Chương 1 GIỚI THIỆU
Kh ở i đầu là quan trọng nhất.
P hân tích đồ thị nến Nhật có cái tên này vì hình dạng các đường kẻ trông giống cây nến, hệ thống đã được tinh chỉnh bởi nhiều thế hệ sử dụng ở phương Đông xa xôi. Cho đến trước khi cuốn Tuyệt kỹ giao dịch b ằ ng đồ thị nến Nhật được xuất bản, suốt hơn một thế kỷ, “bộ vuốt” của phân tích đồ thị Nhật Bản (tức đồ thị nến) vẫn là một bí mật được chôn giấu với phương Tây. Lần đầu tiên, cuốn sách tiết lộ đầy chi tiết với bán cầu Tây những “Bí ẩn phương Đông” này.
Do cụm từ “nến Nhật” thường được gọi ngắn gọn là “nến”, tôi sẽ dùng đan xen cả hai thuật ngữ trong cuốn sách.
Tôi rất lấy làm phấn khởi khi công trình của mình được đánh giá là cách mạng hóa phân tích kỹ thuật, cũng như việc những cuốn sách, bài báo, v.v... theo sau của các tác giả khác đã lấy ấn bản đầu tiên của cuốn sách này làm nền tảng. Đó là điều ngày trước tôi hy vọng. Tiền đề của cuốn sách là đặt nền móng cho các tài liệu đồ thị nến trong tương lai. Vậy nên, tôi rất vui sướng khi cuốn sách hay được gọi với cái tên “thánh kinh của đồ thị nến”.
Trước khi cuốn sách được xuất bản vào năm 1991 B.C. (Before Candlesticks - Trước thời điểm phương Tây tiếp cận nến Nhật), liệu có ai từng nghe về đồ thị nến chưa? Còn hiện giờ, có ai chưa nghe qua kia chứ?
Các nhà giao dịch trực tuyến, nhà giao dịch trong ngày, khối tự doanh tổ chức và những nhà tạo lập thị trường chỉ là một trong số những người đam mê đồ thị nến. Các website, hệ thống giao dịch thời gian thực và gói phần mềm phân tích kỹ thuật đều tích hợp đồ thị nến. Nó là minh chứng cho độ phổ biến và sức hấp dẫn phổ quát của nến trong giao dịch các thị trường biến động như hiện tại. Nói không ngoa, đồ thị nến đang nổi như cồn.
Có lần, cậu con trai 11 tuổi tên Evan của tôi (lúc nó sinh ra, suýt nữa tôi đã đặt tên con là Candlesticks Nison) trông thấy một dịch vụ đồ thị trực tuyến có đồ thị nến. Nó bèn hỏi: “Bố ơi, nếu không nhờ bố, sẽ không có đồ thị nến trong bất cứ trang web hay bất cứ đâu ở Mỹ phải không ạ?” Tôi bảo đúng là vậy. Nó lưỡng lự rồi bảo tôi, “Tuyệt, con muốn được cho thêm tiền tiêu vặt”.
ĐIỂM MỚI CỦA SÁCH
Dù định dạng và các kiến thức bên trong vẫn giống ấn bản đầu tiên (không có gì sai thì tốt hơn hết không sửa), môi trường giao dịch và các thành phần tham gia thị trường đã thay đổi kể từ ấn bản đầu. Do vậy, ngoài việc dùng đồ thị mới hoàn toàn, ấn bản này có:
•
Nhiều thị trường trong ngày (intraday) hơn.
•
Tập trung nhiều hơn vào giao dịch năng động cho các nhà giao dịch xoay chiều (swing traders), trực tuyến (online traders) và trong ngày (infraday traders).
•
Các chiến thuật mới để tận dụng tối đa đồ thị trong ngày (intraday).
•
Những kết hợp mới giữa các kỹ thuật phương Tây với nến.
•
Tập trung hơn vào bảo vệ vốn.
Online trading - Giao dịch trực tuyến là những giao dịch được thực hiện qua Internet dựa trên các nền tảng do các nhà môi giới phát hành.
Swing trading - Giao dịch xoay chiều là những giao dịch được thực hiện dựa trên sự di chuyển của giá trong một phạm vi. Thời gian năm giữ vị thế thường từ vài ngày cho đên vài tuần.
Intraday trading - Giao dịch trong ngày là những giao dịch chỉ được thực hiện trong một ngày. Tức là không có vị thế nào được giữ qua đêm.
TẠI SAO KỸ THUẬT Đ Ồ THỊ N Ế N LẠI THU HÚT ĐƯỢC S Ự CHÚ Ý CỦA CÁC NHÀ GIAO DỊCH VÀ ĐẦU TƯ TR Ê N THẾ GIỚI?
Qua các năm, ngọn lửa đam mê dành cho công cụ nến Nhật lại càng cháy sáng. Lý do là bởi đồ thị nến:
•
Dễ hiểu: Bất cứ ai, từ người lần đầu tiên phân tích đồ thị đến những nhà phân tích chuyên nghiệp có thâm niên, đều có thể dễ dàng tiếp thu sức mạnh của đồ thị nến. Đừng lầm tưởng trước sự đơn giản của công cụ này. Sức mạnh phân tích sức khỏe thị trường của chúng toàn năng hơn bất cứ phương thức đồ thị nào.
•
Cung cấp tín hiệu đảo chiều thị trường sớm hơn: Đồ thị nến thường cho tín hiệu đảo chiều trước các chỉ báo truyền thống trên đồ thị thanh hoặc đồ thị P&F. Điều này giúp bạn mở và đóng vị thế với thời điểm chuẩn hơn.
•
Bổ sung góc nhìn thị trường độc nhất: Đồ thị nến không chỉ cho thấy xu hướng của chuyển động giá như đồ thị thanh, mà hơn đồ thị thanh ở chỗ, nó còn cho thấy áp lực nào đang làm chủ xu hướng.
•
Rất thú vị khi học: Các cụm từ đầy tượng hình như Mây đen bao phủ (dark-cloud cover), Búa (hammer) hay Cửa sổ (window) khiến việc sử dụng đồ thị nến rất vui thú. Nhưng đừng xem nhẹ những cái tên “tượng hình" trên. Các kỹ thuật này sẽ là những vũ khí đắc lực trong cuộc chiến của bạn với thị trường.
•
Mở rộng phân tích đồ thị phương Tây: Đồ thị nến rất linh hoạt, chúng có thể kết hợp với bất cứ công cụ kỹ thuật phương Tây nào. Chúng tôi phối hợp thông tin đưa ra bởi đồ thị nến với các công cụ phân tích kỹ thuật hữu hiệu nhất của phương Tây để cung cấp cho khách hàng của mình. Nếu là một nhà phân tích kỹ thuật có thâm niên, bạn sẽ thấy kết hợp nến Nhật với công cụ kỹ thuật ưa thích của bạn sẽ tạo ra tổ hợp kỹ thuật vô cùng mạnh mẽ. Việc phối hợp phân tích Đông - Tây này sẽ cho bạn lợi thế hơn so với những ai chỉ dùng thuần kỹ thuật đồ thị phương Tây truyền thống.
•
Nâng cao hiệu quả phân tích của bạn: Vì đồ thị nến cho thông tin trực quan ngay lập tức, chúng sẽ giúp bạn phân tích thị trường nhanh và hữu hiệu hơn.
Phương Đông có câu “Hành trình vạn dặm khởi đầu bằng một bước chân”. Chương này là bước đi đầu tiên và quan trọng trên con đương đến với phân tích đồ thị nến. Sau Chương giới thiệu này, bạn sẽ khám phá nến giúp việc phân tích thị trường của bạn hiệu quả hơn, cải thiện thời điểm vào ra, đồng thời mở ra những hướng phân tích mới, hiệu quả và độc đáo.
Trong ấn bản đầu tiên của cuốn sách, tôi đã đưa ra một dự đoán táo bạo rằng “Trong tương lai gần, đồ thị nến có thể trở thành chuẩn mực như đồ thị thanh. Khi mà ngày càng nhiều nhà phân tích kỹ thuật hiểu về đồ thị nến, họ sẽ không còn dùng đồ thị thanh nữa”. Và thực tế, điều này đang diễn ra.
Ở phần kết luận trong các hội thảo tổ chức và cá nhân của mình, tôi thường hỏi khán giả, “Giờ bao nhiêu người trong số các bạn sẽ dùng đồ thị thanh?” Trong số hàng nghìn nhà giao dịch dự hội thảo, không ai giơ tay. Nếu bạn còn lạ lẫm với nến, bạn sẽ hiểu lý do sau khi đọc xong cuốn sách (hoặc chỉ vài chương đầu).
Dùng đồ thị nến thay vì đồ thị thanh là một việc lợi cả đôi đường. Như ta sẽ thấy trong chương vẽ nến, dữ liệu dùng để vẽ đồ thị nến cũng giống như đồ thị thanh (giá mở cửa, cao nhất, thấp nhất, đóng cửa). Điều này rất quan trọng. Nó có nghĩa rằng bất cứ phân tích kỹ thuật nào sử dụng với đồ thị thanh (như Đường trung bình động, Đường xu hướng, các mức Thoái lui, v.v...). đều có thể dùng cho đồ thị nến. Nhưng, và cũng là điều chính yếu, đồ thị nến cho tín hiệu mà đồ thị thanh không có. Yếu tố này sẽ cho bạn lợi thế so với những ai chỉ dùng kỹ thuật đồ thị phương Tây truyền thống. Bằng cách sử dụng đồ thị nến thay đồ thị thanh, bạn có thể sử dụng tất cả các phân tích giống với đồ thị thanh. Song đồ thị nến cho ta góc nhìn về độ khỏe của thị trường mà không đâu có được.
CUỐN SÁCH NÀY DÀNH CHO AI?
Cuốn sách này phù hợp với bạn nếu:
•
Dịch vụ đồ thị bạn dùng tích hợp đồ thị nến và bạn muốn khai thác toàn bộ tiềm năng của chúng.
•
Bạn muốn có lợi thế trong cạnh tranh.
•
Bạn muốn vào ra thị trường với thời điểm tốt hơn.
•
Bạn muốn có những kỹ thuật mang đến giá trị để bổ sung vào những công cụ giao dịch bạn đang dùng.
•
Bạn muốn có niềm vui khi học.
•
Bạn mới tiếp xúc đồ thị nến hoặc là một nhà giao dịch chuyên nghiệp, có thâm niên.
BỐ I CẢNH
Tôi thường tự hỏi “Tại sao một hệ thống giao dịch lâu đời đến vậy mà phương Tây hầu như không biết đến?” Có phải người Nhật đang cố giữ bí mật đó không? Tôi không biết câu trả lời, nhưng phải mất nhiều năm nghiên cứu để tôi có thể lồng ghép tất cả các mảnh với nhau. Trông ra tôi cũng được ông trời ưu ái. Có lẽ tính kiên trì của tôi và những hạnh vận đã kết hợp với nhau một cách đầy đặc biệt, đây là thứ mà những người khác không có.
Năm 1987, tôi quen với một môi giới người Nhật Bản. Ngày nọ, lúc tôi có mặt tại văn phòng cô ấy, cô đọc một cuốn sách đồ thị chứng khoán Nhật Bản (sách đồ thị Nhật Bản đều ở dạng nến). Cô ấy cảm thán, “Anh xem, mẫu hình Cửa sổ (window) kìa”. Tôi hỏi cô ấy đang nói về cái gì thì nhận được lời đáp: Cửa sổ tương tự khái niệm Khoảng trống (gap) trong kỹ thuật phương Tây. Cô tiếp tục giải thích rằng nếu các nhà phân tích kỹ thuật phương Tây diễn tả “Lấp Khoảng trống (filling i n the gap)” thì người Nhật sẽ gọi đó là “Đóng Cửa sổ (close the window)”.
Cô ấy còn dùng những từ khác như “Doji” và “Mây đen bao phủ”. Nó khiến tôi tò mò. Tôi dành ba năm tiếp theo để tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích bất cứ điều gì tôi có thể tìm thấy về đồ thị nến.
Quá trình ấy không hề dễ dàng. Ban đầu, tôi học hỏi với sự giúp đỡ của nhà môi giới người Nhật và thông qua tự vẽ, tự phân tích đồ thị nến. Sau đó, nhờ thư viện Market Technicians Association (MTA) (1), ở thành phố New York, tới tình cờ tìm ra cuốn sách nhỏ được xuất bản bởi Nippon Technical Analysts Association có tên Analysis of Stock Price in Japan (Tạm dịch: Phân tích Giá cổ phiếu tại Nhật Bản). Cuốn sách nhỏ này là của Nhật Bản và được dịch sang tiếng Anh. Đáng tiếc là chỉ có mười trang giải thích về đồ thị nến. Tuy nhiên, cuối cùng thì tôi cũng đã có được một ít tài liệu tiếng Anh về kỹ thuật nến.
Hiệp hội phân tích kỹ thuật Nippon của Nhật Bản (NTAA), được thành lập năm 1978, là một tổ chức phi lợi nhuận. NTAA dành riêng cho việc phát triển phân tích kỹ thuật và thúc đẩy sử dụng nhiều hơn và hiểu đúng về phân tích kỹ thuật như một công cụ đầu tư quan trọng. Trọng tâm chính của Hiệp hội là đào tạo các thành viên của mình kiến thức tích hợp và thực tế về phân tích kỹ thuật để trở thành các chuyên gia thị trường hiệu quả.
Nguồn: Wikipedia
Vài tháng sau, tôi mượn được một cuốn sách cung cấp thêm một số thông tin đồ thị nến cơ bản. Một lần nữa, tôi cũng tìm ra nó ở thư viện MTA. Giám đốc văn phòng MTA, Shelley Lebeck, đã mang về từ Nhật Bản một cuốn sách có tên The Japanese Chart ofcharts (Tạm dịch: Các đồ thị Nhật Bản) của tác giả Seiki Shimizu được dịch bởi Greg Nicholson (cuốn sách này được xuất bản bởi nhà xuất bản Tokyo Futures Trading). Việc tìm ra cuốn sách này rất ý nghĩa bởi nó chứa khoảng 70 trang đồ thị nến và được viết bằng tiếng Anh.
Tôi phát hiện ra cuốn sách mang lại những thông tin rất bổ ích, nhưng cần chút nỗ lực và thời gian để làm quen với các thuật ngữ. Tất cả đều quá đỗi mới mẻ. Tôi cũng cần phải làm quen với thuật ngữ tiếng Nhật. Phong cách viết đôi lúc rất khó hiểu. Một phần có thể là do khó khăn trong dịch thuật. Cuốn sách gốc được viết bằng tiếng Nhật từ khoảng 25 năm trước dành cho độc giả Nhật Bản. Tôi cũng phát hiện ra khi tôi nhờ người dịch tài liệu của mình, để dịch một chủ đề chuyên ngành như vậy từ tiếng Nhật sang tiếng Anh cũng là một việc cực kỳ khó khăn.
Tuy nhiên, tôi đã có một số tài liệu tham khảo từ trước. Tôi mang cuốn sách theo người suốt mấy tháng trời, đọc đi đọc lại, ghi chú chi chít, áp dụng các phương pháp kỹ thuật nến cho các đồ thị nến mình tự vẽ tay (vì không có phần mềm nào vẽ đồ thị nến cả nên tôi phải làm tất cả đồ thị thủ công). Tôi đã ngấu nghiến và cày nát những ý tưởng và thuật ngữ mới. Và với sự may mắn theo một cách khác, tôi được chính tác giả Seiki Shimizu giúp trả lời nhiều câu hỏi của mình. Mặc dù ông Shimizu không nói tiếng Anh, nhưng người dịch cuốn sách, Greg Nicholson, đã ân cần đóng vai trò trung gian giữa chúng tôi qua các tin nhắn fax. Cuốn sách The Japanese Chart of C harts (Tạm dịch: C á c Đồ thị Nhật Bản) cung cấp nền tảng cho phần còn lại trong hành trình tìm hiểu của tôi về đồ thị nến.
Để tiếp tục phát triển các kỹ thuật sơ khai của mình về đồ thị nến, tôi đã tìm kiếm những người thành thạo nến Nhật Bản, có thời gian và quan tâm trao đổi với tôi về chủ đề này. Tôi gặp một nhà giao dịch người Nhật, Morihiko Goto, anh ấy có thâm niên sử dụng đồ thị nến và sẵn sàng chia sẻ thời gian cũng như những hiểu biết quý giá của anh ấy với tôi. Thật hào hứng biết bao! Sau đó anh ấy còn kể với tôi rằng gia đình anh có truyền thống sử dụng đồ thị nến suốt nhiều thế hệ! Chúng tôi dành nhiều giờ để thảo luận về lịch sử và cách sử dụng đồ thị nến. Anh ấy là một kho tàng kiến thức vô giá.
Kho tàng kiến thức quý báu của tôi chính là lượng lớn tài liệu nến Nhật Bản được tôi dịch. Trong chuyện này, phải nói tôi vô cùng may mắn khi tìm ra dịch giả Richard Solberg. Ông đã giúp tôi thu thập toàn bộ tài liệu về nến ở nước Nhật (theo tôi được biết, bộ sưu tập sách về đồ thị nến đồ sộ nhất ngoài Nhật Bản) và kỹ năng dịch thuật của ông là vô giá.
Tháng 12 năm 1989, tôi viết một bài báo hai trang về đồ thị nến. Đó là nguồn thông tin đầu tiên về chủ đề này do một người không phải người Nhật viết nên. Đầu năm 1990, tôi chọn chủ đề cho bài luận văn kỳ thi CMT - Chartered Market Technician để lấy bằng MTA là về đồ thị nến. Đó là bài viết chi tiết đầu tiên của một tác giả Tây phương về đồ thị nến Nhật. Chẳng bao lâu, nhà xuất bản Merrill Lynch phát hành bản tài liệu đó sau khi nhận được hơn 10.000 yêu cầu.
Cuốn sách Tuyệt kỹ giao dịch bàng đồ thị nến Nhật được xuất bản năm 1991 và theo sau đó là cuốn Beyond Candlesticks (Tạm dịch: Nến Nhật mở rộng) được nhà xuất bản John Wiley cho ra mắt năm 1994. Vào thời điểm tôi viết những dòng này, những cuốn sách này đã được dịch thành tám thứ tiếng và qua nhiều lần in.
Công trình của tôi đã được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông về tài chính khắp thế giới, bao gồm The Wall Street Journal, The Japan Economic Journal, Barron’s, Worth Magazine, In stitut i onal Investor và rất nhiều ấn phẩm khác. Sự xuất hiện của tôi trên FNN (tiền thân của CNBC) đã thu hút lượng khán giả lớn nhất mà kênh này từng có.
CNBC là một kênh tin tức kinh doanh truyền hình trả tiền của Mỹ, chủ yếu thực hiện đưa tin một ngày làm việc của thị trường tài chính Hoa Kỳ và quốc tế. Sau khi kết thúc ngày làm việc và vào những ngày không giao dịch tài chính, CNBC chủ yếu thực hiện các bộ phim tài liệu và chương trình thực tế có chủ đề tài chính và kinh doanh.
CNBC ban đầu được thành lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1989 dưới dạng liên doanh giữa NBC và Cablevision với tư cách là Consumer News and Business Channel (CNBC) - Kênh tin tức và kinh doanh tiêu dùng. Hai năm sau, vào năm 1991, kênh đã mua lại đối thủ cạnh tranh chính là Financial News Network (FNN), một động thái mở rộng cả thị phần và lực lượng lao động của mình. Cablevision sau đó đả bán cổ phần của mình cho NBC, trao quyền sở hữu duy nhất cho NBC. Tính đến tháng 2 năm 2015, CNBC có sẵn cho khoảng 93.623.300 hộ gia đình truyền hình trả tiền (80,4% hộ gia đình có truyền hình) tại Hoa Kỳ. Năm 2007, kênh này được xếp hạnh là kênh truyền hình cáp có giá trị thứ 19 tại Hoa Kỳ, trị giá khoảng 4 tỷ đô la.
Nguồn: Wikipedia
Tôi đã có vinh hạnh tiết lộ những chiến lược giao dịch của mình tới hàng triệu nhà giao dịch và nhà phân tích ở hơn 17 quốc gia, bao gồm cả Hà Nội, Việt Nam. Tôi cũng có vinh dự được phát biểu trước Ngân hàng Thế giới và Cục Dự trữ Liên bang.
Năm 1997, tôi thành lập Nison Research International để cung cấp các buổi hội thảo và dịch vụ phân tích tại chỗ cho các tổ chức.
Năm 2000, tôi lập Candlecharts.Com, cung cấp các hội thảo, video và các dịch vụ trên web. Xin mời các bạn đến thăm trang web của chúng tôi ở www.candlecharts.com.
CÓ GÌ TRONG CUỐN SÁCH N À Y?
Trong phần thứ nhất của cuốn sách, bạn sẽ học cách vẽ và diễn giải các loại nến và mẫu hình nến. Phần này sẽ từ từ tạo nền móng vững chắc cho phần thứ hai, ở đó bạn sẽ khám phá giá trị của việc kết hợp đồ thị nến với các kỹ thuật phân tích kỹ thuật phương Tây. Mục đích của tôi không phải trao cho các bạn khả năng toàn tri toàn thức thị trường. Tôi hy vọng các ý tưởng trong cuốn sách này sẽ chỉ ra cách nến Nhật có thể “khai sáng” hành trình giao dịch của bạn.
Cách tốt nhất để giải thích cách hoạt động của một chỉ báo là thông qua các ví dụ trên thị trường. Người Nhật có câu “Trăm nghe không bằng một thấy”. Do vậy, tôi sẽ đưa ra rất nhiều ví dụ thực tiễn cho từng kỹ thuật.
Tôi sẽ tập trung chủ yếu vào thị trường Hoa Kỳ, nhưng các công cụ và kỹ thuật trong cuốn sách này có thể áp dụng cho bất cứ thị trường nào và khung thời gian nào. Điều này được khẳng định nhờ việc đồ thị nến được dùng trên khung thời gian tuần (cho các nhà phòng hộ), khung thời gian ngày (cho các nhà giao dịch dao động và trung hạn), và đồ thị trong ngày (cho các nhà giao dịch dao động và trong ngày). Những chiến thuật được nhắc đến trong cuốn sách này có thể dùng cho Chứng khoán, Hợp đồng tương lai, Quyền chọn, Giao dịch ngoại hối - bất cứ nơi nào và bất cứ khung thời gian nào có thể áp dụng phân tích kỹ thuật.
Tôi đã vẽ minh họa các mẫu hình nến để hỗ trợ quá trình học tập. Những minh họa này chỉ là ví dụ tiêu biểu. Các hình mẫu phải được xem xét trong bối cảnh mà chúng thỏa mãn đúng các hướng dẫn và nguyên tắc nhất định. Các mẫu hình thực tế sẽ không chính xác hoàn toàn như trong các ví dụ minh họa để cung cấp cho bạn tín hiệu rõ ràng. Điều này được nhấn mạnh xuyên suốt cuốn sách trong nhiều đồ thị minh họa. Bạn sẽ nhìn thấy các dạng biến thể của các mẫu hình, và chúng vẫn có thể cung cấp các manh mối quan trọng về tình trạng của thị trường.
Do đó, sẽ có yếu tố chủ quan trong việc quyết định liệu một mẫu hình nến nhất định có đáp ứng được các nguyên tắc cho sự hình thành mẫu hình cụ thể nào đó hay không, nhưng tính chủ quan này cũng không khác gì so với khi sử dụng với các công cụ phân tích kỹ thuật đồ thị khác. Chẳng hạn, cổ phiếu có hỗ trợ ở mức 100 đô la, liệu ngưỡng hỗ trợ có bị xem là phá vỡ khi giá đi xuống dưới mức 100 đô la trong ngày, hay giá phải đóng cửa dưới mức 100 đô la? Liệu giảm xuống 50 xu so với mốc 100 đô la có đồng nghĩa với việc hỗ trợ đã bị phá vỡ, hay cần một con số lớn hơn? Bạn sẽ phải quyết định các câu trả lời trên dựa theo tính cách giao dịch, mức độ chấp nhận rủi ro và quan niệm về thị trường của bạn. Tương tự như vậy, thông qua các diễn giải, hình minh họa và ví dụ thực tế, tôi sẽ cung cấp các nguyên tắc và hướng dẫn chung để nhận biết sự hình thành của mẫu hình nến. Nhưng bạn không nên mong đợi các ví dụ trong thực tế hoàn toàn giống với các mẫu hình lý tưởng.
Có hai phần chú thích ở cuối cuốn sách. Phần đầu bao gồm các thuật ngữ nến và phần hai là các thuật ngữ của phân tích kỹ thuật phương Tây được sử dụng trong cuốn sách. Phần chú thích nến bao gồm phần chú thích trực quan của tất cả các mẫu hình.
MỘT SỐ LƯU Ý
Vì tính chủ quan của bất kỳ phương pháp phân tích kỹ thuật nào, tùy thuộc vào kinh nghiệm và nền tảng mà từng người lại có cách định nghĩa khác nhau. Điều này đúng với nhiều mẫu hình nến. Tùy theo nguồn thông tin mà có những trường hợp, tôi bắt gặp những định nghĩa khác nhau, dù không đáng kể, về các yếu tố tạo nên mẫu hình. Ví dụ, một tác giả người Nhật Bản viết rằng giá mở của nến sau phải trên mức giá đóng cửa nến trước thì mới hình thành mẫu hình Mây đen bao phủ. Nhưng nhiều nguồn sách vở và truyền miệng lại cho rằng mẫu hình này cần giá mở cửa nến sau cao hơn mức giá cao nhất của nến trước.
Trong trường hợp có các định nghĩa khác nhau, tôi chọn những quy tắc làm tăng xác suất dự đoán đúng của mẫu hình. Ví dụ, mẫu hình được nhắc tới ở đoạn trước là một tín hiệu đảo chiều ở đỉnh. Vì thế, tôi chọn định nghĩa rằng thị trường phải mở cửa trên mức giá cao nhất của nến trước. Lý do là vì mẫu hình có nhiều khả năng giảm hơn khi thị trường mở cửa trên mức cao nhất của phiên trước sau đó quay đầu, thay vì chỉ mở cửa trên mức giá đóng cửa của phiên trước đó rồi quay đầu.
Đa phần các tài liệu tiếng Nhật tôi dịch đều khá mơ hồ. Một phần xuất phát từ việc người Nhật có xu hướng mập mờ trong văn hóa. Xu hướng này có lẽ bắt nguồn từ thời phong kiến khi samurai có thể chém đầu thường dân nếu người đó không cung kính với vị samurai theo đúng lễ nghi. Nhưng không phải lúc nào thường dân cũng biết samurai muốn mình cư xử ra sao hay đối đáp thế nào. Bằng cách cư xử mập mờ, nhiều người đã giữ được đầu mình không lìa khỏi cổ. Tuy nhiên, tôi nghĩ lý do quan trọng nhất cho những giải thích có phần mơ hồ đó là do phân tích kỹ thuật có tính nghệ thuật nhiều hơn là khoa học.
Đừng mong đợi sẽ có những quy tắc chặt chẽ. Hầu hết các công cụ phân tích kỹ thuật chỉ là những hướng dẫn. Chẳng hạn, nếu một cuốn sách Nhật nói rằng một cây nến phải bị “vượt qua” để dự báo tín hiệu tăng giá tiếp theo, tôi đánh đồng từ “vượt qua” với “đóng cửa bên trên”. Điều đó là do đối với tôi, giá đóng cửa quan trọng hơn việc giá trong ngày trên mức kháng cự hay dưới mức hỗ trợ. Một ví dụ khác về tính chủ quan: Trong các tài liệu Nhật Bản đánh giá nhiều mẫu hình nến có vai trò quan trọng tại khu vực giá cao hoặc giá thấp. Rõ ràng, thế nào gọi là “khu vực giá cao” hoặc “khu vực giá thấp” lại tùy thuộc theo từng cách hiểu. Một trong những kỹ thuật tôi gợi ý sử dụng để xác định mức giá “thấp” hay “cao” là chỉ báo dao động (oscillator) để xem thị trường đang quá bán hay quá mua. Đây là một ví dụ cho thấy việc bổ sung các công cụ kỹ thuật cổ điển của phương Tây (như các chỉ báo dao động) cho đồ thị nến là điều rất có giá trị.
Cũng như các phương pháp đồ thị khác, các mẫu hình nến sẽ phụ thuộc vào cách hiểu của người sử dụng. Kinh nghiệm lâu năm với đồ thị nến trên thị trường bạn tham gia sẽ cho bạn biết những mẫu hình nến và các dạng biến thể của mẫu hình nào sẽ hoạt động tốt nhất trong thị trường của mình. Theo khả năng phán đoán đó, tính chủ quan có thể không phải là điều xấu. Đây có thể là lợi thế của bạn so với những người không dành thời gian và nỗ lực để theo dõi thị trường một cách sát sao như bạn.
Trong Chương 3, tôi sẽ bàn về việc vẽ một đồ thị nến riêng lẻ yêu cầu giá đóng cửa. Do đó, có thể bạn sẽ phải chờ mức giá đóng cửa để có tín hiệu giao dịch xác thực. Điều này có nghĩa là bạn phải đặt lệnh giao dịch theo mức giá đóng cửa của thị trường, hoặc bạn phải cố gắng dự đoán mức giá đóng cửa và đặt lệnh giao dịch vài phút trước khi thị trường kết phiên. Bạn cũng có thể đợi mức giá mở cửa của ngày tiếp theo trước khi đặt lệnh.
Việc đợi giá đóng cửa không phải chỉ bó hẹp ở đồ thị nến. Nhiều hệ thống phân tích kỹ thuật (đặc biệt là những hệ thống dựa trên các Đường trung bình động của giá đóng cửa) yêu cầu có mức giá đóng cửa để hình thành tín hiệu. Đây là lý do tại sao thường có một sự đột biến trong hoạt động giao dịch vài phút cuối của phiên, bởi các tín hiệu mua bán được tự động hóa bắt đầu hoạt động dựa theo giá đóng cửa sắp hình thành. Ngược lại, một số nhà phân tích kỹ thuật quan niệm giá đóng cửa trên ngưỡng kháng cự mới là tín hiệu mua hợp lệ, nên họ phải đợi có giá đóng cửa để xác nhận.
Đồ thị nến cung cấp nhiều tín hiệu giao dịch hữu ích. Tuy nhiên, nó không cung cấp giá mục tiêu. Đó là lý do việc sử dụng các kỹ thuật phương Tây trên đồ thị nến là điều hết sức quan trọng. Đây sẽ là nội dung trọng tầm của Phần 2.
Với hàng trăm đồ thị trong suốt cuốn sách này, đừng ngạc nhiên nếu bạn nhìn thấy có các mẫu hình nến mà tôi bỏ sót trong các đồ thị. Cũng sẽ có những ví dụ về các mẫu hình nến thỉnh thoảng không hoạt động. Không có một công cụ kỹ thuật nào, kể cả nến Nhật, là bất khả chiến bại.
Đồ thị nến không phải một hệ thống hoàn chỉnh, chúng chỉ là một vũ khí, nhưng là một vũ khí mạnh mẽ để bạn sử dụng trong cuộc chiến giao dịch của mình.
Trước khi tôi đi sâu vào chủ đề đồ thị nến, tôi sẽ thảo luận ngắn gọn tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật như là một chuyên ngành riêng biệt. Với những độc giả còn xa lạ với chuyên ngành này, phần sau đây sẽ nhấn mạnh tại sao phân tích kỹ thuật lại quan trọng đến vậy. Nhưng đây không phải là phần viết chuyên sâu. Nếu bạn đã biết về những lợi ích của phân tích kỹ thuật, bạn có thể bỏ qua phần này. Đừng lo lắng, dù bạn không đọc phần này thì điều đó cũng sẽ không cản trở việc bạn tiếp nhận các thông tin phân tích đồ thị nến ở những phần sau.
T Ầ M Q UAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật bao gồm nhiều yếu tố. Đầu tiên, mặc dù phân tích cơ bản có thể cung cấp một thước đo về tình trạng cung/cầu (như tỷ lệ P/E, các thống kê kinh tế,...) thì yếu tố tâm lý không được bao gồm trong dạng phân tích này. Tuy nhiên, thị trường có thể bị ảnh hưởng bởi tâm lý, đôi khi ở mức độ rất lớn. Như John Maynard Keynes đã phát biểu: “Không có gì thảm họa bằng một chính sách đầu tư lý trí trong một thế giới phi lý trí”. Phân tích kỹ thuật cung cấp cách thức duy nhất để đo lường thành phần “phi lý trí” (cảm xúc) hiện hữu trong tất cả các thị trường (2).
Phân tích cơ b ả n là gì? Phân tích cơ bản là một chiến lược phân tích đầu tư cổ phiếu hoặc chứng khoán bằng cách xác định giá trị nội tại của nó. Một thành phần rất quan trọng của phương pháp này là phải xem xét tình trạng tài chính của một công ty. Các khía cạnh khác như quản lý, xu hướng cóng nghiệp, và điều kiện tổng thể của nền kinh tế cũng được tính đến. Mục tiêu chính là ước tính một giá trị nhất định cho công ty để có thể được sử dụng làm cơ sở quyết định.
Phân tích kỹ thuật là gì? Phân tích kỹ thuật không xem xét giá trị của cổ phiếu như một động cơ chính để mua hay bán cổ phiếu. Nó đòi hỏi phải nghiên cứu xu hướng và động lực của giá và số lượng của cổ phiếu. Dựa trên xu hướng, các nhà kinh doanh có thể quyết định khi nào mua hoặc khi nào bán cổ phiếu. Các nhà phân tích kỹ thuật chủ yếu sử dụng biểu đồ, và không thường xuyên tham khảo ý kiến về tình hình tài chính của công ty.
John Maynard Keynes (5 tháng 6 1883 - 21 tháng 4 1946) là một nhà kinh tế học người Anh. Những ý tưởng của ông, hình thành nền Kinh tế học Keynes, có ảnh hưởng lớn tới kinh tế học hiện đại và chính trị cũng như các chính sách tài chính của nhiều chính phủ. Ông ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, bởi nhờ đó chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để điều chỉnh tổng cầu do đó làm giảm nhẹ những ảnh hưởng bất lợi do suy thoái kinh tế hay bùng nổ kinh tế gây ra. Ông là người khai sinh kinh tế học vĩ mô hiện đại và là nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất TK 20.
-Wikipedia-
Đây là một câu chuyện giải trí về việc tâm lý có thể ảnh hưởng mạnh mẽ như thế nào đến thị trường. Mẩu truyện này được lấy từ cuốn sách The Great Gatsby (Tên tiếng Việt: Gatsby vĩ đại) (3). Nó diễn ra tai Ủy ban Giao dich Chicago.
Giá đậu tương đã tăng mạnh. Có một đợt hạn hán ở Illinois Soybean Belt. Và nếu đợt hạn hán đó không sớm kết thúc, sẽ xảy ra sự thiếu hụt đậu tương trầm trọng... Đột nhiên, một vài giọt nước trượt xuống cửa sổ. “Nhìn kìa, mưa rồi!”, ai đó la lên. Hơn 500 cặp mắt (ở đây chỉ các nhà giao dịch) quay sang các cửa sổ lớn... Rồi mưa tí tách rơi, hồi sau thành một trận mưa như trút nước. Trời đã đổ mưa ở trung tâm thành phố Chicago.
Bán. Mua. Mua. Bán. Những tiếng hô vang lên từ miệng của những nhà giao dịch hòa cùng tiếng sét đì đùng bên ngoài. Giá đậu tương bắt đầu từ từ đi xuống. Và rồi, giá đậu tương đã rơi xuống không phanh.
Đúng là Chicago có mưa rơi, nhưng không ai trồng đậu tương ở Chicago cả. Ở trung tâm Soybean Belt, cách khoảng 300 dặm về phía Nam Chicago, trời xanh ngắt, nắng chói chang và rất khô cạn. Nhưng ngay cả khi trời không mưa trên những cánh đồng đậu tương, trời vẫn mưa trong đầu của các nhà giao dịch, và chừng đó là đủ rồi. Đối với thị trường, không gì là quan trọng trừ khi thị trường có phản ứng. Trò chơi diễn ra là nhờ tâm lý và cảm xúc.
Để nói về tầm quan trọng của tâm lý đám đông, hãy nghĩ về những gì xảy ra khi bạn trao đổi một mảnh giấy gọi là “tiền” cho một mặt hàng nào đó như thực phẩm hoặc quần áo. Tại sao một mảnh giấy không hề mang giá trị nội tại lại có thể đổi lấy một thứ hữu hình? Đó là vì đám đông mang tâm lý chung. Mọi người cùng tin rằng nó sẽ được chấp nhận, nên nó được chấp nhận. Một khi tâm lý chung này biến mất, khi mọi người ngừng tin vào tiền, nó sẽ trở nên vô giá trị.
Thứ hai, phân tích kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng giúp tạo nên kỷ luật giao dịch. Kỷ luật sẽ giúp giảm thiểu cảm xúc, kẻ thù của tất cả các nhà giao dịch. Một khi bạn đặt tiền vào thị trường, chủ nghĩa cảm xúc đã ngồi vào ghế lái, sự lý tính và khách quan lúc này chỉ là hành khách mà thôi. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy thử giao dịch trên giấy rồi sau đó thử giao dịch bằng tiền thật của mình. Bạn sẽ sớm khám phá ra các khía cạnh phản tác dụng của sự căng thẳng, tâm lý mong đợi và lo lắng sẽ thay đổi cách bạn giao dịch và quan điểm của bạn về thị trường như thế nào - mà thường chúng sẽ tỷ lệ thuận với số tiền mà bạn giao dịch. Phân tích kỹ thuật có thể giúp bạn đặt tính khách quan trở lại ghế lái. Nó cung cấp một hệ thống thiết lập điểm mở và đóng vị thế, tính toán tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận hoặc đặt vị trí các mức dừng lỗ. Bằng cách sử dụng chúng, bạn sẽ kiểm soát được rủi ro và quản lý vốn trong giao dịch.
Như đã đề cập trong phần thảo luận trước, các phân tích kỹ thuật đóng góp vào tính khách quan của thị trường. Bản chất của con người là nhìn thị trường theo cách chúng ta muốn thấy, chứ không phải như cách nó thực sự diễn ra. Bạn đã bao nhiêu lần ở trong trường hợp như vậy? Một nhà giao dịch mua vào, ngay lập tức thị trường giảm mạnh. Anh ấy có chấp nhận cắt lỗ không? Thường là không.
Mặc dù trên thị trường không có chỗ cho hy vọng, nhà giao dịch sẽ lượm lặt tất cả các tin tức cơ bản tích cực mà anh ta có thể để có thể bấu víu vào hy vọng rằng thị trường sẽ quay trở lại theo chiều hướng kỳ vọng (hay như một khách hàng cố vấn của chúng tôi nói: “Bạn bám rễ vào vị thế của mình”). Trong khi đó giá vẫn tiếp tục giảm thêm. Có lẽ thị trường đang cố nói với anh ta điều gì đó. Thị trường đang giao tiếp với chúng ta. Chúng ta có thể theo dõi những thông điệp này bằng cách sử dụng phân tích kỹ thuật. Nhà giao dịch kia đang nhắm mắt bịt tai trước những thông điệp được thị trường gửi tới.
Nếu nhà giao dịch kia lùi lại và nhìn nhận khách quan hành động giá, anh ta có thể có “cảm” thị trường tốt hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một thông tin được cho là tích cực tung ra nhưng giá không đi lên hoặc thậm chí còn giảm xuống? Loại hành động giá đó đang gửi rất nhiều thông tin về tâm lý của thị trường hiện tại và cho chúng ta biết nên giao dịch theo hướng nào.
Nếu tôi không lầm, chính nhà giao dịch nổi tiếng Jesse Livermore đã bày tỏ ý tưởng rằng chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh tốt hơn khi nhìn nó từ xa. Phân tích kỹ thuật giúp chúng ta lùi lại để có một quan điểm khác về thị trường, và biết đâu quan điểm ấy lại tốt hơn.
Thứ ba, tuân theo các phân tích kỹ thuật là điều quan trọng ngay cả khi bạn không hoàn toàn tin vào công dụng của chúng. Điều này là vì đôi khi, hành động đồ thị chính là lý do cho một chuyển động giá của thị trường. Vì chúng là một nhân tố di chuyển thị trường, ta nên theo dõi chúng.
Thứ tư, bước đi ngẫu nhiên cho rằng giá thị trường trong một ngày không liên quan tới giá ngày hôm sau. Nhưng quan điểm học thuật này đã loại trừ một thành phần quan trọng - con người. Mọi người nhớ giá ngày hôm nay qua ngày tiếp theo và có hành động phù hợp. Một cách dí dỏm, phản ứng của mọi người ảnh hưởng đến giá cả, nhưng giá cả cũng ảnh hưởng đến phản ứng của mọi người. Do đó, chính giá cả là một thành phần quan trọng trong việc phân tích thị trường. Những người chê bai phân tích kỹ thuật quên điểm cuối cùng này.
Thứ năm, và cuối cùng, hành động giá là phương pháp trực tiếp và dễ tiếp cận nhất để xem tổng thể mối quan hệ cung/cầu. Có thể có những thông tin và tin tức cơ bản không được công chúng biết đến nhưng bạn có thể mong đợi rằng những tin tức đó đã phản ánh vào giá. Những người sớm nhận biết những sự kiện chuyển động thị trường hầu hết sẽ mua vào hoặc bán ra cho đến khi giá hiện tại phản ứng với thông tin của họ.
(1). Tôi nhiệt liệt kêu gọi những ai thực sự quan tâm đến phân tích kỹ thuật tham gia MTA. Website của họ là www.mta.org.
(2). Smith, Adam. The Money Game (New’ York: Random House, 1986, trang 154).
(3). Tamarkin, Bob. The New Gatsby’s (Chicago: Bob Tamarkin, 1985, trang 122 - 123).