← Quay lại trang sách

Xứ thanh bình Prenning

Giữa chuyến đi dài vòng quanh nhiều thành phố của châu Âu, bất ngờ Stefan, một người bạn thân thiết hỏi tôi: “Đã bao giờ bạn tới thăm một ngôi làng nhỏ xíu ở nông thôn nước Áo chưa?”. Sau câu hỏi ấy vài ngày, lịch trình của tôi đã có sự thay đổi. Bỏ qua những thành phố lộng lẫy, những phố phường tấp nập, những trung tâm mua sắm phồn hoa, tôi vác ba lô lên đường tới làng Prenning ngoại ô thành phố Graz, quê hương Stefan.

Trước đó tôi đã có dịp đến thăm thủ đô Vienna; đi nghe hòa nhạc ở Salzburg nhưng đây sẽ là lần đầu tiên tôi có dịp về một miền quê nước Áo. Vác balô lên đường, thấy lòng mình vừa háo hức vừa chông chênh đến lạ.

Từ ga trung tâm thành phố Graz, chúng tôi đi tàu thêm 20 phút nữa ngược lên phía Bắc để tới làng Prenning thuộc vùng Deutschfeistritz. Xuống ga tàu, Stefan đưa tôi vòng theo con đường đất mịn màng để tới The Cottage Feuerlöscher, căn nhà khách nhỏ nơi tôi sẽ trú ngụ trong những ngày sắp tới.

Đi chừng 20 phút, ngôi nhà mộc mạc hiện ra sau tán cây. Hàng rào gỗ trước hiên nhà vẫn còn đọng một lớp tuyết chưa kịp tan dưới làn nắng mỏng manh như khói. Những ngày cuối xuân, thời tiết đã hửng lên đôi chút, tuy khí trời vùng núi vẫn khiến tôi co ro trong chiếc áo lạnh. Rặng núi phía xa còn phủ nguyên màu trắng, cánh đồng vẫn xám xít và lũ cừu ngoan ngoãn vẫn phải gặm cỏ khô dự trữ từ mùa trước.

Thoang thoảng trong không khí là mùi nồng nồng của đất, của cỏ, mùi phân gia súc, rơm khô, mùi củi cháy trong lò sưởi, mùi khói, mùi sương và nắng sớm quyện vào nhau. Ở thành phố nhiều, cứ ngỡ như tôi đã quên cái mùi ấy từ lâu lắm. Thế mà bây giờ đi dạo trên con đường đất men theo sườn đồi thấy lòng mình thật nhẹ nhàng và đầm ấm, cái mùi nông thôn thuần khiết ấy neo giữ con người ta bền chặt đến lạ. Bảo sao Gerald, đã sống ở nơi này từ khi còn thơ bé, tới tận bây giờ hơn 70 tuổi, ông vẫn gắn bó với nghề nông của mình.

Cũng giống như bao người dân khác ở vùng đất này, ông thích chia sẻ về cuộc sống nông trại, về đàn cừu lớn nhất trong vùng, về những thung lũng bình lặng, những nghề truyền thống đã bị phôi pha, và bí mật của chuyện bếp núc. Ông tự hào khoe, cái món xúc xích này là từ thịt cừu của nhà nuôi này, súp bí ngô cũng là của nhà trồng này, salad khoai tây với xà lách cũng là của nhà này hết đấy.

Căn nhà The Cottage Feuerlöscher nơi ông Gerald đang sống và coi sóc có lịch sử tương đối đặc biệt. Bắt nguồn từ năm 1884, một người thợ gốc Bohemian Daniel Baptist Feuerlöscher mua ngôi nhà này và mảnh đất xung quanh để xây dựng nên một nhà máy giấy. Ngôi nhà khi đó trở thành trụ sở công ty và cũng là nơi gặp gỡ của giới tri thức địa phương như hoạ sĩ Axl Leskoschek, nhà điêu khắc Walter Ritter hay chính trị gia Ernst Fischer.

Cái chết của Lilly Feuerlöscher, người sở hữu cuối cùng của ngôi nhà và việc đóng cửa nhà máy vào những năm 70 của thế kỷ XX đã khiến cho ngôi nhà chìm vào quên lãng. Năm 2004, Gabriel Hirnthaler mua lại tài sản này, khôi phục lại cẩn thận và mở cửa đón khách trở lại.

Ông chủ nhà chắc cũng là người hoài cổ nên trong nhà từ tranh treo tường ở phòng ăn, cho tới chiếc dương cầm và bộ salon trong phòng khách, chiếc lò sưởi khổng lồ bằng gốm xanh trong phòng ngủ đều toát ra vẻ trầm ngâm của quá khứ.

Tối hôm thứ hai, ông Gerald đã sắp xếp cho chúng tôi cùng một nhóm du khách tới thăm một trang trại gần đó để thưởng thức một vài đặc sản nổi tiếng của vùng Styria. Gọi là một “trang trại gần đó” theo lời ông Gerald, nhưng để tới nơi, cũng mất cả tiếng đồng hồ đi bộ. Trang trại nằm phía kia sườn đồi, nên chúng tôi phải lòng vòng trên con đường đất vẫn còn đầy dấu tuyết và rải rác những quả thông rụng. Dưới bầu trời đêm đầy sao, không gian miền quê tĩnh lặng, chỉ có tiếng gió hơi lao xao và tiếng cười nói, trêu đùa của nhóm chúng tôi. Thỉnh thoảng trên đường gặp một vài căn nhà nhỏ bên sườn đồi hắt ánh đèn vàng ấm cúng giữa màn đêm dày và tối.

Bữa tối hôm ấy bắt đầu bằng món súp nấm và khoai tây đặc biệt, đồ uống có nước táo do nhà tự làm. Món chính có bánh cải bắp nướng và salad rau trộn với tinh dầu hạt bí ngô, tráng miệng với bánh sôcôla phết kem tươi. Riêng tinh dầu từ hạt bí ngô là đặc sản trong vùng này, thậm chí còn được mệnh danh là “thứ vàng đen của Styria”. Loại bí ngô này không phải bí ngô màu vàng cam như thường thấy mà là bí ngô có vỏ sọc vằn hai màu xanh trắng, thích hợp với khí hậu ở đây. Tinh dầu từ hạt bí ngô có thể dùng để trộn salad, rưới lên món trứng cuộn ăn sáng, rưới lên kem vanila, thậm chí một số người còn dùng để pha một loại cocktail đặc biệt.

Kết thúc bữa tối chay đơn giản mà ngon miệng, cả nhóm lại rồng rắn về nhà. Ông Gerald đã về từ trước, để lại cây đèn soi đường. Giữa đêm tối dày đặc, chúng tôi cứ bám theo dấu tuyết cũ trên con đường mòn mà đi, thảm sao trên trời càng ngày càng sáng. Dimitra, cô gái Đức có cái tên của một vị thần Hy Lạp chợt cất lên giọng hát cao vút “ I’ll never forget. In all of my life, I’ve never had this feeling before”…

Những ngày tươi đẹp ở Prenning trôi qua thoảng như gió! Chia tay Prenning tôi vẫn còn lời hẹn với ông Gerald sẽ trở lại đây vào mùa thu, đến thăm những trang trại trồng nho vào mùa thu hoạch và uống thứ rượu non của mùa mới. Tôi cũng hẹn Stefan sẽ quay lại vào mùa đông để cùng anh đi chợ Giáng sinh và lên núi trượt tuyết.

Trên đường từ sân bay về nhà, hai bên đường đã lại thấy những búp thủy tiên đang lên xanh mơn mởn. Rồi chẳng mấy nữa lại tháng Tư, hoa thủy tiên nở vàng và mùa xuân sẽ về đầy ắp. Giữa cái giá lạnh của thời tiết London, bất chợt tôi thấy lòng mình ấm áp. Cuộc sống vốn đẹp từ những điều giản dị; thế thì cứ cười lên đi tôi nhỉ, để thấy lòng hạnh phúc như những người nông dân ở Prenning thanh bình.