Chương 9 - Phòng Thí Nghiệm Sấm.
Phòng Thí Nghiệm Sấm nằm trên một tháp vuông ở phía Nam tòa thành, ngay dưới vách đá. Đó là một tòa nhà lớn hoàn toàn tối tăm được dựng thẳng đứng và cách xa các tòa nhà khác. Một bên là khoảng không và phía còn lại là một cánh đồng bỏ hoang đầy hố lởm chởm.
“Đó là một bãi mìn hay do những con chuột chũi khổng lồ gây ra vậy?” Jason hỏi khi nhìn thấy những cái hố.
“Có thể do họ thử pháo hoa chăng?” Julia đánh bạo đoán.
“À, đúng rồi. Có thể lắm…”
Dagoberto chạm tay vào mặt đất, vẻ cảnh giác. Cậu nhóc đánh hơi thấy mùi thuốc súng thoang thoảng trong không khí.
“Đi vào đây không an toàn đâu.” Cậu nhóc cảnh báo.
Cạnh bức tường bao quanh sân có một sợi thừng dài, giống cái bọn trẻ nhìn thấy ở cổng nhà ông Balthazar. Sợi dây được đỡ bởi bốn chiếc cột, rồi chạy dài đến lối vào của ngọn tháp. Trông gần giống một sợi dây cáp điện thoại thời hiện đại.
“Để em gọi cửa.” Jason nói. Rồi cậu bé kéo dây.
Trong màn đêm tĩnh lặng vang lên một tiếng ngân xa xa. Bọn trẻ đợi, rồi kéo dây lần thứ hai, nhưng không có tín hiệu nào phát ra từ tháp.
“Có lẽ họ đang ngủ hoặc đi khỏi đây rồi…” Jason phỏng đoán, kéo sợi dây chuông lần thứ ba. Thình lình cậu thả sợi dây ra. “Chị biết em nghĩ gì không? Chị có nhớ vị thầy tu với đôi giày thể thao cùng người phụ nữ Trung Quốc mà chúng ta thấy trên cầu thang của tu viện không?”
Julia gật đầu và Jason chỉ vào tháp.
“Không phải…”
“Ý em là…”
“Tại sao không nhỉ? Bọn họ thật kỳ lạ và…” Jason quay sang Dagoberto: “Chúng tớ đã nghe họ nói về một phòng thí nghiệm. Và nơi này có tên là Phòng Thí Nghiệm Sấm.”
“Đợi đã, đợi đã. Tớ chẳng hiểu các cậu đang nói gì cả!” Dagoberto kêu lên.
“Có thể bọn tớ đã gặp Black và Zanzan tối nay… nhưng đã không nhận ra họ.” Jason tóm tắt lại cho Dagoberto.
Julia luồn tay vào mái tóc. “Ôi chao! Bọn họ đi mất rồi!”
“Nhưng sao các cậu lại không nhận ra bọn họ?” Dagoberto thắc mắc.
“Lúc đó rất tối…” Julia trả lời.
“Và tớ thì đang bẹp dí sau một cái bình.” Jason chỉ vào bóng tòa tháp tối tăm và trống trải. “Nếu bọn họ ở đó và chúng ta ở đây, chắc chắn chúng ta không thể gặp họ được.”
“Họ vô cùng vội vã…” Julia nhớ lại. “Như thể họ phải khởi hành ngay lập tức. Và bọn họ đã nói về những cái bẫy.”
“Những con diệc, gió lùa và những con thỏ.” Jason cũng nhớ lại. Sau đó cậu rầu rĩ ngồi bệt xuống đất. “Bọn mình đã để vuột mất ông ấy trong tích tắc. Bọn mình đã gặp Núi Lửa Đen và để ông ấy đi mất.”
Sau đó là một sự im lặng kéo dài, và Dagoberto lên tiếng: “Nhưng tớ đã đưa các cậu tới chỗ ông ta như đã hứa.”
Julia gật đầu.
“Và chúng ta đã có một thỏa thuận.” Tên trộm khăng khăng.
Jason ủ rũ ôm mặt, nhìn chăm chăm vào cánh đồng đầy thuốc nổ.
“Mình thử đợi bọn họ xem sao.” Cậu bé gợi ý.
“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu.” Chị gái cậu nhắc.
“Vậy ta thử vào đó xem. Có thể họ chỉ đang ngủ say thôi. Mình sẽ giải thích cho họ toàn bộ sự việc, và nếu họ không có ở đấy… chúng ta sẽ để lại một tin nhắn.”
Julia nhìn Dagoberto. Cậu bé lắc đầu.
“Dân nhà buôn các cậu điên cả rồi.”
Julia kéo cậu em trai đứng dậy.
“Dù gì chúng ta đã đến tận đây… cũng nên nhìn qua bên trong xem thế nào chứ.”
Jason tiến lên một bước.
“Vào đó không an toàn đâu.” Dagoberto nhắc, chỉ vào cánh đồng chi chít hố.
Jason dừng chân lơ lửng trên không rồi sau đó lui lại một bước.
“Ừ nhỉ.”
Cậu bé nhìn những cái hố với vẻ e ngại và nhận thấy việc bị bắn tung lên trời như pháo hoa không phải là một ý hay.
“Cậu nghĩ xem nên làm gì?” Cậu bé hỏi tên trộm.
“Tớ chẳng có ý tưởng gì cả. Nếu các cậu muốn thử vào trong đó thì tớ sẽ đợi ở đây.”
“Những con diệc, gió lùa và những con thỏ…” Jason nhớ lại. “Những con thỏ đào lỗ. Có thể trước chúng ta là một cái bẫy thỏ chăng?”
Julia sải rộng cánh tay và bắt đầu vẫy lên vẫy xuống.
“Thế nếu đó là bẫy chim diệc thì sao? Những con chim diệc bay mà, phải không? Do đó chúng không chạm đất.”
“Nếu chị muốn thử bay, Julia…” Jason khuyên. “… thì cách tốt nhất là quay về vách đá chỗ tường thành.”
“Hoặc là…” Cô chị mỉm cười, nhìn lên phía trên.
“Em có muốn di chuyển không?” Một lúc sau Julia kêu lên, hướng về phía cậu em sinh đôi. “Không khó lắm đâu!”
Jason thở hổn hển, không đáp lại. Cậu đang bở hơi tai trèo lên cái cột đỡ dây chuông đầu tiên. Quắp chặt bằng cả tay và chân như con cua, cậu vất vả đu mình lên.
“Nâng cơ đùi và leo lên!” Julia tiếp tục. “Em không bao giờ tập thể dục sao?”
Dừng ở bức tường chỗ lối vào, Dagoberto lắc đầu. Cậu nhóc nắm chặt trong tay đầu sợi dây chuông.
Jason cuối cùng cũng xoay sở leo lên được đỉnh cột. Cậu bé sải tay tóm lấy sợi dây thừng nối đến chiếc cột thứ hai.
“Có chắc nó đỡ nổi không đấy?” Cậu lầm bầm.
“Chắc chắn!” Julia trấn an, cô bé đã thành công. Sau khi khéo léo leo lên cột thứ nhất, cô tóm lấy sợi dây thừng rồi chuyển sang những chiếc cột tiếp theo và đến được lối vào của Phòng Thí Nghiệm Sấm.
“Cậu không được buông tay đâu đấy!” Jason nói với Dagoberto. Sau đó cậu bật lên và bám chân vào sợi dây, bắt đầu trèo qua chặng đầu tiên. Dù chỉ cách mặt đất vài mét, nhưng ý nghĩ về việc chạm đất và có nguy cơ bị thổi tung lên trời không khiến cậu hứng thú chút nào.
“Chị có chắc là không còn cách nào khác để đi vào không?” Jason phản đối thêm lần nữa.
“Em thôi kêu ca đi!” Julia mắng. “Và hãy di chuyển nào!”
Cô bé bắt đầu thăm dò cổng chính của tòa tháp, và giống như mọi cánh cổng khác của tòa lâu đài, nó cũng không khóa.
“Đợi em với!” Jason hét lên, lúc này cậu bé đã đến chiếc cột thứ hai. Cậu không chịu được ý nghĩ mình sẽ khám phá điều gì đó sau cô chị.
Julia nhìn qua cánh cổng.
“Có ai ở nhà không?” Cô bé cất tiếng hỏi, sau đó hướng sang cậu em trai nói: “Chỉ có một căn phòng nhỏ và một cầu thang thôi!”
“Tuyệt vời!” Jason thở hổn hển, lấy hơi trước khi đối mặt với chặng đường cuối cùng.
Với rất nhiều nỗ lực, năm phút sau cậu bé đã đến được chỗ cô chị tại cửa ra vào. Dagoberto vẫn đứng ở phía bên kia cánh cổng. Jason ra hiệu: “Năm phút thôi và bọn tớ sẽ quay lại!”
Bên trong Phòng Thí Nghiệm Sấm tối tăm và thơm phức. Mùi hoa oải hương dịu nhẹ phảng phất khắp nơi, chứng tỏ có sự hiện diện của phụ nữ. Jason và Julia đi vào căn phòng nhỏ sơ sài, có một cầu thang lớn bằng đá dẫn lên các tầng trên của tòa tháp. Những đồ nội thất duy nhất trong phòng là một chiếc rương gỗ màu đen và một cây đèn nến dựa vào tường, phủ đầy sáp đỏ. Một cánh cửa nhỏ, thấp, dẫn vào một căn phòng ở bên cánh, có ánh trăng lờ mờ lọt qua.
Cặp song sinh thử gọi Núi Lửa Đen, nhưng không có tiếng đáp, hai đứa trẻ quyết định đến cánh cửa nhỏ và hé mắt nhìn qua.
Chiếm phần lớn không gian căn phòng là một cỗ máy to đùng, phía trên có treo những tấm giẻ và những miếng vải màu.
“Đó là thứ quái quỷ gì vậy?” Jason hỏi.
Nó trông giống bộ xương khủng long được làm bằng gỗ và kim loại. Ánh trăng xuyên qua lớp kính cửa sổ bọc chì càng làm cho cấu trúc cổ xưa của cỗ máy này thêm khó hiểu.
“Đó là một khung cửi dệt vải.” Julia nhận ra sau khi suy nghĩ một lúc.
“Khung cửi dệt vải sao?”
“Em có thấy những sợi len kia không? Chúng bện vào nhau trên miếng gỗ vuông đó, từng sợi một… Rồi tạo thành một tấm thảm, hoặc thành mảnh vải. Tóm lại, em có hiểu không đấy?”
“Thực sự là không. Nhưng em tin chị.”
“Chị chưa bao giờ thấy một chiếc khung cửi nào to và phức tạp thế này.”
“Hẳn nó là khung cửi theo phong cách Dedalus.” Jason đùa.
“Chị cũng không lấy làm ngạc nhiên đâu.” Julia thừa nhận.
Căn phòng chứa chiếc khung cửi không có lối ra, do vậy hai đứa trẻ quay lại phía cầu thang. Chúng bỏ qua cánh cửa thứ hai và nhìn chằm chằm vào những bậc thang lên cao hun hút, bị nuốt chửng bởi trần nhà bằng gỗ.
“Nếu để lại một tin nhắn cho ông ấy…” Julia nói, “chúng ta làm ở đây cũng được.”
“Chị có gì để viết chưa?”
“Chưa. Nhưng chị có quyển sổ ghi chép của Ulysses Moore. Chúng ta có thể…” Cô bé lắc đầu. “Chị không biết chúng ta nên làm gì.”
Jason đặt chân lên bậc thang thấp nhất.
“Liệu có nguy hiểm không?” Julia hỏi cậu em.
“Nguy hiểm hơn những cầu thang của Biệt thự Argo sao?” Jason mỉm cười đáp. Và cậu kéo áo lên cho cô chị thấy những vết sẹo còn mới sau những cú ngã tai hại.
“Còn… những cái bẫy?”
“Chúng ta cứ cẩn trọng thôi.” Jason trả lời ngắn gọn và bước lên bậc thang thứ hai.
Không có gì xảy ra.
Cậu bé bước lên bậc thang thứ ba.
Vẫn không có gì xảy ra cả.
Hai chị em thận trọng bước lên mười bậc thang tiếp theo. Jason đi trước và Julia theo ngay sau, sẵn sàng tóm lấy cậu bé.
Lần nào Jason cũng lặp lại một trình tự giống nhau: đặt một chân lên trước, đợi vài giây, sau đó dồn trọng lượng lên nó và cuối cùng bước lên. Nhưng khi đang chuẩn bị đặt chân lên bậc thang thứ mười một thì có thứ gì đó ngăn cậu lại.
Gió lùa.
Một luồng khí từ bức tường thổi về phía cầu thang. Một luồng gió lạnh và buốt mà có lẽ cậu sẽ không cảm nhận thấy nếu nó không nổi lên chậm chạp thế.
“Có gió lùa.” Cậu bé nói lớn.
Cậu bé đưa tay lại gần bức tường mà không chạm vào nó và sau vài lần thử kiếm tìm, cậu thấy một khe hở nhỏ đang thổi khí ra. Nó nằm ngay phía trên bậc thang số mười một.
Jason lập tức nghĩ xem nên làm gì: dùng tay chặn gió lại? Cứ đi tiếp? Hoặc đơn giản là bỏ qua bậc thang đó?
Sau đó cậu bé nhanh chóng làm theo những gì mình nghĩ và nhấc bàn chân phải lên, bước một bước dài hơn bình thường.
“Chúng ta hãy thử cách này xem…”
Jason đặt chân lên bậc thang thứ mười hai, lấy thăng bằng rồi bước hẳn lên.
Tiếng gỗ kêu cọt kẹt, tiếng đế giày thể thao rin rít. Nhưng không có gì xảy ra cả.
“Phải rồi!” Jason kêu lên đắc thắng. “Đây là cách vượt qua những chỗ gió lùa. Julia, chị phải bỏ qua bậc thang đó!”
Cô chị không thắc mắc thêm gì, lẳng lặng bước qua bậc thang thứ mười một và đi theo cậu em lên cầu thang.
Chúng tìm thấy bốn chỗ gió lùa khác.
Có một căn phòng trống ở tầng trên. Một chút tàn lửa vẫn cháy âm ỉ trong lò sưởi. Tấm đệm rơm đặt ở góc đối diện cho thấy ai đó mới sử dụng cách đấy chưa lâu. Một tấm thảm lớn bao phủ một mặt tường. Mặt khác lại mở ra một ô cửa sổ nhìn xuống một phần vách đá, cánh đồng mà bọn trẻ vừa đi qua và những mái nhà trong tòa thành.
“Ông Vulcano?” Jason cất tiếng hỏi khi bước vào phòng.
Cậu bé nhón chân và đi chậm rãi. May thay, dường như không còn ngọn gió lùa nào nữa.
“Chị nghĩ là không có ai ở đây…” Julia nhận xét trong lúc theo sau cậu em trai vài bước.
Hai đứa trẻ cẩn trọng đi quanh, nếu tồn tại một nơi hoang vắng và tiêu điều nhất trong lâu đài này, thì hẳn chính là căn phòng mà chúng đang đứng. Chiếc bàn lớn duy nhất đặt trước lò sưởi, trống trơn, trên đó bày một loạt bút bằng lông quạ dài và một lọ mực đen nhỏ. Trên mặt ghế bằng liễu gai còn lưu lại dấu tích một người khá to lớn. Không còn đồ đạc nào khác. Không còn gì để tò mò khám phá nữa.
Jason đưa mắt tìm kiếm bên trong lò sưởi, còn Julia đến chỗ cửa sổ và nhìn về phía bức tường mà bọn trẻ vừa từ đó đi vào. Dagoberto đã biến mất.
“Cậu ta có thể đi đâu được nhỉ?” Julia hỏi, và kể cho cậu bé nghe lời cảnh báo của tên trộm cô đã gặp trong vườn của Cha Falena.
“Em không biết. Nhưng em nghĩ bọn mình nên đi thôi. Hãy để lại tin nhắn rồi ra khỏi đây.”
Hai đứa trẻ đến chỗ chiếc bàn và cầm lấy cây bút lông quạ. Thân bút được cắt chéo để có thể nhúng vào lọ mực.
Jason ngắm nghía cây bút, hỏi: “Chị biết dùng thứ này không?”
“Chị có thể thử. Dù gì thì chị viết cũng dễ nhìn hơn em.”
“Thật tử tế quá!” Jason mỉa mai nhận xét. Dù thực tế cậu bé cũng khá vất vả khi đọc chữ viết của chính mình.
Trong khi Julia rút cuốn sổ tay của Ulysses Moore ra khỏi túi để xé một tờ giấy trắng, cậu bé lại đi quanh căn phòng, tới chỗ tấm nệm rơm và nâng những chiếc chăn nặng nề lên.
“Chẳng có gì cả.” Jason nói, đặt chúng về vị trí cũ.
“Em mong đợi gì chứ?” Julia chế giễu cậu bé. Cô mở nắp lọ mực, nhúng chiếc bút lông quạ vào đó rồi bắt đầu nói to. “Ông Núi Lửa Đen kính mến…”
Jason lặp tức ngắt lời. “Trang trọng quá! Ông Black thân mến,” cậu bé khuyên, “chúng cháu tới tìm ông, nhưng ông không có ở đây.”
Julia tập trung viết. Ngòi bút kêu sột soạt trên giấy, để lại những vệt mực đen.
“Chấm.” Jason vẫn không ngừng đọc khi dừng trước tấm tranh thảm.
“Thật không may,” Julia tiếp tục, “đi cùng chúng cháu còn có Oblivia Newton… nhưng lính canh đã bắt được cô ta.”
“Cùng với Manfred.” Jason thêm vào. Trên tấm tranh thảm có hình một kỵ sĩ mặc áo giáp đang nghỉ chân trên ngọn đồi đầy thỏ.
Viết đến chỗ “lính canh”, Julia cắn bút. “Chị không biết liệu ông Black có biết Manfred hay không nữa. Thậm chí, chị còn không biết liệu ông ấy có biết chúng ta là ai không nữa. Tốt hơn là viết thế này: Chúng cháu là Jason và Julia, bạn của ngài Ulysses Moore, do đó cũng là bạn của ông…”
“Và chúng cháu là hai chị em sinh đôi đến từ London, hiện đang sống ở Biệt thự Argo và chúng cháu biết các ông đã làm gì với những chiếc chìa khóa…” Jason gợi ý thêm, sau đó chạm nhẹ vào tấm vải nặng trịch của bức tranh thảm.
“Phải đấy.” Julia gật gù, viết nhanh nhất có thể. “Chúng ta không nhắc đến Rick à?”
“Khônggg…” Jason đáp.
Cậu bé nâng một góc tấm thảm lên để nhìn phía sau nó.
“Này!”
Julia giật bắn mình vì sợ hãi. “Em làm chị để lại một vết bẩn rồi!”
“Vâng, nhưng chị hãy nhìn mà xem!”
“Cái gì vậy?”
“Có một cái két thì phải!” Jason kêu lên. Quả thực, sau tấm tranh thảm có một cái hốc rất sâu. Chính xác đó là một cái hốc.
Cậu bé luồn một tay vào trong, đầu ngón tay chạm vào một sợi dây vắt ngang từ bên này sang phía bên kia cái hốc.
“Một sợi dây!” Jason tuyên bố.
“Một sợi dây nghĩa là sao?”
“Ý em là,” Jason đáp, tóm lấy sợi dây. “Đằng sau tấm thảm có một cái hốc trên tường và trong hốc có một sợi dây.”
“Nhưng tại sao lại có một sợi dây ở đó?” Julia vẫn chưa hết thắc mắc, chợt một linh cảm chẳng lành dâng lên trong lòng cô bé. “Phải chăng là một cái bẫy?”
Ánh trăng giúp cô bé nhìn rõ hơn những đường nét lờ mờ của căn phòng, đồng thời soi lên tấm tranh thảm: một người đàn ông râu dài mang bộ áo giáp sáng loáng đứng bên một con ngựa. Một đồi cỏ xanh, lấp ló những chú thỏ nhỏ xíu. Phía dưới là đường hầm dẫn đến nơi trú ẩn của bầy thỏ.
“Những con thỏ.” Julia thì thầm.
Jason kéo nhẹ sợi dây bên trong hốc. Một tiếng phựt phát ra.
“Gì thế nhỉ?” Jason tự hỏi.
Thêm một tiếng phựt nữa, lần này âm thanh nghe mạnh hơn, như tiếng nổ lốp bốp, rồi tiếng phựt thứ ba vang lên, nghe giống tiếng hạt dẻ nướng trên lửa.
Qua cửa sổ có thể thấy một thác ánh sáng màu cam đổ xuống thành một chiếc vương miện lấp lánh cho đến khi chạm đất.
“Ôi không!” Julia thốt lên, chạy ra nhìn bên ngoài.
Jason buông sợi dây. “Hình như là…”
Tiếng nổ thứ tư rất rõ. Với màu trắng và vàng, vụ nổ này tạo ra một cây liễu rủ khổng lồ bằng ánh sáng, nhỏ giọt xuống mặt đất.
“… Pháo hoa.” Jason nói nốt.
Hai đứa trẻ dựa vào cánh chớp cửa sổ, không biết nên làm gì. Toàn bộ Phòng Thí Nghiệm Sấm đã được bao phủ trong màn pháo hoa rực rỡ.
Vài phút sau, từ dưới sân vang lên tiếng huyên náo của quân lính và giọng người chỉ huy quát lớn.
“Hãy truy lùng kẻ xâm nhập! Mau lên! Không được để chúng chạy thoát!”