CÁCH VẼ NẾN
Phần hình chữ nhật của cây nến trong Hình 3.4 đến 3.6 được gọi là thân nến. Nó đại diện cho phạm vi giữa giá mở cửa và đóng cửa trong phiên đó. Khi thân nến có màu đen (tức là được lấp đầy), điều đó có nghĩa là mức giá đóng cửa trong phiên thấp hơn mức giá mở cửa. Nếu thân nến màu trắng (tức là trống rỗng), nó có nghĩa là giá đóng cửa cao hơn giá mở cửa.
Hình 3.4: Nến trắng
Hình 3.5: Nến đen
Hình 3.6: Nến Con quay (Spinning Top)
Các đường mỏng phía trên và dưới thân nến là những bóng nến (những cái tên nghe hết sức thi vị - thân nến và những bóng nến của thân nến). Bóng nến đại diện cho cực trị của giá trong phiên. Bóng nến phía trên thân nến được gọi là bóng nến trên và bóng nến bên dưới thân nến được gọi là bóng nến dưới. Theo đó, đỉnh của bóng nến trên là mức giá cao nhất trong phiên và đáy của bóng nến dưới là mức giá thấp nhất trong phiên.
Nếu một cây nến không có bóng nến trên, nó được gọi là nến Cạo đầu (shaven head). Một cây nến không có bóng nến dưới được gọi là nến Cạo đáy (shaven bottom).
Chúng ta có thể thấy tại sao đồ thị này lại được gọi là đồ thị nến hay nến Nhật, các đường kẻ nhìn giống nến với bấc nến. Như có nhắc trong phần Giới thiệu, chúng ta sẽ dùng từ nến và nến Nhật luân phiên trong suốt cuốn sách.
Người Nhật quan niệm thân nến là “tinh túy của chuyển động giá”. Điều này phản ánh quan niệm chủ chốt về sức mạnh của thân nến: bằng cách nhìn vào chiều cao và màu của thân nến, ngay lập tức ta có thể thu được gợi ý một cách tượng hình về việc phe mua hay phe bán đang kiểm soát thị trường.
Nhờ thế, đồ thị nến giúp phân tích thị trường nhanh và tiện lợi hơn. Lấy nến trắng dài trong Hình 3.4 làm ví dụ, ai đang kiểm soát? Phe mua hay phe bán? Rõ ràng đó là phe mua bởi trong phiên đó, thị trường mở cửa gần mức thấp nhất và đóng cửa gần mức cao nhất. Tương tự, nến đen dài (Hình 3.5) là một hình ảnh đại diện cho việc phe bán đang kiểm soát, ít nhất là trong phiên hôm ấy, bởi thị trường mở cửa gần mức cao nhất và đóng cửa gần mức thấp nhất.
Ta có thể vẽ đồ thị nến trên bất cứ khung thời gian nào - từ đồ thị giao dịch trong ngày đến đồ thị ngày và tuần. Ví dụ, một nến trắng như trong Hình 3.4 nếu nằm trên đồ thị ngày sẽ có nghĩa đáy của thân nến là giao dịch đầu tiên trong ngày (bạn hãy nhớ rằng thân nến trắng có nghĩa giá mở cửa nằm ở đáy của thân nến) và đỉnh thân nến là mức giá đóng cửa của ngày hôm đó. Mức giá cao nhất và thấp nhất trong ngày lần lượt là phần đỉnh của bóng trên và phần đáy của bóng dưới.
Tương tự, một nến đen khung năm phút cho ta biết mức giá mở cửa của khoảng thời gian năm phút là ở đỉnh của thân nến đen và mức đóng cửa là ở đáy. Mức cao nhất và thấp nhất trong khoảng thời gian năm phút sẽ hình thành bóng nến trên và dưới.
Một ứng dụng của thân nến vào thực tiễn là dùng kích thước của nó để đo lường động lượng (momentum) của thị trường.
Nến trắng và nến đen dài cho thấy hành động giá nghiêng về một phía, ngoài ra, nếu thân nến nhỏ dần, ta có thể đoán ra động lượng trước đó đang giảm sút. Từ tiếng Nhật để chỉ thân nến nhỏ (trắng hoặc đen) là nến Con quay (spinning top). Hình 3.6 là ví dụ của nến Con quay. Các đường vẽ trong Hình 3.6 có bóng trên và dưới, nhưng độ dài bóng nến không quan trọng. Quan trọng thân nến phải có kích thước nhỏ thì mới hình thành Con quay.
Nến Con quay là một phần của các mẫu hình nến bao gồm Sao Mai (morning stars), Sao Hôm (evening stars), Harami, Nến Búa (hammer) và các nến khác. Chúng ta sẽ đi sâu vào thảo luận trong các phần tương ứng.
Bạn có để ý thấy điều gì về thân nến trong Hình 3.7 không? Không có thân nến nào cả! Những nến này gọi là nến Doji, chúng thể hiện một phiên có giá đóng cửa và giá mở cửa là như nhau (hoặc sát nhau). Doji ngụ ý tín hiệu đảo chiều. Chúng ta sẽ xem xét khía cạnh ấy ở phần sau chương này và chi tiết hơn ở Chương 8.
Trong Hình 3.8, tuần giao dịch từ ngày 01 tháng 04 bắt đầu một nhịp giảm gần mức 315 với nhiều nến đen liên tiếp. Nhịp giảm càng mạnh thì các thân nến càng dài, cho thấy đà giảm ngày càng lớn. Sự xuất hiện của một nến Con quay vào ngày 07 tháng 04 thay đổi cục diện kỹ thuật từ việc người kiểm soát hoàn toàn thị trường sang mất dần sự lấn át. Do chỉ có một phiên giao dịch cho nến thân nhỏ, nên nó chỉ được xem là một dấu hiệu thảm dò. Dù sao đó cũng là tín hiệu đầu tiên cho một đợt đảo chiều tiềm năng. Đây là một trong những lợi thế lớn của đồ thị nến: Chúng thường cho bạn tìm ra những điểm đảo chiều tiềm năng của thị trường rất nhanh chỉ trong một phiên.
Hình 3.7: Ví dụ của Doji
Hình 3.8: Semi-Conductor Index, Đồ thị ngày (Con quay)
Con quay vào ngày 07 tháng 04 là một tín hiệu nến, và đồng thời cũng góp phần xác nhận một công cụ phân tích kỹ thuật truyền thống của phương Tây, ở đây chính là một đường hỗ trợ hướng lên hình thành bằng cách nối hai đáy ngày 10 tháng 03 và 23 tháng 03. Vì thế, chúng ta có hai tín hiệu, đường hỗ trợ và Con quay, củng cố hỗ trợ gần mức 285. Việc phối hợp kỹ thuật phương Tây và phương Đông này sẽ được tập trung thảo luận ở Phần 2.
Một ví dụ khác về nến Con quay báo hiệu đảo chiều là ở điểm bắt đầu nhịp giảm từ 315: Con quay ngày 02 tháng 04 (hãy nhớ là màu của thân nến nhỏ không quan trọng) theo sau một nến trắng dài (lúc này người mua vẫn nắm quyền kiểm soát).
Một trong những đặc điểm rất hay của nến Nhật là chúng cho ta các tín hiệu cảnh báo không thấy rõ trên đồ thị thanh. Ví dụ, hãy xem lại đồ thị ở Hình 3.2 và tuần tăng ngày 18 tháng 01. Hãy chú ý đến hai cây nến lúc cổ phiếu tiệm cận mức giá 60 đô la. Ở đồ thị thanh, cổ phiếu nhìn rất khỏe vì nó đang tạo đỉnh sau cao hơn đỉnh trước và đáy sau cao hơn đáy trước, thậm chí mức giá đóng cửa cũng cao hơn. Tuy nhiên, nến Nhật lại cho ta góc nhìn khác. Các nến thân nhỏ cho tín hiệu người mua không hoàn toàn kiểm soát. Và bạn cũng hãy để ý mức giá tuần ngày 18 tháng 01 đang gần vùng kháng cự. Do đó, các nến thân nhô đang xác nhận vùng kháng cự ấy.
Chúng ta có thể thấy người Nhật rất chú trọng đến mối quan hệ giữa giá mở cửa và giá đóng cửa vì chúng là hai mức giá nhiều cảm xúc nhất trong một ngày giao dịch. Người Nhật có câu tục ngữ: “Sáng sóm là bánh lái của cả ngày”. Tương tự, giá mở cửa chính là bánh lái cho cả phiên giao dịch. Nó cung cấp manh mối đầu tiên về phương hướng của phiên hôm ấy. Đó là thời gian mà tất cả các tin tức và tin đồn tù đêm qua được lọc và tổng hợp lại tại một thời điểm.
Càng lo lắng, nhà giao dịch càng muốn mua bán sớm hơn. Vì thế, khi thị trường mở cửa, phe bán khống có thể lo lắng mua lại, phe mua tiềm năng nay lại muốn mua một cách dứt khoát, những người phòng hộ rủi ro có thể mở một vị thế mới hoặc thoát khỏi vị thế cũ, v.v...
Sau một tổ hợp những hành động lúc thị trường mở cửa, bên mua và bên bán tiềm năng có một mức giá tiêu chuẩn. Có sự tương đồng nhất định giữa các giao dịch trên thị trường và xung trận chiến đấu. Theo đó, giá mở cửa cung cấp góc nhìn sớm về chiến trường và dấu hiệu tạm thời cho thấy đội quân thân thiện hay hiếu chiến.
Một mức giá quan trọng khác là giá đóng cửa. Dựa trên cách thị trường đóng cửa, chúng ta có thể thấy nhà giao dịch có bị chi phối bởi nhiều cảm xúc hay không. Giá đóng cửa cũng là một điểm giá quan trọng đối với nhiều nhà phân tích kỹ thuật. Họ có thể chờ giá đóng cửa để xác nhận sự bứt phá từ một điểm quan trọng trên đồ thị. Những cuộc gọi thông báo vi phạm tỷ lệ ký quỹ (margin call) trong thị trường hợp đồng tương lai cũng dựa trên mức giá đóng cửa. Thêm vào đó, nhiều hệ thống giao dịch máy tính (ví dụ: hệ thống đường trung bình động) được tính toán dựa trên mức giá đóng cửa.
Người Nhật sử dụng rất nhiều thuật ngữ trong quân sự để áp dụng vào kỹ thuật nến, điển hình là cách họ gọi các lệnh lớn bất thường lúc mở cửa hay đóng cửa. Nếu có một lệnh mua hoặc bán lớn đẩy vào thị trường lúc kết phiên hoặc gần kết phiên với mục đích ảnh hưởng đến giá đóng cửa, người Nhật gọi hành động này là một cuộc “Tấn công buổi tối” (night attack). Nếu điều này diễn ra vào lúc mở cửa, cũng không bất ngờ lắm khi nó được gọi là cuộc “Tấn công buổi sáng” (morning attack).
NHỮNG THUẬT NG Ữ NẾN VÀ C Ả M XÚC CỦA THỊ TRƯỜNG
Phân tích kỹ thuật là cách duy nhất để đo lường yếu tố cảm xúc của thị trường. Chúng ta đều biết không hiếm lần, một lạng cảm xúc có giá trị tương đương một cân sự thật. Còn cách nào khác đề giải thích sự biến chuyển bất ngờ trong thị trường khi các yếu tố cơ bản không thay đổi?
Một điều rất thú vị của đồ thị nến Nhật Bản chính là tên các mẫu hình, chúng là những cụm từ đầy màu sắc mô tả độ khỏe và cảm xúc của thị trường tại thời điểm mẫu hình được hình thành. Liệu sau khi nghe cụm từ như “Mây đen bao phủ”, bạn có nghĩ rằng độ khỏe về mặt cảm xúc của thị trường đang tốt không? Tất nhiên là không! ở những phần sau bạn sẽ thấy đó là mẫu hình giảm giá và tên của chúng truyền tải rõ ràng tình trạng yếu ớt của thị trường.
Có nhiều mẫu hình và nhận định trong cuốn sách này, nhưng những cái tên tượng hình người Nhật sử dụng không chỉ khiến việc sử dụng đồ thị nến vui hơn mà còn giúp bạn dễ ghi nhớ mẫu hình tăng hay giảm giá. Tôi lấy ví dụ, trong Chương 5, bạn sẽ tìm hiểu về mẫu hình “Sao Hôm” (Evening stars) và “Sao Mai” (Morning stars). Không cần biết những mẫu hình này trông như thế nào hoặc là gì, chỉ cần nghe tên của chúng, bạn nghĩ mẫu hình nào tích cực và mẫu hình nào tiêu cực? Ngôi Sao Hôm (cái tên chỉ Sao Kim) chỉ xuất hiện trước khi màn đêm buông xuống, nghe cỏ vẻ là một tín hiệu tiêu cực - và đúng là như vậy! Còn Sao Mai mang ý nghĩa tích cực vì ngôi sao này chỉ xuất hiện khi mặt trời mọc.
1. Con quay được thảo luận chi tiết hơn trong cuốn sách Beyond Candlesticks (New York: John Wiley and Sons, 1994).