Chương 12.
Chú Jules tôi
(Mon oncle Jules)
Tặng Achille Bénouville
Một ông lão ăn mày râu bạc hỏi xin chúng tôi. Anh bạn tôi là Joseph Davranche cho ông cụ một đồng bạc. Tôi lấy làm lạ thì bạn tôi nói:
“Người nghèo khổ này làm tôi nhớ lại một câu chuyện luôn luôn ám ảnh tôi. Tôi kể anh nghe.”
*
Gia đình tôi quê ở Le Havre, không lấy gì làm giàu có. Thôi thì xoay xở mà sống. Cha tôi đi làm, ở sở về ngày nào cũng muộn, thế mà kiếm chẳng được bao nhiêu. Tôi có hai chị.
Mẹ tôi rất đau khổ vì túng thiếu, và, đối với chồng, bà luôn luôn lời ra tiếng vào chua chát, riếc móc bóng gió và độc địa. Cha tôi chỉ biết đáp lại bằng một cử chỉ làm tôi rất đau lòng. Ông mở bàn tay đưa lên xoa trán dù không có mồ hôi, và không nói năng gì cả. Tôi cảm thấy nỗi đau xót bất lực của ông. Nhà tôi ăn tiêu phải dè xẻn đủ thứ; chúng tôi không bao giờ dám nhận lời ai mời đi ăn, chỉ sợ phải trả nợ miệng; chúng tôi đi mua thực phẩm bán hạ giá, mua vét các thức ế ẩm ở các cửa hàng. Các chị tôi tự may lấy áo và bàn bạc rất lâu về giá ren chỉ đáng năm xu một thước. Bữa ăn hàng ngày là xúp mặn và thịt bò, nấu quanh quẩn đủ các kiểu. Ăn như thế có lẽ cũng lành và bổ đấy, nhưng tôi thì lại ưng món khác.
Mỗi lần áo tôi mất cúc hay quần bị rách, là người ta làm tình làm tội tôi đến khổ.
Nhưng cứ đến ngày chủ nhật là cả nhà tôi lại thắng quần áo chỉnh tề đi dạo một vòng ra bến tàu. Cha tôi bận chiếc áo lễ phục, đội mũ cao, đeo tất tay, khoác tay mẹ tôi, bà thì trang hoàng như một chiếc tàu ngày hội. Các chị tôi chuẩn bị xong trước nhất và chờ lệnh khởi hành. Nhưng cứ đến lúc cuối cùng là y như rằng, lần nào cũng thế, người ta phát hiện ra một vết bẩn trên chiếc áo lễ của vị gia trưởng, ấy thế là mau mau tìm chiếc giẻ tẩm dầu ben-din để chùi cho sạch.
Cha tôi, mũ vẫn đội nguyên trên đầu, mặc trần chiếc áo sơ-mi, chờ người ta chùi áo, còn mẹ tôi thì tất tả, kính cận thị giương lên, tất tay tháo ra cho khỏi bẩn.
Sau đó cả nhà lên đường một cách trịnh trọng. Hai chị tôi khoác tay nhau đi trước. Các chị đã đến tuổi lấy chồng và điều đó được đưa ra phô trương trong thành phố. Tôi đi bên tay trái mẹ tôi, cha tôi đi bên phải. Tôi vẫn còn nhớ lại cái vẻ long trọng của hai ông bà tội nghiệp trong những buổi đi chơi ngày chủ nhật, với những nét mặt cứng nhắc, dáng điệu nghiêm trang. Hai người tiến bước đường bệ, thân mình thẳng đờ, chân cứng ra, tưởng như có việc gì quan trọng lắm.
Và mỗi chủ nhật, hễ trông thấy những chiếc tàu biển từ nơi xa lạ nào đến cập bến là cha tôi lại lắp lại y nguyên mấy lời:
“Chà! Nếu có chú Jules trên tàu kia thì may mắn quá!”
Chú Jules, em của cha tôi, trước kia là mối nguy hại cho gia đình, thì nay lại là nguồn hy vọng duy nhất của gia đình. Hồi tôi còn bé, tôi đã nghe nói đến chú, và vì nghe nói đến nhiều quá mà tôi tưởng như nếu gặp là tôi nhận ra chú ngay. Tôi biết rõ từng chi tiết cuộc đời của chú trước khi chú đi sang Mỹ, tuy mọi người chỉ nói thì thầm về quãng đời này.
Nghe đâu chú tôi tính nết hư hỏng, nghĩa là chú đã xài mất ít tiền, điều đó thật là cái tội nặng nhất đối với những gia đình nghèo, ở nhà giàu, người ta chơi bời thì là làm trò khỉ; bất quá người ta chỉ cười mà gọi là một tay ăn chơi. Nhưng ở nhà nghèo, một anh con trai mà bắt bố mẹ phải xà xẻo vào vốn liếng gia đình thì đó là một đứa nghịch tử, một tên vô lại, một thằng khốn kiếp!
Tuy việc làm không khác gì nhau, nhưng phân biệt như vậy cũng là đúng, vì lỗi nặng hay nhẹ là tuỳ theo hậu quả của hành động.
Thế là chú Jules đã làm hao hụt khá nhiều món gia tài mà cha tôi vẫn hằng mong đợi, sau khi đã ngốn hết phần của chú được hưởng.
Theo cách giải quyết thời bấy giờ, người ta liền tống chú sang Mỹ, theo một chiếc tàu buôn chạy đường Le Havre - New York.
Sang Mỹ, chú Jules tôi buôn bán gì không biết, nhưng chỉ ít lâu sau chú viết thư về nói rằng sang đó làm ăn cũng khá, và hy vọng rằng sẽ đền bù lại cho cha tôi sự thiệt hại mà chú đã gây nên. Bức thư làm cho gia đình tôi hết sức cảm động. Nếu trước kia mọi người bảo chú Jules chẳng đáng giá lấy một đồng kẽm, thì nay chú bỗng trở thành một con người nghĩa khí, hào hiệp, đúng là dòng dõi họ Davranche, công minh, chính trực như hết thảy mọi người trong họ Davranche.
Một viên thuyền trưởng lại mách chúng tôi rằng chú Jules đã thuê cả một cửa hàng to và buôn bán lớn lắm.
Hai năm sau, một bức thư thứ hai viết về như sau: “Anh Philippe thân yêu, em viết thư về để anh yên lòng vì em vẫn khoẻ mạnh như thường. Việc làm ăn vẫn khá. Ngày mai em sẽ đi xa, xuống Nam Mỹ. Có lẽ trong vài năm em sẽ không có tin tức gì về nhà. Nếu em không viết được thư, xin anh cũng đừng lo ngại. Khi nào khá giả em sẽ trở về Le Havre. Em hy vọng rằng ngày đó cũng không xa, và anh em ta sẽ sống cùng nhau sung sướng…”
Bức thư đó trở thành kinh thánh của gia đình. Thôi thì bất cứ dịp nào người ta cũng đem ra đọc, người ta khoe với tất cả mọi người.
Quả nhiên, trong mười năm trời, không nhận được một tin gì của chú Jules cả; nhưng thời gian càng trôi qua, hy vọng của cha tôi lại càng tăng, còn mẹ tôi thì cũng luôn mồm nói:
“Khi nào chú Jules quý hoá về đây thì cảnh nhà ta sẽ thay đổi. Chú ấy thế mà lại hoá ra tháo vát!”
Và mỗi chủ nhật, hễ thấy từ chân trời tiến đến những con tàu đen to lớn, nhả những làn khói lượn vòng như rắn, là cha tôi thế nào cũng nhắc lại lời nói muôn thuở:
“Chà! Nếu có chú Jules trên tàu kia thì may mắn quá!”
Và người ta tưởng như chú Jules ở đâu sắp hiện ra vẫy khăn tay mà gọi lên:
“Anh Philippe hời!”
Người ta xây dựng đủ mọi dự kiến về cuộc hồi hương cầm chắc đó, người ta dự định lấy tiền của chú em tậu hẳn một ngôi biệt thự nhỏ gần Ingouville. Tôi ngờ ngợ là cha tôi hình như đã thật sự dạm hỏi việc đó rồi!
Chị cả tôi bấy giờ đã hai mươi tám tuổi, chị hai hăm sáu. Các chị vẫn chưa lấy chồng, đó là nỗi phiền muộn cho tất cả mọi người.
Cuối cùng một người hỏi lấy chị hai. Anh ta là một viên chức không giàu, nhưng cũng là chỗ danh giá. Tôi vẫn đinh ninh rằng bức thư của chú Jules, đọc lên một buổi tối nào đó, đã làm cho chàng trẻ tuổi ấy hết phân vân và quyết ý xin cưới.
Người ta vồ vập nhận lời và định rằng sau lễ cưới sẽ tổ chức một cuộc du lịch nhỏ cho cả nhà đi thăm Jersey.
Jersey là nơi du lịch lý tưởng của những người nghèo. Đi không xa, chỉ đáp tàu vượt một đoạn biển là tới đất nước ngoài, vì hòn đảo nhỏ Jersey ấy thuộc nước Anh. Như thế là một người Pháp chỉ sau hai tiếng đồng hồ đi tàu đã có thể tới nơi nhìn tận mắt nhân dân một nước láng giềng, để khảo sát phong tục, thật ra rất đồi bại, của hòn đảo nằm dưới bóng lá cờ Anh quốc, như mọi người vẫn thường nói một cách đơn giản.
Cuộc đi thăm Jersey trở thành mối quan tâm của chúng tôi, một niềm chờ đợi duy nhất, một ước mơ hàng ngày.
Cuối cùng chúng tôi ra đi. Tôi còn nhớ như mới ngày hôm qua: chiếc tàu thuỷ đốt than nóng, đỗ cạnh bến Granville; cha tôi hớt hải coi người ta chuyển ba món hành lý của chúng tôi xuống tàu; mẹ tôi lo lắng níu lấy tay chị cả tôi, chị ấy từ khi cô em đi lấy chồng thì như mất hồn, chẳng khác gì một gà con trơ trọi còn lại trong ổ; và đằng sau chúng tôi là đôi vợ chồng mới cưới, họ bao giờ cũng đi tụt lại sau, làm cho tôi luôn luôn ngoái cổ lại nhìn.
Tàu rúc còi. Và con tàu rời bến đi ra xa, trên mặt biển phẳng như chiếc bàn bằng đá hoa xanh. Chúng tôi nhìn lại bờ biển lùi dần, lòng sung sướng và kiêu hãnh như bất cứ người nào ít được đi du lịch.
Cha tôi ưỡn bụng ra trong chiếc áo lễ phục mà hồi sáng người ta đã phải chùi các vết bẩn, cho đến bây giờ vẫn còn thoảng mùi dầu ben-din làm cho tôi nhớ lại những cuộc đi chơi ngày chủ nhật.
Bỗng chốc, cha tôi trông thấy có hai ông đang mời hai bà lịch sự ăn sò. Một lão thuỷ thủ già, mặc rách rưới, dùng dao nậy vỏ sò đưa hai ông để họ chuyển cho hai bà. Các bà ăn sò một cách yểu điệu, hứng con sò trên chiếc khăn tay mịn màng và đưa mồm ra để khỏi bẩn áo. Rồi thoắt một cái họ hút lấy nước và quăng vỏ xuống bể.
Chừng như cha tôi bị cám dỗ bởi lối ăn sò kiểu cách trên con tàu đang chạy đó. Ông cho như thế là lịch sự, thanh cao, và ông đến gần mẹ và các chị tôi hỏi:
“Các bà có muốn tôi thết bữa sò không?”
Mẹ tôi ngần ngại vì món tiền phải tiêu, nhưng hai chị tôi thì bằng lòng ngay. Mẹ tôi bất đắc dĩ nói:
“Tôi sợ yếu dạ. Ông cho các con nó ăn, nhưng vừa thôi, chẳng nhỡ lại sinh bệnh ra đấy.”
Rồi bà quay lại phía tôi nói thêm:
“Còn thằng Joseph thì thôi; con trai, đừng có nuông chiều.”
Thế là tôi ở lại bên cạnh mẹ, lòng hậm hực vì sự phân biệt bất công đó. Tôi chăm chú nhìn theo, cha tôi đang trịnh trọng dẫn hai chị tôi và chàng rể đi về phía người thuỷ thủ rách rưới.
Hai bà lịch sự vừa đi khỏi. Cha tôi chỉ dẫn cho các chị tôi cách ăn thế nào để cho nước khỏi chảy ra, rồi, để làm thử, ông vớ lấy một con sò. Ông bắt chước hai bà kia thế nào mà lật đổ cả nước sò lên áo lễ phục làm cho mẹ tôi lẩm bẩm:
“Cứ ở yên thì không sao.”
Nhưng chợt tôi thấy hình như cha tôi lo lắng điều gì; ông lùi xa ra mấy bước, chăm chú ngắm các con đương vây quanh người bán sò, và đột nhiên, ông trở lại chỗ chúng tôi. Mặt ông tái nhợt đi, con mắt trông lạ lùng. Ông nói nhỏ với mẹ tôi:
“Lạ thật, sao cái lão bán sò kia lại giống hệt chú Jules.”
Mẹ tôi ngẩn người ra hỏi:
“Jules nào?”
Cha tôi nói:
“Thì chú Jules… em nhà ta chứ còn ai… Giả thử không biết rằng chú ấy đang làm ăn khá giả ở bên Mỹ, thì tôi đã tưởng là chú ấy đấy.”
Mẹ tôi hốt hoảng nói lắp bắp:
“Ông điên à? Nếu đã biết rõ là không phải chú ấy sao lại còn nói vớ vẩn thế.”
Nhưng cha tôi gặng thêm:
“Thì mình lại mà nhìn xem sao, mình thử nhìn tận mắt cho đích xác.”
Mẹ tôi đứng dậy đi lại phía con gái. Tôi cũng nhìn người thuỷ thủ. Ông ta già, nhăn nheo, bẩn thỉu, mắt vẫn chăm chú vào những con sò.
Mẹ tôi quay trở lại. Tôi thấy người bà run lên. Bà nói rất nhanh:
“Tôi ngờ là chú ấy đấy. Ông thử đi hỏi thăm ông thuyền trưởng xem sao. Nhưng, phải khôn khéo mới được, đừng để cho cái thằng vô lại ấy lại rơi vào tay chúng ta bây giờ đấy.”
Thuyền trưởng là một ông người cao lớn, xương xương, râu mép dài, đang đi đi lại lại trên chiếc cầu chỉ huy ra vẻ quan trọng, dường như ông ta điều khiển cả con đường thông thương đi Ấn Độ.
Cha tôi trịnh trọng tới gặp ông ta, vừa hỏi thăm về nghề nghiệp vừa xen vào những lời tán tụng:
“Jersey quan trọng như thế nào? Có những sản phẩm gì? Dân số bao nhiêu? Phong tục tập quán ra sao? Địa chất. v.v…”
Làm như hòn đảo con ấy là cả nước Hoa Kỳ không bằng.
Rồi hai người nói về chiếc tàu chúng tôi đang đi, tên là tàu Tốc hành, rồi nói đến thuỷ thủ trên tàu. Cuối cùng cha tôi giọng lúng túng hỏi:
“Trên tàu ngài có một lão bán sò trông cũng hay hay. Ngài có biết chi tiết gì về lão ta không?”
Viên thuyền trưởng đã bực mình vì chuyện dông dài, liền xẵng giọng đáp:
“Nó là một tên du thủ du thực người Pháp mà tôi gặp ở bên Mỹ năm ngoái và mang về đấy. Nghe đâu nó có bà con thân thích ở Le Havre, nhưng nó không dám quay về vì còn mắc nợ họ. Tên nó là Jules… Jules Darmanche hay Darvanche gì đó. Nghe nói ở bên kia có lúc nó đã giàu có, nhưng ông xem bây giờ nó ra như thế đấy.”
Cha tôi mặt tái mét, mắt long lên, cổ họng thắt lại, nói dằn từng tiếng:
“À! à! hay lắm… hay quá… Tôi không lạ chuyện đó… Rất cảm ơn ngài thuyền trưởng.”
Và ông bỏ đi, khiến viên thuyền trưởng chưng hửng nhìn theo.
Ông quay lại chỗ mẹ tôi, mặt biến sắc đến nỗi mẹ tôi phải bảo:
“Ông ngồi xuống đi, không có lại lộ chuyện bây giờ.”
Cha tôi ngã phịch xuống ghế, miệng lắp bắp:
“Đúng rồi, đích là nó rồi!”
Rồi ông hỏi:
“Làm thế nào bây giờ?”
Mẹ tôi sấn sổ đáp:
“Bảo lũ trẻ đi ra chỗ khác đi… Thằng Joseph nó đã biết chuyện thì đi gọi các chị. Nhất là đừng có để cho con rể nó biết một tí gì.”
Cha tôi như rụng rời, lẩm bẩm:
“Thật là tai vạ!”
Mẹ tôi bỗng nổi giận, nói thêm:
“Tôi vẫn có ý nghi cái thằng ăn cắp ấy chẳng làm nên trò trống gì đâu, và rồi có ngày nó lại rơi lên lưng mình thôi! Thế mà chả cứ trông mong ở con giai họ Davranche mãi đi!…”
Và cha tôi lại đưa tay lên xoa trán như mỗi lần bị mẹ tôi đay nghiến.
Bà lại nói:
“Ông đưa tiền cho thằng Joseph nó đi trả tiền sò. Chỉ còn thiếu nước để cho thằng ăn mày ấy nó nhận ra mình nữa thôi. Như thế thì đẹp mặt ở trên tàu này lắm đấy. Thôi đi ra đằng đầu kia, làm thế nào cho nó đừng lảng vảng đến gần mình nữa!”
Bà đứng dậy, và hai ông bà lảng ra xa, sau khi đưa cho tôi một đồng bạc.
Các chị tôi ngạc nhiên, vì cứ tưởng cha quay lại. Tôi nói hẳn rằng mẹ hơi bị say sóng, và tôi hỏi ông bán sò:
“Hết bao nhiêu tiền, hở ông?”
Tôi toan nói: hở chú?
Ông ta đáp:
“Năm hào.”
Tôi đưa ông đồng bạc và ông trả lại tiền thừa.
Tôi nhìn bàn tay ông, một bàn tay thảm hại của thuỷ thủ, dăn dúm cả lại, tôi lại nhìn mặt ông, một bộ mặt già khọm và thiểu não, buồn rầu, đau khổ, và tôi nghĩ thầm:
“Đây là chú mình, em của bố, chú mình đây!”
Tôi đãi ông ta thêm một hào. Ông cảm ơn:
“Xin giời phù hộ cho cậu, cậu cả ạ!”
Giọng của một người nghèo nhận tiền bố thí. Tôi đoán chừng ông đã phải đi ăn xin ở bên kia.
Các chị nhìn tôi, lấy làm lạ thấy tôi rộng rãi như vậy.
Khi tôi trả lại bốn hào cho cha tôi, mẹ tôi ngạc nhiên hỏi:
“Thế mà những sáu hào kia à?… Có lẽ nào?”
Tôi rắn rỏi đáp:
“Con đãi thêm cho người ta một hào.”
Mẹ tôi giật mình, nhìn vào tận mắt tôi:
“Mày điên à? Đãi những một hào cho thằng đó, quân vô lại ấy à!”
Bà ngừng nói, vì cha tôi lừ mắt về phía chàng rể làm hiệu.
Rồi mọi người im bặt.
Phía trước mặt chúng tôi, một vật tím mờ như từ mặt biển nhô lên ở chân trời. Đó là đảo Jersey.
Khi gần đến bến, lòng tôi rạo rực vì tôi muốn nhìn chú Jules tôi một lần nữa, muốn đến bên chú, nói với chú vài lời an ủi, âu yếm.
Nhưng vì không còn ai ăn sò, nên chú ấy đã biến mất, chắc là xuống dưới hầm tàu hôi thối, chỗ ở của con người khổ cực ấy.
Khi trở về, chúng tôi đáp tàu đường Saint-Malo để khỏi gặp lại chú. Mẹ tôi bứt rứt lo ngại.
Từ đó, không bao giờ tôi còn gặp lại người em của cha tôi nữa!
Chính vì thế nên anh cứ thấy đôi khi tôi cho kẻ ăn mày những một đồng bạc.
Trọng Đức dịch