← Quay lại trang sách

Chương 13 - Bên Dưới Công Viên.

Trong căn nhà phụ của Biệt thự Argo, Rick lên tiếng hỏi. “Ý ông là cô thủ thư Calypso ạ?”

“Chính là cô ấy, cùng những chú chó xù.” Leonard trả lời, chỉnh lại miếng băng bịt mắt. “Cô ấy kết bạn với tất cả mọi người chỉ trong ít phút, ngoại trừ với Peter, những chú chó nhỏ vẫn không ngừng gầm gừ trước mặt cậu ta. Calypso cho chúng ta xem bên trong cái lán, nơi để những dụng cụ làm việc của bố cô ấy, và khi chúng ta hỏi về cái hang, cô ấy đưa chúng ta đến trước lối vào chính, tuy nhiên nó đã bị xây bịt lại. Chỉ có một vài con chim hải âu có thể bay qua những lỗ thủng trên tường để làm tổ. Lối vào còn lại duy nhất là một cái giếng, ngay gần chỗ để dụng cụ. Chúng ta đã lao động cả ngày hôm đó và cả ngày hôm sau để di chuyển phiến đá mở ra một kẽ hở đủ để chui qua: Phoenix mang tới một cuộn dây thừng cậu ấy trộm được ở cảng và sau đó chúng ta rút thăm tên người vinh dự được trèo xuống đầu tiên.”

“Là ông Núi Lửa Đen.” Rick đoán.

“Chính xác. Vulcano buộc sợi dây quanh thắt lưng và chúng ta thả cậu ấy xuống hang. Khi ra khỏi đó, người cậu ấy đen sì: một sự kết hợp giữa bùn, phân chim và bồ hóng. Tất cả chúng ta đều cho rằng điều này hoàn toàn không thể tránh được. Và thực vậy, chúng ta lần lượt trèo xuống dưới đó và trở lên, bẩn thỉu y như cậu ấy.”

“Chúng ta đang nói về cái hang mà từ đó đến được trạm dừng xe lửa phải không ạ?” Rick hỏi.

“Đúng vậy.”

“Cái hang mà đầu bên kia dẫn đến khu lăng mộ và… cái hang của Biệt thự Argo ấy ạ?” Cậu nhóc cố nài thêm.

Nestor đứng dậy đến chỗ chiếc rương, mở nó ra và tìm kiếm giữa những tờ giấy cũ. Cuối cùng ông trở lại bàn với một tấm bản đồ lớn được gập lại, rồi mở nó ra trước ánh mắt sững sờ của Rick.

Đó là hình vẽ mặt cắt đứng của những quả đồi và vịnh, cho thấy những hang động khác nhau của thị trấn được bà Penelope cẩn thận vẽ lại.

“Thực tế,” Nestor bắt đầu kể, “những gì chúng ta khám phá ra vào mùa hè đó, và khi chúng ta gặp lại nhau nhiều năm sau đó, là toàn bộ Kilmore Cove được giao cắt bởi những đường hầm, và nối với nhau bằng những hang động tự nhiên khá lớn. Đường hầm nằm dưới vách đá này chứa con tàu Metis, và được nối tới lăng mộ nhờ cây cầu mười một con thú.” Người làm vườn giải thích, chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ. “Hành lang này dẫn đến một đường trượt. Còn hành lang này dẫn đến một khe nứt tưởng như không đáy, Black và Leonard đã thử khám phá nó nhưng không đem lại kết quả gì.”

“Chúng ta đã xuống được hơn hai trăm mét…” Leonard xác nhận, “… trước khi từ bỏ.”

Nestor đặt ngón tay lên một cái hang. “Đi qua khu lăng mộ là đến được cái hang lớn nhất này. Nó thông lên tận bề mặt của Công viên Rùa, và đó là cái hang đầu tiên chúng ta khám phá ra vào năm đó. Sau đó có một đường hầm dưới vùng đồi Shamrock và một khe nứt khá lớn tại trung tâm thị trấn, nằm đâu đó dưới Đảo Calypso. Nó có hàng loạt các nhánh nhỏ, nối liền với tầng hầm nhà bà Biggles, trường học và cửa hàng bánh ngọt Chubber. Nói cách khác, tất cả những nơi có Cánh cửa Thời gian. Tại đây, nơi cháu thấy hình vẽ bãi biển này, có một hồ nước mặn được tạo thành mỗi khi thủy triều dâng. Cuối cùng, từ phía này, Black đã vận hành đường ray xe lửa chạy đến cái hốc cuối cùng dưới đất, nằm quá ngọn hải đăng của Leonard một chút.”

“Dưới biển.” Rick lo lắng thì thầm.

“Nhưng vào mùa hè năm đó, không ai trong số chúng ta có thể mường tượng ra tất cả những điều này…” Leonard tiếp tục. “Hồi đó, chúng ta chỉ là một lũ nhóc chật vật đối mặt với một cái hang. Khi cái hang đó trở thành một thế giới ngầm rộng lớn và khi phát hiện ra cái thang máy cọt kẹt của William Moore, hay cánh cổng lăng mộ đóng kín, dường như chúng đã đã bước vào một thế giới song song, được xây dựng lên và rồi bị lãng quên. Chúng ta đã mất một tuần chỉ để thám hiểm cái hang ở Công viên Rùa. Sau đó bố của Calypso phát hiện ra và cấm chúng ta tiếp tục. Nhưng chúng ta không bỏ cuộc và đã bí mật đi vào trong lăng mộ. Tất cả là nhờ công của Phoenix: cậu ấy đã mượn bản sao chùm chìa khóa cánh cổng ở nhà thờ. Cháu đã nhìn thấy khu lăng mộ rồi đấy…”

Rick gật đầu.

“Vậy là cháu cũng biết nó có hình dạng thế nào: một phần những ngôi mộ nằm ở phía Tây. Trong khi tổ tiên lâu đời nhất của nhà Moore được chôn cất ở phía Đông, hướng về Biệt thự Argo.”

Nestor lại chỉ tấm bản đồ. “Từ lăng mộ, qua cây cầu là có thể đến được chỗ con tàu Metis. Nhưng khi chúng ta thử làm điều này, cánh cổng đã bị đóng và trên cầu gió thổi rất mạnh, khiến những tảng đá cũng phải rít lên. Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy tượng những con vật và đường cong của cây cầu… vậy thôi.”

“Cánh cửa Thời gian đã đóng kín…” Rick hiểu ra.

“Chính xác, nhưng lúc đó không ai trong số chúng ta biết đến sự tồn tại của những cánh cửa.” Leonard bổ sung. “Mặc dù cũng không mất nhiều công sức để khám phá ra chúng. Nếu ta không nhầm thì nhờ một cái hộp gỗ.”

Nestor gật đầu. “Nó ở trong lăng mộ, nằm trên mặt đất, dưới ngôi mộ của Raymond và Fiona.”

“Hai người đang nói về cái hộp nào vậy ạ?”

Người làm vườn đứng lên lần nữa để đến chỗ chiếc rương, và quay trở lại với một cái hộp đã bị muối biển và nước ăn mòn một nửa. Nửa phía trên, trái lại, vẫn còn nguyên vẹn. Trên mặt gỗ có khảm hình phụ nữ. Khóa hộp là một chiếc mề đay mạ vàng, trên đó có khắc hai chữ cái đầu R. và M.

“Raymond Moore.” Rick thì thầm. Cậu bé mở chiếc hộp ra: bên trong trống không, với lớp lót màu đỏ chia chiếc hộp ra thành bảy ô đều nhau, được đánh số nhờ những miếng phù hiệu bằng ngà. Nước biển đã làm hỏng một phần miếng vải, để lộ ra bộ khung gỗ phía dưới. Không có miếng phù hiệu số năm.

“Cháu không hiểu…” Rick nói.

“Một người đánh cá đã tìm thấy chiếc hộp này trên bãi biển sau khi nó được sóng đưa vào bờ. Ai đó đã vứt nó xuống biển…”

“Bố cháu sao?” Rick đánh bạo đoán.

“Ồ, không!” Leonard trả lời. “Chúng ta tìm thấy chiếc hộp vào năm 1958. Và bố cháu không liên quan gì đến chiếc hộp cả. Ít nhất là vẫn chưa.”

Lời ám chỉ đơn giản đó đủ khiến Rick trở nên chăm chú và cẩn trọng hơn.

“Người đánh cá tìm được chiếc hộp đã nhìn thấy những chữ cái đầu của nhà Moore. Và vì Biệt thự Argo lúc đó đã bị đóng, nên chiếc hộp được mang tới khu hầm mộ và rơi vào quên lãng.”

“Và bọn trẻ chúng ta đã tìm thấy nó ở đó.” Nestor kết luận.

“Có gì ở bên trong chiếc hộp vậy ạ?”

Hai người đàn ông nhìn nhau, cùng cảm thấy sức nặng của một lời thề xưa cũ. Sau đó, Leonard khẽ đáp.

“Bảy chiếc chìa khóa: ngựa, sư tử, voi, mèo, khỉ, cá voi và rồng. Chúng ta đã ngồi cuộn tròn trên bãi cỏ trong Công viên Rùa, truyền tay nhau những chiếc chìa khóa, ngắm nhìn và vuốt ve chúng với vẻ tôn kính pha chút sợ hãi. Clitennestra đã nói trong khi mân mê những chiếc chìa khóa: ‘Đây là kho báu mà tớ đã nói với các cậu’.”

“Và mọi người đã làm gì ạ?”

“Làm điều hợp lý nhất mà những đứa trẻ có thể làm.” Leonard trả lời. “Chúng ta chia nhau những chiếc chìa khóa, thề không bao giờ tiết lộ bí mật về chuyến phiêu lưu và việc làm thế nào chúng ta lại có những chiếc chìa khóa. Ta đã chọn chiếc chìa khóa voi ma mút.”

“Black lấy chìa khóa con ngựa…” Nestor nói.

“Clitennestra cầm chìa khóa con mèo, rồi sau đó đưa nó cho Oblivia.”

“Của ông Peter Dedalus là hình sư tử.” Rick suy luận.

“Cha Phoenix lấy hình con khỉ, còn Calypso là cá voi.”

“Còn của ông là con gì ạ?” Rick hỏi ông Nestor.

“Ta lấy con rồng.”

Tiếp sau đó là một khoảng lặng kéo dài, cuối cùng Rick lên tiếng hỏi: “Còn những chiếc chìa khóa khác thì sao ạ? Bốn chiếc chìa khóa của Biệt thự Argo ấy? Mèo rừng, ác là, ốc sên, rắn ấy ạ?”

“Chúng không có trong hộp.”

“Thế lúc đó chúng ở đâu ạ?”

“Chúng đang đợi.” Nestor trả lời.

“Sao cơ ạ?”

“Chúng đợi Biệt thự Argo có một người chủ mới.”

“Bốn chiếc chìa khóa xuất hiện mười hai năm sau đó.” Người làm vườn nói sau hồi lâu suy ngẫm. “Khi ông ngoại qua đời, ta chuyển đến đây cùng bố. Những chiếc chìa khóa nằm trong một chiếc hộp nhỏ và được gửi đến ‘Chủ nhân đáng kính của Biệt thự Argo’, và bố ta đã cho ta mở nó.”

Rick chăm chú lắng nghe, sau đó cậu bé lắc đầu. “Đó là những gì xảy ra với chúng cháu.”

“Chính xác!” Nestor khẳng định với một nụ cười cay đắng.

Rick cầm lấy chiếc đồng hồ trên bàn. “Vậy thì bố cháu có liên quan gì đến tất cả những chuyện này?”

“Chiếc hộp đựng bảy chiếc chìa khóa được tìm thấy trên bãi biển,” Leonard nói, “bởi ai đó đã ném nó ra biển. Hoặc giấu nó ngoài biển.”

“Là ngài Raymond Moore phải không ạ?” Rick đánh bạo đoán.

“Vì một lý do nào đó chúng ta không rõ, người đàn ông khám phá ra những cánh cửa đã quyết định ngăn không cho người khác sử dụng chúng.”

“Cũng giống như những gì các ông đã làm.” Rick nhận xét. “Với đường ray xe lửa, những tấm biển chỉ đường, con đường cấm lưu thông, sách hướng dẫn du lịch…”

“Chính xác.”

“Thật ngu ngốc…” Leonard lắc đầu thừa nhận.

“Tại sao ạ?” Rick hỏi.

“Bởi đó không phải điều nên làm.” Người gác ngọn hải đăng trả lời.

Nestor nắm lấy cổ tay Leonard. “Tôi không muốn lại tranh cãi về việc gì nên hay không nên làm đâu.”

“Vậy sao?” Leonard thốt lên. “ Vậy anh muốn tôi ca ngợi anh vì đã giỏi giang thế nào khi khiến chúng tôi mệt lử đi tìm kiếm bản đồ, tầng hầm, những trích dẫn và những bài thơ về Kilmore Cove không chỉ ở thời đại chúng ta, mà còn ở tất cả những nơi liên kết với nhau qua các Cánh cửa Thời gian sao?”

“Như trong thư viện tại Xứ Punt ạ?” Rick xen vào, cậu chợt nhớ lại tất cả những chú thích liên quan đến Ulysses Moore và những tấm bản đồ về Kilmore Cove đã bị xóa bỏ và làm cho không thể nhận ra.

“Hiển nhiên là cả ở đó nữa!” Leonard giận dữ thừa nhận.

“Đủ rồi đấy, Leonard! Chúng ta đã làm việc chăm chỉ, trong khi cậu…”

“Tôi thì sao?” Minaxo lớn tiếng, vươn người về phía bàn của Nestor.

Người làm vườn không chịu lùi lại một li, trái lại, ông cũng rướn người về phía Leonard, đến mức trán họ đụng nhau ở giữa bàn. Những mạch máu trên thái dương Nestor hằn lên vì căng thẳng. “Cậu vẫn ngoan cố tiếp tục… khiến nhiều người bỏ mạng vì những Cánh cửa Thời gian đó! Trong khi tôi…”

Đúng lúc đấy, có người gõ cửa.

Rick, Nestor và Leonard cùng giật bắn mình. Hai người đàn ông đang tranh cãi tách nhau ra, tỏ vẻ ngạc nhiên, trong khi cậu bé tóc đỏ nhìn quanh như thể lần đầu quay trở lại thế giới thực tại. Cậu bé đưa mắt nhìn đồng hồ và thốt lên: “Ôi, chết thật! Giờ này chắc hẳn mẹ đang đi tìm cháu rồi!”

Nestor vội gấp tấm bản đồ và bức tranh trên bàn, với ý định cất chúng lại vào rương. Leonard đứng dậy mở cửa như ông vừa làm vài tiếng trước, khi Rick, và ít lâu sau đó, là Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ, đến gõ cửa.

“Tôi không biết anh lại muốn tổ chức một bữa tiệc đấy, Nestor…” Leonard lẩm bẩm với giọng mỉa mai, tiến đến gần cánh cửa rồi mở toang nó ra.

Ngay sau đó, miệng ông cũng há hốc vì kinh ngạc.

“Ta sẽ bị một con cá voi nuốt chửng…” Leonard thốt lên, quả quyết lắc đầu.

“Ai vậy, Leonard?” Từ bên trong, Nestor cất tiếng hỏi.

“… nếu gã khốn khổ râu ria này không phải Núi Lửa Đen!” Người gác ngọn hải đăng gần như hét lên.

Nghe thấy cái tên ấy, Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ mở một mắt, lưỡng lự không biết có nên mở nốt mắt còn lại không.

“Chào Leonard.” Núi Lửa Đen reo lên và ôm chầm lấy người gác ngọn hải đăng. “Tôi thấy vậy là hai người đã làm hòa rồi…”

Black bước vào căn nhà phụ cùng một phụ nữ người Trung Quốc mặc quần áo lụa xanh. “Tôi có thể biết chuyện gì đang xảy ra được không? Những người lạ đang sống ở Biệt thự Argo là ai vậy? Tại sao cậu lại ở đây? À, xin lỗi mọi người: cô ấy là Zan-zan, trợ lý của tôi. Nghe này, tôi đã đọc tin nhắn của Peter và…”

Chỉ lúc đó người nhân viên đường sắt năng nổ của Kilmore Cove mới nhận ra sự hiện diện của Rick. Ông vội im bặt, chống tay lên hông và quay sang hỏi cậu bé: “Còn cậu là ai thế?”