà.”
Và bác chủ quán, một tay cầm ba cái cốc, tay kia một bình rượu, bước lại gần, bụng phệ, da căng màu, lặc lè những mỡ, và hỏi một cách thản nhiên:
“Ủa! Martin, lại về đấy à?”
Martin đáp:
“Tôi về đây!…”
Trọng Đức dịch