← Quay lại trang sách

Chương 2 BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Hiểu c á i cũ để biết cái mới.

C hương này cung cấp lịch sử quá trình phát triển của phân tích kỹ thuật Nhật Bản. Đối với những người đang vội để có thể “thịt” xong cuốn sách (nghĩa là mong đọc xong hết về các kỹ thuật và cách sử dụng kỹ thuật nến), bạn có thể bỏ qua chương này, hoặc có thể trở lại sau khi bạn đã hoàn thành phần còn lại của cuốn sách. Phần lịch sử này rất lôi cuốn.

Một trong số những người đầu tiên và nổi tiếng nhất ở Nhật Bản sử dụng giá quá khứ để dự đoán biến động giá trong tương lai là huyền thoại Munehisa Homma (1). Ông đã tích lũy được một tài sản khổng lồ nhờ giao dịch trên thị trường gạo những năm 1700. Tuy nhiên, trước khi thảo luận về Homma, tôi muốn cung cấp một cái nhìn tổng quan về nền tảng kinh tế thời bây giờ lúc Homma gặt hái được thành công. Khoảng thời gian đó là từ cuối những năm 1500 đến giữa những năm 1700. Trong thời kỳ này, Nhật Bản đi từ 60 tỉnh thành thống nhất thành một quốc gia, từ đó giao thương ngày càng nở rộ.

Từ năm 1500 đến năm 1600, Nhật Bản là một quốc gia không ngừng chiến tranh vì mỗi Daimyo (lãnh chúa phong kiến) tìm cách kiểm soát các lãnh thổ lân cận. Khoảng thời gian 100 năm giữa 1500 và 1600 được sử sách gọi là “Sengoku Jidai”, tức “Thời Chiến quốc”. Giai đoạn ấy đầy hỗn loạn. Vào đầu những năm 1600, ba vị tướng kiệt xuất gồm Nobunaga Oda, Hideyoshi Toyotomi, và leyasu Tokugawa - đã thống nhất Nhật Bản trong khoảng thời gian 40 năm. Năng lực cùng những chiến công của họ được tôn vinh trong lịch sử và văn hóa dân gian Nhật Bản. Có một câu nói của người Nhật là: “Nobunaga chất gạo, Hideyoshi nhào bột và Tokugawa ăn bánh”. Nói cách khác, cả ba vị tướng đóng góp cho sự thống nhất của Nhật Bản, nhưng Tokugawa, người cuối cùng trong số những vị tướng vĩ đại này, đã trở thành Mạc chúa, và gia tộc của ông cai trị Nhật Bản từ năm 1615 đến năm 1867. Thời đại này được gọi là Mạc phủ Tokugawa.

Chiến sự bao trùm Nhật Bản suốt nhiều thế kỷ đã trở thành một phần không thể thiếu trong thuật ngữ nến. Và nghĩ kỹ bạn sẽ thấy giao dịch cũng đòi hỏi nhiều kỹ năng cần có để giành chiến thắng trong một trận chiến. Những kỹ năng như vậy bao gồm chiến lược, tâm lý, cạnh tranh, rút lui có chiến lược và thậm chí là cả may mắn. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi xuyên suốt cuốn sách này, bạn sẽ thấy các cụm từ nến dựa trên các hiện tượng trên chiến trường. Có Tấn công buổi tối và Tấn công buổi sáng (night and morning attack), Mẫu hình Ba chàng lính tiến lên (advancing three soldiers pattern), Phản công (counter attack lines), Bia mộ (gravestone),...

Sự ổn định do chế độ phong kiến tập trung của Nhật Bản dưới hệ thống lãnh đạo bởi Tokugawa đã tạo ra các cơ hội phát triển đất nước mới. Nền kinh tế nông nghiệp phát triển, nhưng quan trọng hơn là có sự mở rộng và thuận tiện trong việc giao thương trong nước. Vào thế kỷ 17, thị trường toàn quốc đã phát triển thành công thay thế hệ thống thị trường địa phương và biệt lập. Khái niệm về thị trường tập trung chính là điều đã gián tiếp dẫn đến sự phát triển của phân tích kỹ thuật tại Nhật Bản.

Hideyoshi Toyotomi coi Osaka là thủ đô của Nhật Bản và khuyến khích nơi đây phát triển thành một trung tâm thương mại. Osaka nằm sát biển, đúng lúc việc đi lại trên đất liền chậm chạp, nguy hiểm và tốn kém, nhờ đó, thành phố này trở thành kho hàng quốc gia để dự trữ và phần bổ vật tư. Nó đã phát triển thành thành phố lớn nhất của Nhật Bản về giao thương và tài chính. Sự giàu có và kho vật tư khổng lồ của Osaka đã khiến nơi đây có tên gọi “Nhà bếp của Nhật Bản”.

Osaka đóng góp nhiều cho sự ổn định giá cả bằng cách làm dịu đi sự khác biệt giữa các khu vực về nguồn cung. Ở Osaka, cuộc sống nơi đây tràn ngập khao khát kiếm tiền (trái ngược với các thành phố khác, việc kiếm tiền bị coi thường). Hệ thống xã hội thời đó gồm có bốn giai cấp. Xếp theo thứ tự từ trên xuống là Quân nhân, Nông dân, Nghệ nhân và Thương nhân. Phải đến những năm 1700, các thương gia mới phá vỡ được rào cản xã hội. Thậm chí ngày nay, lời chào truyền thống ở Osaka là “Mokarimakka” có nghĩa là “Bạn có đang kiếm được lợi nhuận không?”

Tại Osaka, Yodoya Keian đã trở thành một thương nhân hỗ trợ chiến tranh cho Hideyoshi (một trong ba vị tướng quân sự vĩ đại thống nhất Nhật Bản). Yodoya có tài thiên phú trong việc vận chuyển, phân phối và thiết lập giá gạo. Sân trước nhà của Yodoya trở nên quan trọng đến nỗi lần trao đổi gạo đầu tiên đã phát triển ở đó. Ông trở nên rất giàu có - hay nói đúng hơn là quá giàu. Năm 1705, Mạc phủ (Bakufu - chế độ quân sự do Mạc chúa lãnh đạo) đã tịch thu toàn bộ tài sản của ông vì cho rằng ông sống quá xa xỉ và không phù hợp với giai cấp xã hội của mình. Mạc phủ đã lo ngại về quyền lực ngày càng bành trướng của một số thương nhân. Năm 1642, một số quan chức và thương nhân đã tìm cách lũng đoạn thị trường gạo. Họ phải chịu hình phạt rất nghiêm khắc: con cái bị xử tử, thương nhân bị lưu đày, và của cải bị tịch thu.

Thị trường gạo ban đầu phát triển tại sân nhà của Yodoya được thể chế hóa sau khi Sàn giao dịch gạo Dojima được thành lập vào cuối những năm 1600 ở Osaka. Các nhà giao dịch tại Sàn giao dịch tiến hành phân loại gạo và thỏa thuận để thiết lập giá. Cho đến năm 1710, Sàn giao dịch tiến hành các giao dịch trên gạo thực. Từ năm 1710 trở về sau, Sàn giao dịch gạo bắt đầu phát hành và chấp nhận giấy biên lai kho gạo. Những giấy biên lai kho gạo được gọi là phiếu gạo (rice coupon). Phiếu gạo đã trở thành loại Hợp đồng tương lai đầu tiên tùng được giao dịch.

Việc môi giới giao dịch gạo đã trở thành nền tảng cho sự thịnh vượng của Osaka. Có hơn 1.300 đại lý gạo vào thời đó. Vì không có chuẩn tiền tệ nào (những nỗ lực để hình thành tiền đồng trước đó đã thất bại do giá trị của tiền xu bị giảm), gạo trở thành phương tiện trao đổi chính. Khi cần tiền, Daimyo (lãnh chúa) sẽ gửi số gạo dư của mình đến Osaka và trữ chúng trong một nhà kho mang danh mình. Ông sẽ nhận một phiếu gạo mang tính chất giống như biên lai cho số gạo này và có thể bán phiếu gạo này bất cứ khi nào vị lãnh chúa muốn. Các lãnh chúa phải đối mặt với rất nhiều vấn đề ngân khố, do vậy họ thường bán phiếu gạo trước khi lần nộp thuế gạo kế tiếp (thuế nộp cho lãnh chúa được trả bằng gạo - thường là 40% đến 60% vụ mùa của nông dân). Đôi khi vì vậy mà các vụ lúa trong vài năm bị đem ra thế chấp. Người ta mua bán phiếu gạo rất thường xuyên. Các phiếu gạo lấy căn cứ trên hoạt động giao gạo trong tương lai trở thành loại Hợp đồng tương lai đầu tiên của thế giới. Sàn giao dịch Gạo Dojima, nơi giao dịch các phiếu này, đã trở thành Sàn giao dịch Hợp đồng tương lai đầu tiên trên thế giới. Phiếu gạo còn được gọi là “phiếu gạo trống” (empty rice coupon - nghĩa là không sở hữu gạo thực tế). Tôi xin cung cấp một thông tin để bạn có thể hình dung mức độ phổ biến của giao dịch Hợp đồng tương lai gạo: Trong năm 1749, tổng số phiếu gạo rỗng giao dịch tại Osaka có giá trị là 110.000 kiện (gạo buôn bán theo kiện). Tuy nhiên, trên thực tế, khắp Nhật Bản chi có 30.000 kiện gạo (2).

Trong bối cảnh lịch sử này, Homma xuất hiện và được xem là “vị chúa của thị trường”. Munehisa Homma sinh năm 1724 trong một gia đình giàu có. Gia tộc của ông giàu đến mức thời ấy có câu: “Trở thành người gia tộc Homma khó quá, thà tìm cách làm điền chủ còn dễ dàng hơn”. Năm 1750, khi được trao quyền kiểm soát công việc kinh doanh của gia đình, ông bắt đầu giao dịch tại Sàn giao dịch gạo địa phương ở thành phố cảng Sakata. Thành phố này là nơi dự trữ và phân phối gạo. Homma xuất thân từ Sakata nên bạn sẽ thường xuyên bắt gặp cụm từ “Quy tắc của Sakata” trong các tài liệu phân tích nến Nhật Bản. Tất cả đều đề cập đến Homma.

Khi cha của Munehisa Homma qua đời, mặc dù là con út, Munehisa được giao cho việc quản lý tài sản gia tộc (Thời xưa, thường con trai cả trong gia đình sẽ được quyền thừa kế). Nguyên nhân có lẽ là do Munehisa rất am hiểu thị trường. Với tài sản này, ông đến Sàn giao dịch gạo lớn nhất của Nhật Bản thời bấy giờ, Sàn giao dịch gạo Dojima ở Osaka và bắt đầu giao dịch Hợp đồng tương lai gạo.

Gia tộc Homma sở hữu rất nhiều đất trồng lúa. Vốn có thế lực, nên họ luôn nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường gạo. Chưa kể, Homma ghi lại chi tiết tình hình thời tiết hàng năm. Ông phân tích giá gạo bắt đầu từ lúc giao dịch gạo được diễn ra ở sân của Yodoya để nghiên cứu về tâm lý của các nhà đầu tư. Thậm chí ông còn thiết lập hệ thống thông tin liên lạc của riêng mình. Ông cho người lên mái nhà để gửi tín hiệu đi bằng cờ vào những thời điểm định trước. Những người này thu hẹp khoảng cách từ Osaka đến Sakata. Sau khi thống trị thị trường Osaka, Homma đến giao dịch tại Edo (Tokyo bây giờ). Ông vận dụng kiến thức của mình và tích lũy được một gia tài kếch xù. Tương truyền, ông đã thành công trong 100 lần giao dịch liên tiếp.

Uy tín của ông lớn đến nỗi có bài hát dân gian ở Edo như sau: “Khi Sakata có nắng (thị trấn của Homma), Dojima (Sàn giao dịch gạo Dojima ở Osaka) âm u và Kuramae (Sàn giao dịch Kuramae ở Edo) mưa xối xả”. Nói cách khác là: khi ở Sakata được mùa, giá gạo giảm trên Sàn giao dịch gạo Dojima và giảm không phanh tại Edo. Bài hát này phản ánh sức ảnh hưởng của Homma trên thị trường gạo. Trong những năm sau đó, Homma trở thành cố vấn tài chính cho chính quyền và được phong samurai danh dự. Ông qua đời năm 1803. Các cuốn sách của Homma về thị trường (Sakata Senho và Soba Sani No Den) được viết vào những năm 1700. Nguyên tắc giao dịch của ông vốn dĩ được áp dụng cho thị trường gạo, về sau được phát triển thành kỹ thuật nến hiện đang được sử dụng tại Nhật Bản.

LƯU Ý:

1. Tên ông đôi khi được dịch là Sokyu và họ của ông đôi khi được dịch là hơnma. Thông qua đó, bạn có thể thấy dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh trúc trắc thế nào rồi đấy. Cùng một chữ Hán nhưng cách đọc sẽ khác nhau, và tuỳ theo người dịch mà tên của ông có thể là Sokyu hoặc Munehisa. Họ của ông cũng vậy, một lần nữa tuỳ thuộc vào người dịch, có thể là Homma hoặc hơnma. Tới chọn bản dịch tiếng Anh tên của Homma mà Hiệp hội phân tích Kỹ thuật Nippon sử dụng.

2. Hirschmeier, Johannes, and Tsunehiko, Yui. The Development of Japanese Business 1600 -1973 (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1975, trang 31).