← Quay lại trang sách

Chương 11 - Phòng Giam Bốn Người.

Vùng vẫy để thoát khỏi sự kìm kẹp của quân lính, Dagoberto la hét ầm ĩ.

“Thả cháu ra! Thả cháu ra! Cháu không làm gì cả!” Cách cậu nhóc khoảng một trăm mét, ngọn tháp hình vuông của Phòng Thí Nghiệm Sấm chìm trong những vụ nổ đầy màu sắc.

“Đi mà kêu với người khác nhé, nhóc!” Tên lính canh la lớn, nhấc bổng cậu nhóc ghì vào bức tường.

“Cháu không làm gì hết mà!” Tên trộm nhí vẫn phản kháng. “Không phải cháu!”

“Vậy sao? Thế là ai nào?” Lính canh hỏi, bộ giáp sắt kêu xủng xoẻng, trong khi đó, bầu trời trên đầu họ đang rực sáng muôn hồng nghìn tía.

Những tên lính canh khác của Linh mục Gianni bắt đầu tiến vào cánh đồng thủng lỗ chỗ của Phòng Thí Nghiệm Sấm mà không bị bắn tung lên trời.

Dagoberto nghe thấy tiếng họ hét lớn.

“Ra ngoài đi! Các ngươi bị mắc kẹt rồi! Các ngươi không thể thoát được đâu!”

Sau đó tay lính canh giữ cậu lên tiếng tra khảo, khiến cậu mất tập trung vào những gì đang diễn ra ở tòa tháp.

“Thế là ai hả?” Tên lính hỏi lại cậu nhóc. “Lũ trộm các ngươi có bao nhiêu tên tất cả?”

“Họ không phải là trộm! Họ là hai nhà buôn!” Dagoberto thú nhận. “Một cậu bé và một cô bé.”

Tên lính quay về phía những tên khác và hét lớn:

“Bọn chúng có hai tên! Một nam và một nữ! Tiến lên và tìm chúng đi!”

Sau đó, như để thưởng công cho Dagoberto vì lời khai này, tên lính nới lỏng tay để cậu nhóc trượt xuống đất như một miếng phô mai chảy.

“Làm ơn thả cháu đi đi…” Cậu nhóc van nài và bắt đầu khóc lóc nỉ non hòng làm tên lính xiêu lòng. “Cháu có phải là trộm đâu.”

“Và ta phải tin ngươi sao, với tất cả đống dây dợ ngươi mang theo bên mình kia? Ngươi thuộc băng Những Chuyên Gia Trên Mái Nhà phải không?”

“Cháu chỉ là một đứa trẻ thôi mà…” Dagoberto nức nở.

Một tiếng động lớn chợt vang lên khiến tên lính xoay người lại. Hai đồng đội của hắn đã dùng vai huých mạnh vào cánh cửa Phòng Thí Nghiệm Sấm, khiến nó vỡ tan tành.

“Tại sao lúc nào bọn họ cũng làm thế nhỉ?” Tên lính giữ Dagoberto thở dài. “Cánh cửa mở cơ mà! Giống như tất cả những cánh cửa khác!” Hắn lắc đầu, không thể tin nổi sự ngu ngốc này. Sau đó hắn quay lại với Dagoberto. “Giờ ngươi đi với ta. Nhóc? Ê, nhóc?”

Tên trộm nhí đã biến mất. Tiếng dây rin rít và những tia sáng lóe lên từ chiếc móc hướng ánh mắt của tên lính lên cao. Hắn giơ nắm đấm về phía mái nhà tối om trên đầu và la hét. “Xuống đây ngay, tên nhóc hỗn xược kia!” Hắn nhận ra một bóng người lom khom trên nền trời đầy sao. “Xuống đây ngay, hiểu không? Ta sẽ dùng tên bắn ngươi đấy! Ngươi có nghe thấy gì không, tên nhóc hỗn xược?”

Chẳng có tiếng đáp lời.

“Nếu ta mà bắt được ngươi,” hắn hét lên, “thì ngươi sẽ ở trong tù suốt phần đời còn lại!”

Ẩn mình giữa những bánh răng của chiếc khung cửi lớn, Jason và Julia cố gắng nín thở. Nếu có thể, bọn trẻ hẳn đã tìm cách khiến trái tim của mình lặng im luôn, bởi nó đập điên cuồng trong lồng ngực, như thể cũng muốn bỏ trốn vậy.

Khuôn mặt Jason bị những sợi len thô bao phủ, bất cứ chuyển động nhỏ nào của không khí cũng làm chúng lay động. Julia thì trốn dưới một hệ thống bàn đạp phức tạp chắc hẳn để điều khiển cỗ máy vĩ đại kia. Hai đứa trẻ đã chia nhau ra để trốn dễ hơn, sau khi nhận thấy căn phòng đó là nơi duy nhất không ai có thể tìm thấy chúng. Để đề phòng mọi tình huống có thể xảy ra, trước khi chia nhau đi trốn, hai chị em đã thống nhất về địa điểm gặp lại trong trường hợp chúng phải chạy trốn theo những hướng khác nhau. Đó là tu viện, nơi chúng đã đến.

Qua cửa sổ kính bọc chì, bọn trẻ nghe thấy tiếng hò hét đầy đe dọa của đám lính đang bao vây phòng thí nghiệm, chúng phải vội vã tìm chỗ trốn. Sau đó là tiếng bọn họ xông vào từ cửa lớn cùng âm thanh va chạm của kim loại và giáo mác.

Nếu không vì quá sợ hãi, có lẽ bọn trẻ đã phì cười trước cảnh hai tên lính cục súc va hết sức vào cánh cửa đã mở. Đám lính tiến vào bên trong, tiếng la hét và sự hỗn loạn cũng tăng theo. Những bước chân đang lao về phía căn phòng có lò sưởi. Những tên lính khác đang lục soát các địa điểm khác trong Phòng Thí Nghiệm Sấm mà Jason và Julia chưa có cơ hội khám phá.

“Ở đây! Ở đằng kia! Dừng lại! Đi đi!” Cả tá giọng nói khác nhau đang la hét trong tiếng rầm rầm của đồ vật bị dịch chuyển, đổ vỡ và quăng quật.

Ở hai vị trí không nhìn thấy nhau, hai chị em sinh đôi đang cầu nguyện cho một điều khó thành hiện thực, rằng không ai nhận ra căn phòng tối tăm bên cạnh lối vào. Nhưng bọn trẻ còn chưa kịp cầu nguyện xong thì một ngọn đuốc nổ lánh tách đã xuất hiện ở ngưỡng cửa, cùng một cánh tay cường tráng và một giọng nói đáng lo ngại. “Ubertino! Alcmaro! Hai người hãy kiểm tra căn phòng này xem!”

Những bước chân khẩn trương chạy tới, tiếng hai chiếc kích chống xuống đất và giọng nói dõng dạc: “Tuân lệnh!” Ubertino và Alcmaro trả lời.

Ngọn đuốc được truyền tay và hai tên lính bắt đầu tìm kiếm. Ánh sáng vàng của ngọn đuốc để lại những vết loang màu trên mặt len, giữa những cần trục bằng gỗ, dưới hệ thống bàn đạp và những khung sợi đã dệt.

Náu mình trong bóng tối, Jason thậm chí không dám thở. Cậu bé thấy bóng dáng thô kệch của hai tên lính đi quanh khung cửi. Qua những bước chân e dè đó, cậu đoán rằng ngay cả bọn họ cũng đang lo lắng vì sự kỳ lạ của căn phòng. Nhưng họ vẫn tiếp tục việc tìm kiếm, cậu hiểu rằng sự lo lắng đó chỉ là thứ yếu so với chỉ thị nhận được. Những chiếc kích sục sạo giữa đống vải: đầu kích len lỏi vào những tấm vải dệt tinh xảo và tạo ra những vết cắt ở khắp mọi nơi. Bàn tay thô ráp của hai người đàn ông kéo xềnh xệch những khung gỗ, và đá tung những giỏ liễu gai đựng đầy ống chỉ, khiến chúng lăn khắp phòng.

“Cậu tìm thấy gì chưa?” Sau lần kiểm tra qua loa đầu tiên, Ubertino hỏi đồng đội.

Alcmaro giẫm nát một vài ống chỉ dưới đôi ủng và lắc đầu.

Lưỡi một chiếc kích xoẹt qua cách mặt Julia vài xăng-ti-mét, dừng lại gần những sợi dây điều chỉnh bàn đạp, nơi cô bé đang ẩn nấp dưới đó. Hai tên lính tiến lại gần và giơ cao ngọn đuốc, soi rõ khuôn mặt rỗ của họ.

“Họ nói rằng có hai tên trộm.” Alcamaro nói.

“Làm sao chúng ta biết được?”

“Họ bắt được tên thứ ba ngoài kia.”

“Dagoberto.” Jason thầm nghĩ, nhưng cậu không hề cảm thấy tiếc cho cậu nhóc. Nằm im trong bóng tối, Jason chờ hai người đàn ông bỏ đi. Nhưng bọn họ lại tiến đến gần khung cửi và vô cớ cắt đứt một trong những sợi dây giữ bàn đạp. Một phần chiếc khung cửi rơi xuống đất, ngay sát chân của Julia, khiến cô bé hét lên vì hoảng sợ.

“Xem kìa!” Ubertino kêu lên. “Một tên trộm đây rồi!”

Ngay sau đó là một đám hỗn loạn nháo nhào. Julia cố gắng tháo chạy dưới khung cửi, nhưng những chiếc bàn đạp dưới đất lại chặn mọi đường thoát thân của cô bé. Tên lính tóm lấy một chân Julia và kéo mạnh.

“Tóm được rồi!” Hắn đắc chí, kéo cô bé về phía mình.

“Jason!” Julia hét lên, vươn tay về phía cậu em trai để tìm cách thoát ra.

Jason chui ra khỏi nơi ẩn náu và gắng tóm lấy cô chị, nhưng vì phòng quá tối, trán cậu bé va vào phần nhô ra của khung cửi. Một cơn đau choáng váng và trong khoảnh khắc, tất cả những gì cậu nhìn thấy là một màn trắng xóa.

“Jason!” Julia hét lên một lần nữa ở đâu đó.

Jason ngã xuống nền nhà, tay ôm đầu, đầu ong lên như tiếng chuông. Màu trắng trở thành màu xám và màu xám nhanh chóng biến thành màu đen. Cậu dường như nghe thấy những tiếng huyên náo quanh mình, sự hỗn loạn tăng lên và những tiếng la hét của chị gái, rồi cậu cố gắng thốt lên được mấy tiếng: “Chị, em đến đây.”

Nhưng trên thực tế, cậu không di chuyển được mi-li-mét nào cả, hoàn toàn choáng váng trong cơn đau điếng đang làm mất dần nhận thức của cậu.

“Bọn ta bắt được ngươi rồi, đồ phá hoại!” Cậu nghe thấy tiếng một tên lính kêu lên.

Cậu còn nghe được những tiếng la hét khác xa hơn: “Ở đây! Chúng tôi bắt được nó rồi!”

Vậy là cả chị cậu và cậu nhóc kia đã bị tóm, Jason thầm nghĩ, cậu cuộn tròn lại như tư thế thai nhi nằm trong bụng mẹ. Rồi chờ đợi một bàn tay sớm hay muộn sẽ nhấc cậu khỏi mặt đất để mang đi, nhưng điều đó không xảy ra.

Trái lại, tiếng nói và tiếng quát tháo nhỏ dần, những bước chân của lính canh xa dần và chẳng bao lâu, quanh cậu chỉ còn im lặng.

Khi mở mắt ra, Jason thấy chỉ còn lại một mình. Chiếc khung cửi gỗ to lớn hiện ra lờ mờ phía trên. Cậu chớp chớp mắt trong bóng tối, cố gắng nhìn rõ thứ gì đó. Từ ánh trăng lọt qua ô cửa sổ duy nhất trong phòng, cậu nhận ra vẫn đang là ban đêm.

“Chị Julia?” Cậu bé cất tiếng gọi, và đáp lại cậu chỉ là tiếng vang giọng nói của chính mình.

Cậu bé trượt ra ngoài, mò mẫm đi dưới khung cửi. Đầu cậu kêu ong ong, và chỉ chạm nhẹ cũng đau nhói. Một cái u to đùng, hẳn tím bầm và sưng phồng đã mọc trên trán cậu, ngay dưới đường chân tóc.

Jason đứng lên. Sàn nhà đầy ống chỉ và những miếng vải vụn.

“Chị Julia?”

Cậu bé loạng choạng ra khỏi căn phòng. Tại sân trước, chiếc cổng lớn mở toang và một nửa cánh cửa đã long ra. Trên cầu thang là những miếng phủ bằng đệm rơm.

Jason bước ra ngoài, mệt nhọc hít căng lồng ngực không khí mát mẻ của buổi tối. Cánh đồng lỗ chỗ dường như trở nên hoang vắng hơn trước.

“Chị Julia?” Cậu bé lại cất tiếng gọi, dù biết rằng ngay cả ở đó, cậu cũng sẽ không nhận được câu trả lời của chị.

Jason lại đưa tay lên trán, cố gắng suy luận chuyện gì có thể đã xảy ra. Cậu bất tỉnh, và đám quân lính không tìm thấy cậu. Tại sao nhỉ? Có thể họ nghĩ cậu đã chết chăng?

Cậu bé chán nản nhìn bốn cái cột đỡ dây chuông và bức tường ở phía bên kia cánh đồng, tự hỏi liệu cậu có phải đu dây để băng qua nó hay không. Và cậu nghĩ mình sẽ không làm được điều đó. Rồi cậu cảm thấy thực sự mệt mỏi.

Rất mệt mỏi.

Jason thả người ngồi xuống trước lối vào phòng thí nghiệm. Giờ đây, khi đám quân lính đã bắt giải chị gái cậu đến chỗ nào không biết, cậu mới cảm thấy việc chỉ còn lại một mình bi đát hơn bao giờ hết. Không có Rick để đưa ra những lời khuyên thông minh và không có Julia để ngăn cậu hành động bừa bãi. Cũng không có cả Nestor, và bất cứ người dân Kilmore Cove nào. Tất cả đã biến mất.

Tại khu thành như một mê cung nằm trên đỉnh vách đá này, Jason không biết phải làm gì: cậu không có gì cả. Không bạn bè, không đồ đạc, không bản đồ, không mục đích. Cậu là một người không thích hợp, xuất hiện không đúng chỗ.

Rồi, trong lúc miên man suy nghĩ, cậu chợt nghe thấy một tiếng động khẽ đằng sau lưng rồi cảm thấy một cử động chậm chạp, như thể thứ gì đó đang tiến lại gần cậu từ trên cao.

Cậu quay phắt lại.

Trước mặt cậu là một khuôn mặt lộn ngược. Mái tóc xõa xuống dưới. Không hề mỉm cười.

“Chào.” Người đó cất tiếng.

Sau đó, với tiếng dây kêu lách cách, Dagoberto thả mình trượt xuống mặt đất, nhẹ nhàng cuộn người dưới chân Jason.

“Cậu khỏe không?”

Jason không trả lời, chờ tên trộm nói tiếp.

“Tớ rất tiếc về chuyện chị gái cậu.”

Jason nghĩ rằng hẳn Dagoberto là người đã tiết lộ cho đám lính rằng còn có hai người khác nữa trong phòng thí nghiệm nhằm đổi lấy sự tự do, và cậu phải kiềm chế để không đấm cho tên nhóc một cú. Cậu chỉ xô mạnh tên trộm vào tường.

“Cậu đã nói cho bọn họ biết, phải không?”

“Đúng vậy.” Tên trộm nhí thừa nhận. “Và tớ đã tìm cách thoát được.”

“Cậu là một thằng hèn nhát. Họ bắt Julia đi và tất cả là do lỗi của cậu!”

“Tớ không nghĩ vậy. Tớ đâu phải là người đã làm nổ tất cả đống pháo hoa của thành phố như thể gào lên với lính canh: ‘Chúng tôi ở đây! Đến bắt chúng tôi đi!’.”

“Họ mang chị ấy đi đâu?”

“Họ đã mang bọn họ đi đâu thì đúng hơn.”

“Tớ không hiểu.”

“Bọn họ có hai người.”

“Hai người là sao?”

Dagoberto tiến lại gần Jason. “Còn có một người khác trong phòng thí nghiệm. Một tên trộm khác theo sau chúng ta.”

“Không thể nào!” Jason lẩm bẩm, nhưng chợt nhớ lại cuộc gặp ở vườn ô liu mà Julia đã kể cho cậu. Tuy nhiên, cậu không đề cập đến việc này, cần học cách không nên quá tin tưởng vào người khác.

“Tớ đã nhìn thấy mà!” Dagoberto khăng khăng. “Chính mắt tớ đã nhìn thấy.”

“Tớ có thể tin vào những gì cậu nhìn thấy,” Jason cáu kỉnh nói, “nhưng tớ không thể tin được những gì cậu nói. Rốt cuộc thì cậu đã bán đứng chúng tớ mà, phải không? Có thể cậu đã thỏa thuận với những tên lính để họ đưa cho cậu cuốn sổ ghi chép của chúng tớ…”

“Vậy thì tại sao tớ lại ở đây?” Tên trộm xòe hai bàn tay trống không ra. “Như cậu thấy đấy, với tớ mọi việc cũng đâu có suôn sẻ.”

Jason cau mày lo lắng. “Chị Julia đang cầm cuốn sổ ghi chép.”

“Tớ nghĩ cũng chẳng được bao lâu nữa đâu.”

“Tại sao? Họ sẽ làm gì chị ấy?”

“Như những gì họ làm với tất cả những tên trộm thôi. Họ sẽ tống cậu ấy vào tù, khám xét và nhốt cậu ấy trong xà lim kha khá thời gian, trong lúc chờ đợi xem sẽ làm gì với cậu ấy. Và cậu có thể an tâm rằng, tất cả cánh cửa xà lim đều được khóa chắc chắn.”

“Nhưng chị Julia đâu phải là trộm.”

“Cậu đến đó mà nói với họ.” Dagoberto giọng châm chọc. “Bất cứ ai bị bắt quả tang đi bộ không phép trong thành vào ban đêm đều bị coi là trộm hết. Đó là lệnh của…”

“Rồi, rồi, lệnh của linh mục Gianni… Quỷ tha ma bắt ông ta đi!” Trong cơn tức giận, Jason tìm lại được chút quyết tâm, cậu đấm nắm tay vào lòng bàn tay còn lại. “Tớ phải đi nói chuyện với ai đó. Và tớ phải tìm được chị gái.”

“Chúc may mắn.”

“Nhà tù ở đâu thế?”

“Đại khái là theo hướng đó.” Dagoberto trả lời, chỉ cho cậu bé những mái nhà của tòa lâu đài mờ dần về phía bên trong pháo đài đến tận đường chân trời.

Jason gật đầu, mỉa mai. “Đừng lo! Tớ sẽ tìm được chị ấy một mình.”

“Hẳn rồi. Cậu chẳng còn cách nào để trả công tớ dẫn đường cho cậu cả.” Dagoberto nói thêm.

Ý nghĩ phải vật lộn một mình trong mê cung những con hẻm và lâu đài kia khiến Jason cảm thấy sợ hãi, nhưng cậu cố gắng không để lộ ra, và nói với vẻ hăng hái, đầy tự cao.

“Tớ nghĩ trước tiên tớ sẽ qua Chuồng Lừa Kêu Be Be để đi tắt sang Một Trăm Con Công, làm vậy cho nhanh…” Jason nói, lấy ngẫu nhiên từ trí nhớ một vài cái tên mà cậu đã đọc trong cuốn sổ ghi chép của Ulysses Moore.

“Cậu thực sự biết cách đến đó sao?” Dagoberto ngạc nhiên.

“Đến bức tường nhỏ thì rẽ phải, sau đó rẽ trái, đi lên một cái cầu thang, quay về vườn ô liu, rẽ trái, rẽ trái tiếp, nín thở đi qua hàng cổng vòm rồi đi xuống cầu thang hai con sư tử, cho đến tận chỗ đài phun nước.” Jason chậm rãi liệt kê, cố gắng nhớ ngược lại lộ trình mà bọn chúng vừa đi qua để đến được đó. Cuối cùng, khi nhận ra mình đã làm được, cậu chỉ một ngón tay lên thái dương và mỉm cười. “Tất cả đều ở trong này, cậu hiểu không? Tớ có một trí nhớ siêu phàm! Và đó là lý do chị Julia giữ cuốn sổ ghi chép. Sau khi đọc qua một lần, tớ không cần xem lại nó nữa,” cậu nói dối. “Tớ nhớ rõ mọi lộ trình. Tất cả lộ trình.”

Dagoberto có vẻ do dự, không biết có nên tin cậu bé hay không.

“Bao gồm cả đường dẫn đến Đài Phun Nước Tuổi Trẻ Vĩnh Hằng nữa…” Jason thì thầm, bẻ đốt ngón tay. “À đúng rồi, tớ nghĩ mình nên ghé qua đó làm một cốc nhỏ sau khi cứu được chị Julia…”

“Cậu đang nói dối.” Dagoberto quả quyết.

Jason không trả lời. Cậu bé hờ hững chào tên trộm và bước đi, cầu mong cậu nhóc sẽ rơi vào bẫy của mình.

“Có thể cậu đúng.” Jason thừa nhận sau khi đi được chục bước. “Nhưng nếu không phải vậy… thì cậu đang đánh mất cơ hội cuối cùng để biết con đường dẫn tới tuổi trẻ vĩnh hằng đấy.”

Khi miếng bịt miệng được giật ra, Julia hét lớn: “Thả tôi ra! Các người không biết mình đang làm gì đâu!”

Cô bé đang ở trong một chòi canh được đào sâu trong đá, nơi này có trần thấp và bám đầy khói đen cùng dầu mỡ. Hai tên lính gác ra lệnh cho cô bé thay lên người một chiếc áo thầy tu dài, không xác định nổi màu sắc và bốc mùi ghê tởm. Quần áo của cô bé và cuốn sổ ghi chép của Ulysses Moore bị ném vào một cái rương, đóng kín lại. Đi chân trần, hoảng sợ và lạnh cóng, cô bé bắt đầu nhảy lên, đổi từ chân này sang chân kia để tránh tiếp xúc với sàn nhà băng giá.

Sau khi giải quyết xong cô bé, những tên lính gác cũng đối xử tương tự với một ông già nhỏ bé có gương mặt lem luốc, đầu cạo trọc lốc và đôi mắt tròn có màu tựa lưng ếch. Không giống Julia, ông già tuân lệnh mà không nói một lời, như thể với lão, những thủ tục này hoàn toàn bình thường. Bộ quần áo bốc mùi của ông già, thay vì được cho vào rương, bị ném thẳng vào đám lửa trong lò sưởi.

“Những tên trộm nghiệp dư của chúng ta đây rồi.” Tên lính cười lớn, quay lưng lại phía hai người.

Ông già có đôi mắt ếch thì thầm với Julia.

“Ta rất tiếc…”

Nhưng cô bé nổi giận, gắt lên. “Ông đang nói gì thế? Tôi không phải là trộm! Tôi đến Phòng Thí Nghiệm Sấm để tìm bạn thôi!”

“À vậy sao? Còn ông ta thì sao?”

“Tôi thậm chí còn chẳng quen biết ông ta!” Julia khăng khăng, chỉ vào ông già bé nhỏ.

Tên lính quay người và chống tay lên hông. Đó là một người đàn ông béo lùn, mắt xếch. “Từ thứ mùi bốc ra kia, ta đoán là đã bắt được một tên Trộm Cống, ta nói đúng không?”

Ông già gật đầu, sau đó quay sang Julia. “Ta là Rigoberto, ngươi nhớ không?”

“Ái chà! Thấy chưa, vậy là các ngươi quen biết nhau.” Tên lính gác kêu lên đắc thắng.

“Nhưng không phải như vậy! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông ta trước đây!” Julia tiến nhanh về phía tên lính. “Tôi xin ngài, hãy nghe tôi nói. Tôi là bạn của Núi Lửa Đen… Tôi đến nhà ông ấy để gửi lại một tin nhắn. Tôi cần nói chuyện với ông ấy. Chỉ cần tìm thấy, ông ấy sẽ giải thích cho các ngài tất cả mọi chuyện. Ngài chỉ việc gọi cho ông ấy…”

Tên lính thô bạo xô cô bé ra. “Ta không quan tâm ngươi là bạn của ai và tại sao ngươi ở đó.”

“Nhưng đây là một sự nhầm lẫn, ngài hiểu không?”

Người đàn ông rút một phần thanh kiếm ra. “Ta chỉ hiểu là bây giờ người hãy im miệng cho đến khi ta mang ngươi đến xà lim.”

“Không thể n…”

Thanh kiếm rung lên ngay trước mặt Julia. Cô bé ngửi thấy mùi gỉ sắt và bùn khô.

“Và ngươi cũng phải im miệng sau khi ta mang ngươi đến xà lim. Rõ chưa?”

“Làm ơn…” Julia van nài, một giọt nước mắt không chịu nghe lời đang lăn dài trên má.

Không chút động lòng, tên lính đẩy mạnh cô bé ra ngoài, đồng thời giơ chân đá Rigoberto một cú.

Sau đó, tên lính đi sau, áp giải họ đi dọc hành lang dài, ẩm thấp và tù mù, dẫn đến một hào nước đầy cá chép. Những con cá già cỗi có màu giấy da chuyển động chậm chạp trong làn nước tĩnh lặng. Ba người đi qua hào nước và dừng lại trước một cánh cửa. Sau tiếng huýt sáo của tên lính, cánh cửa xà lim mở ra và hắn dùng kiếm thúc hai người vào bên trong.

“Xin ngài làm ơn…” Julia cố gắng lần cuối. “Tôi bị lạnh chân. Chỉ cần ngài cho tôi một đôi giày thôi…”

“Nếu lạnh thì nhấc chân lên!” Tên cai ngục cười khẩy, đóng sập cánh cửa trước mặt cô bé.

“Hãy gọi Balthazar!” Julia vẫn la lớn. “Balthazar! Ông ấy sẽ đến đón tôi!”

Tuy nhiên, từ phía bên kia, Julia chỉ nghe thấy tiếng cười khàn và tiếng bước chân xa dần của tên lính. Chán nản, cô bé dựa vào cánh cửa, nức nở gọi tên Balthazar.

Sau đó, cô bé thả mình trượt xuống đất, hai tay ôm lấy đầu gối. Nền xà lim ẩm ướt và lạnh như băng. Nơi này bốc lên thứ mùi thum thủm đặc quánh, trong bóng tối gần như tuyệt đối của xà lim, nó càng trở nên hữu hình hơn.

Julia nghe thấy tiếng bước chân loẹt quẹt, nhưng không ngước nhìn lên, nghĩ rằng đó là người đồng hành với cô trong nỗi bất hạnh này: ông già Rigoberto nhớp nháp với đôi mắt cóc. Cô bé nức nở trong nỗi tuyệt vọng, chẳng màng đến điều gì khác. Rồi cô nghe thấy tiếng thì thầm nho nhỏ, tiếng gỗ kêu cọt kẹt, tiếng xích sắt và bất chợt, một giọng phụ nữ vang lên trong bóng tối, như một cú đánh choáng váng: “Người tên Balthazar sẽ đến cứu ngươi là ai vậy?”

Giọng nói đó khiến tim Julia ngừng đập mất một nhịp. Cô bé bật dậy và đứng bất động như một bức tượng làm bằng muối biển, nhìn chăm chú gian xà lim nhỏ hẹp với vẻ cảnh giác cao độ. Giờ đây, khi mắt đã quen dần với bóng tối, cô bé nhìn ra hình dáng lờ mờ của một lỗ châu mai, bốn trục gỗ gắn vào tường cùng những dây xích, và ba người bị bắt giam khác. Một người bé nhỏ và khom lưng dường như là Rigoberto. Người thứ hai vừa lên tiếng, là một phụ nữ, đang nằm trên một chiếc giường gồ ghề. Và người thứ ba, giờ đang đứng lù lù trước mặt cô bé, là một người đàn ông, hắn bất chợt tóm lấy vai cô.

“Nhìn, nhìn này… xem ai đây!” Hơi thở bốc mùi của Manfred phả vào mặt cô bé. “Quý cô của Biệt thự Argo!”

“Không!” Julia không thể kiềm chế nỗi sợ hãi, kêu lên thất thanh và cố vùng vẫy khỏi bàn tay gã. “Không thể thế được! Hãy cho tôi ra khỏi đây! Hãy để tôi ra khỏi đây ngay lập tức!” Cô bé hét lên, đập loạn cánh cửa xà lim.

Từ chiếc giường, Oblivia Newton phá lên cười.

“Thả nó ra, Manfred! Cứ để nó chạy!”