← Quay lại trang sách

Chương 12 - Ánh Sáng Trong Khu Vườn.

Rick và Jason bỗng khựng lại. Sự im lặng trong Ngôi nhà Sự sống bị xé toạc bởi một tiếng kèn trompet, tiếp theo là tiếng hò reo dường như rất gần.

Hai cậu bé cẩn trọng liếc nhìn từ trong góc và thấy một căn phòng lớn màu vàng, có cửa hướng ra phía vườn. Tiếng reo hò vọng đến từ bên ngoài.

Rick cắn môi, nhìn về phía sau. Cậu đã nhầm đường rồi…

Hai cậu bé rón rén lại gần cửa sổ: trong khu vườn, một đám đông đang reo hò, chen chúc bên lề con đường chính. Không khí hân hoan tràn ngập cờ và hoa, một cỗ xe dát vàng được kéo bởi hai chú ngựa ô lộng lẫy.

“Là cậu ấy, Tutankhamon!” Jason kêu lên khi nhìn thấy bóng người đứng trên cỗ xe.

Vị Pharaon trẻ trong trang phục màu vàng và trắng đang liên tục vẫy tay chào đám đông. Bên cạnh cậu, một người đàn ông oai vệ với bộ râu rậm bạc trắng đang giữ dây cương.

“Đó hẳn là bố của Maruk” Rick nói.

Giá mà bọn chúng có thể nói chuyện với Bậc thầy Thư lại. Có thể ông ấy là một trong số ít người đã từng quen biết Ulysses Moore.

Jason nhìn cảnh tượng với trái tim nghẹn lại vì xúc động. Cậu sẽ phải làm gì để có thể ở dưới đó, trong khu vườn, tận mắt thấy Pharaon!

“Tớ nghĩ đã đến lúc chúng ta nên đi rồi,” Rick nói. “Tốt hơn chúng ta nên quay lại, từ đây chúng ta sẽ không bao giờ đến Phòng Sao được…”

“Này!”

Đúng lúc đó, một giọng nói nhỏ thì thầm cất lên.

“Cậu nói gì cơ?”

“Tớ có nói gì đâu.”

“Hình như tớ nghe thấy một tiếng huýt sáo…”

“Có thể là từ phía ngoài kia!” Jason gợi ý.

“Này! giọng nói nhỏ lại lặp lại.”

Rick nhìn chăm chăm vào bức tượng trấn ở hành lang.

“Tớ lại nghe thấy nó.”

“Lần này tớ cũng nghe thấy!” Jason nói.

“Này, các cậu!” Lần này giọng nói cất lên. “Tớ ở dưới này!”

Mặt Maruk ló ra từ một hốc tường dưới chân bọn trẻ.

“Lính canh đã đi hết chưa?”

“Maruk!” Rick kêu lên. “Cậu làm gì trong đó thế?”

Cô bé kiểm tra nhiều lần để chắc chắn hành lang không còn ai khác, sau đó mới quyết định bò ra ngoài.

“Sém chút nữa là họ bắt được tất cả chúng ta!” Cô bé kêu lên, đứng dậy gỡ một cái mạng nhện ra khỏi cánh tay. “Tớ đã bảo các cậu rồi mà…”

“Và cậu đã trốn ở đây,” Jason lẩm bẩm.

Không khó khăn gì để dựng lại những việc đã xảy ra. Ngay khi nghe thấy tiếng bước chân, Maruk liền bỏ chạy và núp gần một bức tượng. Sau đó cô bé nhìn thấy Oblivia và một cậu thanh niên người Ai Cập đi đến, trong cơn hoảng loạn, cô bé đã chui ngay vào hốc tường đầu tiên nhìn thấy.

“Bây giờ chúng ta đi khỏi đây thôi, xin các cậu đấy!” Cô bé vừa nói vừa chỉnh lại bím tóc.

Maruk dẫn bọn trẻ đến một cầu thang dốc hướng xuống dưới.

“Cậu có nghe thấy họ nói điều gì đặc biệt không?” Rick hỏi.

“Chắc chắn rồi! Người phụ nữ có vẻ tức giận. Cậu thanh niên thì ngược lại, cố gắng trấn an cô ta. Tớ nghe được rằng họ sẽ đến Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên, bên ngoài Ngôi nhà Sự sống.”

“Điều này hẳn sẽ có ích đấy,” Jason lẩm bẩm.

Vài phút sau, có một lối ra xuất hiện cuối cầu thang, ánh nắng mặt trời lọt qua từ đó. Jason, Rick và Maruk bò ra bên ngoài và gặp nhau trong khu vườn của Ngôi nhà Sự sống, phía sau đám đông đang tung hô vị Pharaon.

Không có dấu vết gì của Oblivia Newton và người đồng hành.

Bọn trẻ phủi quần áo qua loa và tìm một nơi yên tĩnh.

Sau khi ngồi dựa lưng vào một cây cọ lùn, Rick và Jason bắt đầu dịch thông điệp trên tờ giấy cói trong vòng chưa đầy năm phút. Sau đó Rick đọc to một câu vô cùng khó hiểu:

Tái bút: Tôi thích cất giấu tấm bản đồ trong Căn phòng không tồn tại.

“Đó là điểm dừng tiếp theo của chúng ta,” Jason mỉm cười. “Căn phòng không tồn tại.”

“Tớ không nghĩ là chỉ dẫn này sẽ giúp các bạn được nhiều đâu.” Maruk nhận xét. “Trái lại, tớ nghĩ là người bạn của các cậu đã chơi khăm các cậu rồi…”

“Tại sao?” Jason hỏi.

“Nếu ông ấy đã giấu tấm bản đồ trong Căn phòng không tồn tại… Điều đó có nghĩa là ông ấy đã phá hủy nó rồi.”

“Tớ không hiểu.”

Maruk cười to.

“Căn phòng không tồn tại chỉ là một cách nói… Để một thứ trong Căn phòng không tồn tại nghĩa là… vứt thứ đó đi.”

“Cậu chắc chứ?”

“Chắc chắn. Tất cả bắt nguồn từ một truyền thuyết như khúc tình ca về hai người yêu nhau nhưng bị lạc mất dấu và phải đi lang thang với hy vọng tìm được nhau.”

“Hoặc người bạn của chúng ta muốn nói rằng ông ấy muốn giấu nó ở một nơi an toàn…”

“Không có cách nào giấu an toàn hơn là phá hủy nó. Có thể đó là những gì mà người bạn của các cậu muốn nói…”

“Không thể nào, Jason lẩm bẩm. Chúng tớ biết có một tấm bản đồ Kilmove Cove được giấu ở Ai Cập này… Bất cứ thứ gì được vẽ trong đó đều quan trọng. Có thể điều này giải thích bí ẩn về Cánh cửa Thời gian và con tàu Metis. Dù gì đi nữa, chúng ta phải tìm cho ra Căn phòng không tồn tại trước Oblivia Newton.”

“Thế thì sao…?” Rick xen vào.

“Thế thì các cậu điên hết rồi!” Maruk kết luận. “Và cái cô Oblivia Newton đó còn điên hơn các cậu! Tìm Căn phòng không tồn tại cũng giống như tìm một hạt cát giữa sa mạc vậy. Xin mời, các cậu cứ thoải mái đi.” Cô bé nói, chỉ vào những bức tường khổng lồ của Ngôi nhà Sự sống. “Ngay cả nếu lùng sục từ phòng này qua phòng khác, các cậu cũng sẽ mất cả đời để tìm kiếm nó.”

“Chúng tớ không có cả đời đâu,” Rick lẩm bẩm. “Chúng tớ còn không có đến cả một buổi chiều.”

Maruk ngồi xổm xuống bãi cỏ.

“Thế đó. Vậy thì, tớ nghĩ đã đến lúc các cậu kể cho tớ nghe chi tiết xem các cậu là ai và đến từ đâu. Các cậu thấy sao?”

Julia núp sau bức tượng người thiếu phụ vá lưới và quan sát.

Một chiếc xe thể thao đen hầm hố vừa đỗ trong sân. Bên trong có một người đàn ông đeo kính râm. Khi người đàn ông mở cửa, ánh sáng bên trong chiếc xe cho thấy một hình dáng béo lùn, chắc nịch, mặc bộ áo mưa dài nhàu nhĩ.

Người đàn ông xuống xe, chạy đến cửa vào Biệt thự Argo nhưng không gõ cửa.

Julia thấy ông ta rờ rẫm ổ khóa, như để kiểm tra xem cánh cửa có mở hay không, sau đó ông ta đi vòng quanh nhà và biến mất khỏi tầm mắt cô bé.

Đúng lúc đó một bàn tay tóm lấy Julia từ phía sau và nâng cô bé khỏi mặt đất.

“Đừng nói gì cả,” Nestor thì thầm rồi sau đó từ từ buông tay ra. “Có lẽ hắn nghĩ rằng ta không có nhà.”

“Đó là ai ạ?”

“Suỵt!”

Nestor đẩy cô bé vào góc tối, và dừng lại ở chân cầu thang. Một tia chớp lóe lên và người đàn ông trong bộ áo mưa xuất hiện sau cửa kính. Julia suýt nữa hét lên, nhưng lại một lần nữa, bàn tay Nestor ngăn tiếng hét của cô bé nghẹn lại trong cổ họng.

Người đàn ông lạ mặt áp sát mặt vào tấm cửa kính và nhìn vào bên trong.

“Hắn không thể thấy gì đâu… Những tấm kính này là loại chống trộm,” Nestor thầm thì.

Người đàn ông hạ tay xuống tay nắm của cánh cửa kính và thử mở nó.

“Tất cả đều đã được khóa kỹ,” Nestor lẩm bẩm. “Hắn không thể vào được đâu.”

Người đàn ông mặc áo mưa bắt đầu đi dọc đường biên ngoài cổng mái để thử các cánh cửa khác.

“Lối vào phòng bếp thì sao ạ?” Julia thì thầm.

“Cũng khóa rồi. Ta đã khóa tất cả. Hắn không thể vào được đâu.”

“Cửa sổ căn phòng đá!” Julia thì thào. “Ông đã mở nó ra để xem còn mưa không.”

“Cháu ở yên đây,” Nestor ra lệnh cho cô bé, rồi biến mất trong bóng tối.

Julia ở yên một chỗ nghe tiếng bước chân của Nestor xa dần để đi kiểm tra cửa sổ của căn phòng đá.

Cô bé dõi theo người đàn ông lạ mặt đang thử lần lượt tất cả tay cầm của các cánh cửa.

Khóa. Khóa. Khóa.

Người đàn ông hướng chầm chậm đến cánh cửa cuối cùng. Cơn mưa làm xóa nhòa hình dáng và đường nét trên khuôn mặt của hắn, nhưng Julia chắc chắn đã nghe thấy tiếng bước chân của hắn trong tiếng cơn bão gào thét.

Hắn đến cánh cửa thứ tư và xoay tay cầm.

Julia trợn tròn mắt.

Cửa mở.

Không hề nghĩ tới việc mình đang làm, Julia nhảy ra khỏi khỗ ẩn náu.

“KHÔNG!” Cô bé hét lên, chạy lao về phía trước.

Người đàn ông lạ mặt sững người lại, ngơ ngác.

Hắn chỉ mở nửa cánh cửa kính, khiến những cơn gió ẩm ướt tràn vào nhà, và cúi xuống để nhìn vào bên trong.

“Ôi!” Hắn kêu lên.

Một tia sét rạch trắng cả bầu trời phía sau lưng hắn.

Julia chạy đến khung cửa và đóng sập nó trước mặt gã đàn ông.

Có tiếng thứ gì đó bị vỡ. Sau đó, gã đàn ông ngã ngửa ra phía sau, tay ôm mũi.

Julia khóa cửa và xoay chốt an toàn.

Lúc đó cô bé nghe thấy tiếng bước chân chạy đến từ phía sau và Nestor cất tiếng hỏi:

“Julia, đã xảy ra chuyện gì thế? Ôi không…”

Từ phía bên kia cửa kính, Manfred quỳ trên bãi cỏ ướt nhẹp. Gã khư khư ôm chiếc mũi đang chảy máu giữa những ngón tay và mò mẫm trên mặt đất, tìm kiếm cặp kính râm yêu thích.

“Mày đã làm vỡ mũi tao!” Hắn hét lên, cố gắng đứng dậy. “Tao sẽ bắt mày phải trả giá!”

Gã loạng choạng nện vào cánh cửa kính bằng tất cả trọng lượng cơ thể. BỤP! BỤP!

Nestor và Julia lùi lại về phía cầu thang, nhưng tấm kính không vỡ.

“Tao sẽ phá tất cả! PHÁ TẤT CẢ!” Manfred gào lên dưới cơn mưa.

“Cháu yên tâm,” Nestor cố gắng trấn an cô bé. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Những tấm kính đó là loại kính chống trộm. Hắn sẽ không đập vỡ được chúng đâu.”

BỤP! BỤP! Âm thanh đó lặp lại.

“Tao sẽ khiến bọn mày phải trả giá!” Gã lại gào lên.

Ánh sáng của ngọn hải đăng quay quanh khu vườn. Julia lên tiếng hỏi:

“Ông Nestor, gã đàn ông này là ai? Và hắn muốn gì?”

Người làm vườn cau mày.

“Gã muốn vào đây,” ông lão trả lời.