← Quay lại trang sách

Chương 19 - Những Hành Lang Bị Bỏ Quên.

Cánh cửa của Những Hành Lang Bị Bỏ Quên mở ra, tạo nên âm thanh vang dội lại trong gian phòng lớn trống vắng. Không khí hăng nồng và tối đen.

“Không ai đặt chân đến đây đã nhiều năm rồi.” Maruk nói, dừng lại ở ngưỡng cửa. “Thực ra là từ khi xảy ra vụ hỏa hoạn…”

Một không khí im lặng đáng sợ bao quanh bọn trẻ. Chúng cất vài bước lưỡng lự, cảm nhận thấy xung quanh mình một sự ngột ngạt, chất chứa đau đớn, tro tàn và bất hạnh của những thứ đã chết và bị lãng quên. Các bức tường và trần nhà đầy vệt cháy đen, như những bàn tay dài khổng lồ co quắp. Các bức tượng thần một thời từng làm đẹp cho căn phòng giờ đã biến thành những chiếc bóng méo mó đầy hăm dọa, và những khuôn mặt hình thú của các bức tượng, một thời kiêu hãnh và cao ngạo, giờ thật buồn bã và sầu não. Ngay cả cửa sổ lớn nhìn xuống sân trong của Ngôi nhà Sự sống cũng không làm nơi đây bớt vẻ u sầu. Cứ như thể không khí đông đặc lại, không thể thoát ra bên ngoài.

Rick mở cuốn Từ điển những ngôn ngữ bị lãng quên ra, trong khi Jason thắp lên một chiếc đèn dầu và bắt đầu chiếu vào hành lang gần nhất. Hàng loạt những hốc tường đen thui bày ra ở cả hai phía thật là một cảnh tượng đáng khiếp sợ.

“Cứ như ở trong một nghĩa địa dưới lòng đất, hoặc trong một hầm mộ vậy.” Cậu bé nói, cố gắng không nghĩ đến những cuốn truyện tranh mà trong đó, từ những lỗ hổng đen tương tự thế này thò ra những bàn tay co quắp của một bộ xương.

Maruk vẫn đứng yên trên ngưỡng cửa, do dự không biết có nên bước vào hay không.

Cô bé đã lớn lên với suy nghĩ Những Hành Lang Bị Bỏ Quên là một nơi cấm kỵ, một nơi không có gì cả, chỉ còn tro tàn, bóng tối và đổ nát.

“Cậu đi với chúng tớ chứ?” Jason hỏi cô bé, khi nhận ra sự lo lắng của cô.

“Tớ không biết liệu mình có làm được không,” cô bé trả lời. “Hôm nay thực tế là tớ đã vi phạm tất cả các quy tắc của Ngôi nhà Sự sống và của bố tớ.”

“Vậy thì thêm một quy tắc nữa cũng không chết đâu mà, cậu động viên và cầm lấy tay cô bé.”

Maruk nhắm mắt và bước qua ngưỡng cửa. Khi mở mắt ra, Jason vẫn đứng ngay trước cô bé với cánh tay giơ về phía trước. Khuôn mặt cậu bé được chiếu sáng bởi ánh lửa lập lòe của chiếc đèn dầu, trong khi ở bên trái, khuôn mặt Rick nổi bật dưới ánh sáng ban ngày đang mờ dần, chuyển bầu trời thành một màu cam chuẩn mực. Sàn nhà khô cứng và lạnh lẽo.

“Mặt trời đang lặn,” cô bé nói. “Chúng ta đi đâu đây?”

“Tớ không biết,” Jason trả lời. “Nhưng chỉ chút nữa thôi chúng ta sẽ khám phá ra. Phải không Rick?”

Bàn tay cậu nắm lấy tay Maruk, truyền cho cô bé một làn sóng năng lượng tích cực, đối lập với sự u sầu nặng trĩu của Những Hành Lang Bị

Bỏ Quên.

Rick tiến đến gần một bức tượng đứng gác, phủi đi mạng nhện và bồ hóng phủ trên đó và nhận ra nó thể hiện lá Ẩn Chính số 1: Pháp sư.

“Cậu có ý tưởng nào không?” Jason động viên bạn.

“Có thể có,” cậu bạn trả lời, với suy nghĩ thực tế thông thường của mình. “Nếu linh cảm về thời điểm gặp gỡ của chúng ta là đúng, có ít nhất ba căn phòng chúng ta có thể bắt đầu tìm kiếm. Phòng Mặt Trăng, lá Ẩn chính số 18. Phòng Sao, lá Ẩn chính số 17. Hoặc Phòng Mặt Trời, số 19.”

“Của người đang yêu và người đi theo, mãi mãi” Jason lẩm bẩm.

“Trong khi đó, nếu chúng ta muốn mạo hiểm tất cả và đi từ phía ngược lại, có một gian phòng của lá Ẩn chính số 6… hay là lá Uyên Ương.” Rick kết thúc.

Jason siết nhẹ tay Maruk, vậy là cô bé hiểu rằng Phòng Uyên Ương sẽ là điểm đến của bọn chúng.

Ba đứa trẻ bắt đầu xuất phát, đi sát cạnh nhau, ánh hoàng hôn kéo dài bóng chúng trên sàn nhà.

Jason nhìn thẳng về phía trước, giơ cao chiếc đèn dầu. Tro tàn phủ lên những chiếc gương khiến hành lang không được soi sáng rõ lắm. Những hốc tường trông như những chiếc miệng đen ngòm rộng ngoác.

Maruk nhìn chăm chăm xuống sàn nhà tối sẫm, và tiếng giày của cô bé vang lên theo mỗi bước đi.

Tại mỗi chỗ giao nhau giữa các hành lang, Rick lại kiểm tra trên cuốn từ điển thứ tự những lá bài của Bộ Ẩn chính để quyết định xem nên đi hướng nào.

Bọn trẻ chìm đắm vào mê cung nơi không khí bị ngưng đọng lại đó, không nói với nhau lời nào, nghiền ngẫm những suy nghĩ ảm đạm của riêng mình.

Chẳng mấy chốc những chiếc bóng của bọn trẻ bị nuốt trọn bởi một màu đen tuyệt đối phủ kín trần nhà và những bức tường. Trên mặt đất, với mỗi bước chân, chúng lại cuốn tung đống tro bụi và mảnh vụn giấy cói lên, hoặc giẫm nát những mẩu gỗ đã cháy thành than. Mắt bọn trẻ đau rát và bắt đầu chảy nước.

“Các cậu đừng chạm vào bất cứ thứ gì và đừng dụi mắt, nhớ lại những lời khuyên của bố mình.” Rick nói. Sau đó cậu cố gắng trở nên lạc quan. “Giờ thì chắc hẳn chúng ta gần tới nơi rồi.”

Từ trần hành lang rủ xuống những tấm mạng nhện phủ bồ hóng. Có cái gì đó chặn mất lối đi.

Jason giơ cao chiếc đèn dầu.

Maruk rú lên, túm chặt tay cậu bé.

Trước mặt bọn chúng là hai bộ xương đang ôm nhau.

Jason nhận ra mình không mấy hoảng sợ. Xét cho cùng, cậu đã nghĩ đến những bộ xương ngay từ bước chân đầu tiên vào Những Hành Lang Bị Bỏ Quên.

Nhẹ nhàng bỏ tay của Maruk ra, cậu đưa chiếc đèn bấc tẩm dầu thầu dầu lại gần những bộ xương.

Trên hai bộ xương vẫn còn một phần y phục của họ: bộ xương to hơn của người đàn ông ngồi dựa lưng vào tường ôm lấy bộ xương nhỏ hơn của người đàn bà trong vòng tay, như thể đang che chở, bảo vệ. Mặc dù trông khá rùng rợn, cảnh tượng này vẫn có chút gì đó ngọt ngào đáng kinh ngạc. Jason tưởng tượng ra cảnh lúc họ vẫn còn đang sống, bị bao quanh bởi khói và lửa, ôm chặt lấy nhau, kẹt lại đó và chờ chết.

“Linh hồn của họ không hạnh phúc,” Maruk thì thầm sau lưng cậu, “bởi vì họ chưa được chuẩn bị cho chuyến du hành đến Kiếp sau. Họ còn không có cả lá bùa bọ hung trên trái tim, thứ đáng lẽ sẽ đi cùng họ đến trước thần Thoth và trước cán cân của nữ thần Maat23 để những hành động của họ được đem ra phân xử.

Jason nhìn Maruk, không hiểu lắm những gì cô bé nói.

Maruk quỳ gối xuống đất và tháo chiếc vòng quanh cổ ra.

Cô bé bắt đầu cầu nguyện, vừa lướt nhẹ vừa nắm chặt những viên đá và miếng kim loại của chiếc vòng cổ như thể nó là chuỗi tràng hạt.

Jason và Rick im lặng kính cẩn đợi cô bé cầu nguyện xong. Sau đó chúng rút ra trong túi hai lá bùa bọ hung đã nhận được khi bước chân vào Ngôi nhà Sự sống và đặt trên hai bộ xương.

“Cầu mong cho họ tìm được sự bình an,” Rick thì thầm trong lúc đi qua hai bộ xương.

Cả ba cứ đi bộ mãi, cho đến khi hành lang dẫn tới một căn phòng lớn hình vuông. Bên trong có hai bức tượng lớn, cao gấp ba lần bọn chúng, đầu những bức tượng bị che lấp bởi những lớp màn bồ hóng đen sì rủ xuống từ trần nhà.

“Đây là…” Rick lẩm bẩm, ngước mắt lên để tìm kiếm một chỉ dẫn liên quan đến Lá bài Uyên ương của bộ Ẩn Chính.

Maruk buông ra một tiếng kêu nhẹ nhõm: trong căn phòng có một cửa sổ lớn nhìn ra sân của Ngôi nhà Sự sống.

Cô bé chạy về hướng bầu trời màu đỏ cam và hướng về đĩa mặt trời vẫn đang lơ lửng trên đường chân trời. Cô đặt tay lên thành cửa sổ và hít hà không khí mát mẻ từ bên ngoài.

“Tớ cảm thấy như được sống lại ấy,” cô bé nói mà không quay về phía những người bạn của mình.

Nếu quay lại, chắc hẳn cô bé sẽ nhìn thấy trang phục và khuôn mặt của hai cậu bạn đen thui, như thể vừa đi qua một cơn mưa tàn tro vậy.

Nhìn đâu cũng chỉ thấy mảnh vụn vỡ và mạng nhện rủ xuống từ hai bức tượng lớn đang đung đưa như bộ quần áo làm bằng voan.

“Hỏa hoạn liệu có thể đã bắt đầu từ đây không?” Jason hỏi, giẫm lên những mẩu than nát vụn dưới chân.

“Tớ không chắc lắm về việc đám cháy lan đi như thế nào,” Rick trả lời. “Nhưng chắc chắn nó đã tàn phá nơi này ghê gớm.”

“Tớ hỏi vậy chỉ để biết liệu đây có phải là căn phòng ông già đó đã gây ra đám cháy hay không thôi mà.”

Rick nhún vai.

“Điều đó làm sao chúng ta biết được?”

Bọn trẻ nhìn đĩa mặt trời đang bắt đầu chầm chậm chạm đến đường chân trời.

“Dù thế nào đi nữa, chúng ta sẽ khó có cơ hội khác.”

Rick mím môi.

“Theo cậu, một cơ hội khác để… làm gì cơ?”

“Để làm những gì ông ấy đã làm.”

Rick cố gắng nhớ lại câu chuyện của ông già.

“Ông ấy nói với chúng tớ là đã dịch chuyển một vài tấm gương… và ánh mặt trời đã đốt cháy những tờ giấy cói. Nếu đó là căn phòng này, nó hẳn phải có gương chứ?”

Rick tiến đến gần cửa sổ để nhìn ra ngoài.

Cậu không nhận ra phần sân mà cánh cửa sổ trông ra, mà chăm chú quan sát chân trời:

“Nếu những chiếc gương bắt được ánh sáng mặt trời thì chúng phải đặt đối diện cửa sổ này… Mặt trời lặn hướng Tây, ở đó… do vậy nó mọc từ hướng đối diện, ở chỗ kia. Vì vậy nếu có gương thì chúng phải ở gần hai bức tượng kia…”

“Isis24 và Osiris25” Maruk lẩm bẩm.

“Gì cơ?”

“Hai bức tượng trong căn phòng này là Isis và Osiris, hai người yêu nhau. Khi Osiris bị Seth26 phản bội bất ngờ giết chết và chặt làm nhiều mảnh, Isis đã đi dọc sông Nil để tìm xác chồng, và khi tìm thấy tất cả các mảnh, bà đã ráp chúng lại, từng miếng một, tạo nên xác ướp đầu tiên. Với pháp thuật của Isis, Osiris đã sống lại.”

Maruk dùng mu bàn tay quệt đi giọt nước mắt lạc lõng lăn dài trên má, sau đó cô bé nở nụ cười cay đắng như một người trưởng thành.

“Lạ thật: có lẽ đây là bí mật của cuộc đời mà hai người mãi mãi yêu nhau trong khúc ca kia đang tìm kiếm: sự kỳ diệu của tình yêu chiến thắng cả cái chết…”

“Tớ… tớ nghĩ là cậu đúng…” Rick xúc động trả lời.

Jason đến gần những bức tượng, cố nhận ra những đường nét dưới lớp bồ hóng. Giơ chiếc đèn lên quá đầu, cậu có linh cảm nữ thần Isis là bức tượng bên phải: trên cao, ẩn hiện trong bóng tối, cậu thoáng thấy gương mặt một người phụ nữ với những đường nét cao quý. Bàn tay của bức tượng bị đứt lìa và khuôn mặt của bức tượng, trông như một chiếc mặt nạ đen, đang nhìn về hướng cửa sổ.

Osiris, trái lại, đứng cạnh nhìn Isis.

Jason đặt chiếc đèn xuống đất và dùng tay phủi những lớp tro chất đống trên bàn chân và cẳng chân của bức tượng Osiris. Cậu nhận thấy nó được cuốn những dải băng tạc bằng đá, dưới đó nhô lên những mầm cây.

“Sự sống sinh ra từ cái chết,” cậu nghĩ.

Cậu bé cúi xuống để lấy chiếc đèn, và bất thình lình cậu nhìn thấy nó: trên đầu của Osiris có cái gì đó vừa phản chiếu ánh đèn và lóe sáng.

“Rick!” Cậu la lên. “Cái gương! Cái gương! Tớ tìm thấy nó rồi: nó ở trên đầu của Osiris!”

Sau lưng bọn trẻ, mặt trời bắt đầu lặn xuống những cồn cát.

“Mình biết là rồi nó sẽ có ích mà!” Rick kêu lên, cuối cùng cũng rút từ trong bọc ra sợi dây mà cậu đã mang đi từ Biệt thự Argo.

Với vài động tác khéo léo, cậu bé tạo được một nút thòng lọng, sau đó quăng nó quanh đầu bức tượng Osiris.

“Hy vọng là thần Osiris sẽ tha thứ cho chúng ta vì hành động bất kính này.” Jason lẩm bẩm, trước khi nắm lấy sợi dây để leo lên. “Maruk, hãy đọc vài lời cầu nguyện của cậu đi nhé!”

“Cậu cẩn thận đấy!” Cô bé trả lời.

“Cậu đùa à? Đây chỉ là trò trẻ cooon…”

Phần nhô ra bằng đá mà Jason vừa đặt chân lên vỡ ra với một âm thanh khô khốc.

Cậu rơi uỵch xuống đất, nhưng đứng lên tức thì, không thèm phủi tro sau lưng. Cảm thấy xấu hổ vì mất hình tượng, cậu ngay lập tức quay trở về với nhiệm vụ.

Nắm chắc sợi dây và tự đẩy mình lên chỉ với sức mạnh của cánh tay, cậu bắt đầu leo lên. Trong nháy mắt, cậu đã đến được chỗ hai bàn tay đan vào nhau của Osiris và ngồi thu mình trên đó, đối diện với khuôn mặt bằng đá của vị thần. Buông sợi dây ra, cậu xé một miếng từ bộ quần áo vải lanh của mình và dùng làm khăn lau.

“Jason,” từ phía dưới Maruk cất tiếng gọi, “mặt trời sắp lặn rồi!”

Cậu bé chà xát bức tượng với tất cả sức mạnh của mình, gỡ bỏ đám mây bồ hóng dày và đen sì khiến cậu không nhìn thấy gì.

Trong vài giây ngắn ngủi mà dài đằng đẵng, cậu nghĩ là mình đã lầm. Nhưng cuối cùng tính bướng bỉnh của Jason đã được đền đáp: cậu nhìn thấy thêm một ánh sáng lấp lánh nữa.

Cậu đã đúng: dưới lớp tro đen là bề mặt sáng bóng của một chiếc gương!

“Chắc hẳn phải có một cái gương nữa trên bức tượng của nữ thần Isis!” Jason hét lên, ngay khi chiếc gương bắt đầu lộ ra từ lớp bụi bẩn.

Cậu bé tháo sợi dây từ bức cổ tượng Osiris ra ném xuống đất.

Rick không để lãng phí thời gian, và trong nháy mắt cậu leo lên lòng bức tượng nữ thần. Giống như Jason, cậu dùng một miếng vải xé từ quần áo của mình để lau chùi bức tượng, xóa đi những dấu vết của trận hỏa hoạn, thấy rằng linh cảm của bạn mình đã đúng: trên chiếc vương miện đỏ đang tô điểm cho vầng trán của nữ thần Isis có một chiếc gương nữa.

“Có rồi! Có rồi!” Cậu bé gào lên, vui mừng tột đỉnh.

Đúng lúc đó, tia nắng cuối cùng nhảy nhót trên bầu trời, vượt qua chân trời mênh mông, bắn trúng vào gương mặt của thần Osiris như một mũi tên.

Trong giây lát, Jason thấy mình được bao bọc trong một chùm tia sáng lờ mờ, đi qua cậu từ bên này sang bên kia.

Cậu bé dịch ra, lùi lại về phía vai của bức tượng thần và… không có gì xảy ra cả.

Chính Maruk là người đầu tiên nhận ra sai lầm.

“Họ không nhìn nhau! Hai người yêu nhau không nhìn nhau! Những chiếc gương không phản chiếu vào nhau!”

Đúng vậy: tia nắng mặt trời phản chiếu từ tượng Osiris lên vai của tượng Isis, cách chiếc gương tô điểm cho chiếc vương miện của nữ thần một chút. Và nằm chết gí ở đó.

“Chiếc gương của Isis không di chuyển được! Nó bị kẹt rồi! Rick kêu lên, thử dịch chuyển chiếc gương.”

“Vậy thì đừng di chuyển chiếc gương,” Jason hét lên. “Cậu phải di chuyển bức tượng ấy!”

Cậu bé liều lĩnh rướn người ra khoảng không và treo mình lủng lẳng trên cánh tay của bức tượng Osiris. Sau đó cậu nhảy xuống đất như một cái lò xo và lao đến chỗ bức tượng nữ thần.

“Ngươi phải dịch chuyển!” Cậu hét lên với bức tượng Isis, dựa tất cả trọng lượng cơ thể mình vào đế của chiếc ngai. “Hãy nhìn… vào mặt… người yêu của ngươi đi!”

Nhưng ánh mặt trời vẫn chỉ rọi vào chiếc gương của Osiris.

“Nhanh lên!” Rick la lên, đưa bàn tay về phía dòng ánh sáng đi qua căn phòng.

Maruk chạy đến gần Jason và bắt đầu đẩy cùng cậu.

Và thật không thể tin nổi… vô cùng chậm chạp... bức tượng đã dịch chuyển.

Tượng Isis dịch chuyển trên những đường rãnh cũ kỹ, nghiền nát đống tro tàn làm bít những đường rãnh bằng trọng lượng của nó. Bức tượng quay trên chính nó một cách trang trọng và chắc chắn, cho đến khi đối mặt người yêu dấu.

Và khi đôi mắt họ gặp nhau, tia sáng mặt trời nhảy nhót giữa hai chiếc vương miện phản chiếu giữa những chiếc gương như lời chào cuối cùng trước khi đêm xuống.

Vào chính lúc đấy, Rick đang trong vòng tay của Isis, nhìn thấy ngưỡng ánh sáng của Căn phòng không tồn tại.

Nestor khập khiễng băng qua khu vườn dưới cơn mưa to như trút nước. Tiếng nhạc inh tai nhức óc với tiếng trống và ghi-ta điện phát ra từ chiếc ô-tô của Manfred đỗ ở giữa sân.

Giữa đám cây cối, cánh cửa căn nhà phụ mở toang để lọt ra ánh đèn vàng ấm áp.

Nestor quên mất là đã để mở cánh cửa… Ông cúi người xuống, lờ đi cơn đau nhói ở lưng và đi một vòng quanh khu vườn.

“Ngươi đâu rồi? Ngươi đâu rồi?” Ông lẩm bẩm, cố gắng nhận ra đường nét mọi thứ trong bóng tối ướt nhẹp đó.

Ánh đèn của ngọn hải đăng soi sáng khu vườn và cuối cùng Nestor cũng tìm thấy chiếc xe cút kít27 của mình. Chiếc xe nằm sau gốc cây anh đào Nhật Bản, chính tại nơi ông đã để lại khi xong việc.

Ông lấy cái xẻng nằm trong xe cút kít và thử nó bằng cách đâm vào không khí vài lần. Nó không hẳn là một vũ khí, nhưng cũng không hẳn vô hại.

Dù thế nào thì ông cũng phải bằng lòng với nó thôi.

Khi bước vào nhà, ông bắt gặp Manfred đang lục lọi trên bàn làm việc.

“Ngươi hãy cút ngay ra khỏi đây!” Ông Nestor cất giọng oang oang, bóng dáng nổi bật trên cánh cửa, chiếc xẻng cầm ngang trước ngực. “Trước khi ta tống cổ ngươi ra.”

Manfred giật nảy mình. Hắn bỏ thứ gì đó vào trong túi và quay người đối diện với ông lão làm vườn.

“Cuối cùng ông cũng chịu ra ngoài… Người ta chưa dạy ông là phải hiếu khách sao?”

“Đặt lại thứ mà ngươi vừa lấy vào chỗ cũ đi!”

“Ông nghĩ là tôi đã lấy gì nào?”

Nestor huơ huơ chiếc xẻng.

“Đặt lại thứ mà ngươi đã lấy vào chỗ cũ ngay!”

Manfred giơ hai tay lên.

“Ấy, ấy, đừng có nóng, ông già thân mến…”

Chiếc áo mưa của Manfred làm nước nhỏ giọt trên bàn làm việc và đống giấy tờ.

Nestor có cảm giác tê tê bàn tay, ông nắm chặt xẻng hơn.

Manfred chỉ lên mũi hắn. Trên đầu hắn là một cặp kính râm đã vỡ.

“Ông nhìn thấy cô bạn nhỏ bé yêu dấu của ông đã làm gì tôi chưa? Con bé đã làm gãy mũi tôi.”

“Cô bé cừ đấy chứ… Ngươi đặt lại thứ mà ngươi đã lấy vào chỗ cũ và cút ra khỏi đây.”

Trong tay Manfred thò ra một chiếc chìa khóa. Nó cũ và gỉ sét, giống như bốn chiếc chìa khóa của Cánh cửa Thời gian.

“Ý ông là cái này hả?” Tài xế của Oblivia Newton lắc đầu nhạo báng. “Tôi không nghĩ là sẽ đưa nó cho ông… Tôi vừa mới tìm ra nó, và có cảm giác là bà chủ của tôi sẽ thích nó vô cùng… Ấy! Hãy cẩn thận với cái xẻng đó!”

Manfred tránh một cú đánh hăm dọa của Nestor.

“CÚT!”

Hai người bắt đầu đi vòng quanh chầm chậm, giữ khoảng cách giữa người này và người kia, như những con thú ăn thịt. Một bên là Nestor với cái xẻng, một bên là Manfred với chiếc chìa khóa giơ cao trên đầu.

“Cô bạn nhỏ bé yêu dấu của ông đã làm tôi thực sự đau đấy,” Manfred nói. “Tôi chỉ muốn viếng thăm các vị, cùng uống một tách trà…”

“Đặt chiếc chìa khóa vào chỗ cũ ngay,” Nestor ra lệnh cho hắn, vung cái xẻng lên.

“Nếu không thì sao?”

“Đặt nó vào chỗ cũ.”

Manfred đứng quay lưng lại phía cửa ra vào và bắt đầu từ từ lùi lại.

“Được rồi, được rồi. Tôi để lại nó cho ông. Dù sao, giờ tôi cũng biết nó để ở đâu rồi. Tôi có thể đến lấy lại nó trong vài ngày nữa, lúc nào chẳng được.”

Hắn đi giật lùi trên khoảng sân trong lát gỗ bao quanh nhà phụ, sau đó bước xuống hai bậc thang dẫn ra vườn.

“Có thể tôi sẽ trở lại khi có tất cả bọn trẻ, ông nghĩ sao?”

“Đặt chiếc chìa khóa xuống đất. Đi ra xe của ngươi và biến đi.”

Manfred chầm chậm hạ bàn tay nắm chặt chìa khóa xuống, như thể để tuân lệnh của Nestor.

“Lũ trẻ đâu rồi? Ông giữ bọn chúng ở trong nhà sao? Hay ông đã gửi chúng nó đi đâu đó rồi… theo dấu vết của Ulysses Moore?”

Nestor giận dữ bổ cái xẻng xuống mặt sàn gỗ của sân trong. Manfred bật lên như một con chim cắt và túm lấy cái xẻng bằng tay không. Sau đó hắn giật mạnh một cái.

Người làm vườn mất thăng bằng ngã xuống đất, lăn tròn trên bãi cỏ.

Khi chạm đất, Nestor có cảm giác tất cả những chiếc xương của mình đã gãy vụn.

Đằng sau ông, Manfred nhét chiếc chìa khóa lại vào trong túi áo mưa.

“Tiếc thật, ông già thân mến. Dù sao thì ông cũng khá đấy…”

Nestor cố gắng đứng dậy. Cơn mưa lạnh buốt rơi thẳng xuống ông.

Bằng cách nào đó, ông xoay sở đứng được trên đầu gối và… từ đuôi mắt ông nhìn thấy cái xẻng đang bổ xuống về phía mình.

Ông nhảy ra một bên, tránh cú đánh trong gang tấc.

“Với một người ở độ tuổi này thì ông có phản xạ tốt đấy!” Manfred cười khẩy.

Cú đá của Nestor trúng ngay giữa bụng Manfred.

Bị bất ngờ, Manfred bật ho và gập người lại. Chiếc kính râm rơi xuống đất và hắn bắt đầu điên cuồng lần mò trên mặt đất để lấy lại nó.

“Lẽ ra ông không nên làm điều này, ông già! Bây giờ ông đã làm tôi thực sự nổi điên rồi đấy…”

Hắn giơ chiếc xẻng lên lần thứ hai.

Đúng lúc đó, tiếng nhạc từ chiếc đài trong xe im bặt.