Chương 11 - Những Sự Thật Được Che Giấu.
Tốp cận vệ của Pharaon chạy đến. Họ dò xét hành lang với những mũi giáo, thì thầm nhanh chóng với nhau, sau đó họ chia ra và lại bắt đầu chạy đi tìm kiếm những kẻ xâm nhập. Tiếng bước chân xa dần cho đến khi biến mất hoàn toàn.
Jason và Rick trốn ở sâu bên trong hốc. Sau một khoảng thời gian tưởng như vô tận, bọn trẻ mới dám gạt đám giấy cói và nhìn ra ngoài.
Không còn ai cả.
Jason lê chân trên sàn nhà trong im lặng, theo sau là cậu bạn.
Hai đứa trẻ nhìn xung quanh tìm kiếm Maruk, nhưng cô bé, như tất cả những người khác, dường như đã biến mất, bị nuốt chửng bởi mê cung của những hành lang bụi bặm đó.
“Cậu cũng nghe thấy phải không?” Rick thì thầm. “Hay tất cả là do tớ tưởng tượng ra? Làm thế nào mà Oblivia Newton lại ở đây được?”
Sau đó cậu bé ngửi ngửi không khí, và sộc ngay vào mũi là mùi nước hoa đặc trưng khiến cậu nhớ đến cuộc gặp đầu tiên với Obliva, khi cậu suýt bị chiếc ô-tô của cô ta đâm phải trên đường đến Biệt thự Argo.
Jason cho bạn xem dải giấy cói mà cậu tìm thấy trong hốc tường.
“Chúng ta đã đi trước cô ta một bước,” cậu thầm thì.
Nói rồi Jason mở cuộn giấy và thấy bên trong có một thông điệp ngắn, được viết bằng những chữ cái y chang những thông điệp bọn chúng tìm thấy trong chiếc hộp nhỏ tại vách đá và trong bưu kiện của cô Calypso.
“Nhưng đây là những chữ viết tượng hình của Disco di Festo mà!” Rick lẩm bẩm ngay khi nhìn thấy bức thông điệp.
“Theo tớ thì cuộc săn tìm lại tiếp tục…”
“Chúng ta không có thời gian để dịch nó bây giờ, lính canh có thể quay trở lại bất cứ lúc nào. Chúng ta phải rời khỏi đây thôi.”
Bọn trẻ đi đến cuối hành lang và trước khi đi tiếp, chúng hé nhìn từ trong góc. Có vẻ như không có ai. Bọn trẻ quyết định quay gót đi tới Phòng Sao. Khi đến đó rồi, nếu không tìm thấy Maruk, chúng sẽ tìm cách để rời khỏi đây.
Bọn trẻ nắm chặt trong túi thẻ thông hành con bọ hung, ngẫm nghĩ lại những gì chúng vừa nghe thấy.
“Nhưng Oblivia Newton chính xác là ai vậy?” Jason đột nhiên hỏi.
“Nói thật là tớ chẳng có ý niệm nào về điều đó hết,” Rick trả lời. “Tớ chưa bao giờ gặp cô ta trước khi đến nhà cậu hôm qua… Tớ sẽ hỏi mẹ xem, chắc hẳn bà sẽ biết. Hoặc… chúng ta nên hỏi Gwendaline, người làm đầu ở Kilmore Cove. Mẹ tớ nói rằng nếu ở Kilmore Cove có một con ruồi bay qua thì Gwendaline cũng biết.”
“Oblivia Newton…” Jason lặp lại. “Ở Ai Cập.”
“Đến giờ tớ vẫn không thể tin nổi,” Rick đáp lại.
Bọn trẻ đi vào hành lang được trấn giữ bởi một bức tượng quỷ có cánh.
“Cậu nghe cô ta nói gì không? ‘Với ngươi thế là kết thúc rồi, Ulysses, lời của Oblivia Newton ta đó!’”
“Tớ có nghe thấy… Trong phút chốc tớ đã suýt hét lên.” Jason thì thầm. “Bây giờ chúng ta biết được rằng Oblivia căm ghét người chủ cũ.”
“Bây giờ nghĩ lại,” Rick nói, “khi tớ đến Biệt thự Argo, cô ta và người làm vườn đang cãi nhau quyết liệt.”
“Vì sao?”
“Tớ không biết rõ lắm, nhưng liên quan đến Biệt thự Argo.”
“Cậu nói là Oblivia… có thể đã biết về cánh cửa, về cái hang và… con tàu sao?” Jason giật mình.
“Có thể thế…” Rick lẩm bẩm. “Tuy nhiên bây giờ chúng ta cần tìm cách ra khỏi đây, được chứ?”
Vừa đi về phía Phòng Sao, tránh gây ra tiếng động dù là nhỏ nhất và canh chừng ở mọi đoạn rẽ, Jason không thể ngưng nghĩ ngợi.
“Bỏ hoang”. Từ này chợt lóe lên trong đầu cậu như một tia chớp và làm sáng tỏ một loạt các chi tiết: Cánh cửa Thời gian phủ đầy những vết trầy xước và vết cháy, giấu sau chiếc tủ quần áo, gói bưu kiện không ai đến nhận, con đường dưới đất bị sập mất một phần, lưới thông gió trong chiếc hang, cuốn nhật ký của thuyền trưởng con tàu Metis nói về chuyến hành trình cuối cùng.
“Tất cả đều bị bỏ hoang!” Cậu kêu lên. “Bỏ hoang và xóa sổ. Rick, cậu nghĩ mà xem: bức tường chặn hành lang, sổ sách bị xóa mất, hốc tường trống rỗng. Tất cả đều bị đóng lại, bị giấu đi… như thể có gì đó không được phép tìm ra. Một thứ gì đó rất nguy hiểm.”
Biệt thự Argo vẫn rung chuyển trong cơn dông.
Dưới cổng vòm, Julia nhìn ra ngoài qua lớp cửa kính. Nestor lặng lẽ đi đến đứng phía sau cô bé, quan sát cơn mưa đang trút xuống và ánh đèn của ngọn hải đăng đang chậm chạp quay quanh chính nó.
“Đêm nào người ta cũng bật nó ạ?” Julia hỏi.
“Không, chỉ thỉnh thoảng thôi, khi Leonard nhớ ra,” người làm vườn nhún vai trả lời.
“Ngọn hải đăng không hoạt động tốt ạ?”
“Hoàn toàn không phải. Vấn đề là người canh gác nó.”
“Cháu không hiểu…”
“Leonard bị chột một mắt,” ông lão làm vườn đợi cho chùm ánh sáng trắng hình nón đi qua rìa khu vườn, rồi sau đó mất hút trên mặt biển, nói tiếp, “ông ấy đã có một cuộc đọ sức với một con cá mập.”
Julia rùng mình.
“Bất hạnh thay, có nhiều chuyện không may vẫn thường xảy ra trên biển,” người làm vườn thì thầm.
“Ông có thể nghỉ lại đây nếu ông muốn…, sau một lúc,” Julia đề xuất.
Nhưng khi quay lại, Julia nhận ra Nestor đã đi khỏi, để cô bé lại một mình. Julia dựa lên bức tượng người thiếu phụ vá lưới, đăm chiêu, sau đó quay trở lại chỗ cầu thang lạnh lẽo. Những bức chân dung treo trên tường nhìn cô bé một cách dữ tợn. Cô nghe thấy một tiếng động và đứng khựng lại.
Có gì đó đập liên hồi ở tầng trên, trong phòng cô. Julia cố gắng không nghĩ về điều này.
“Không có ai trong ngôi nhà này cả,” cô tự nhủ.
Một dãy các căn phòng lớn nhỏ của tầng trệt trải dài trước mắt cô bé, kết thúc là phòng ăn. Không có bất cứ ánh đèn nào.
“Ông Nestor?” Cô thầm thì, giọng nhỏ xíu.
Cơn mưa vẫn đang điên cuồng.
Julia nghe thấy tiếng động thứ hai đến từ tầng trên. Cô nắm chặt lan can bằng sắt và bước lên bậc thang đầu tiên.
“Ông Nestor?”
Julia bước thêm vài bước, cho đến khi, từ cửa sổ duy nhất chiếu sáng cầu thang, cô nhìn thấy ánh sáng bên ngoài khu vườn. Sau đó là tiếng động cơ.
Cô mở to mắt, chạy lại phía cổng vòm.
“Ông Nestor!” Cô bé hét lên. “Ông Nestor!”
Một chiếc ôtô đã tiến vào khuôn viên Biệt thự Argo.