← Quay lại trang sách

Krakow Cố đô ngàn tuổi

Lâu lắm rồi tôi mới có cảm giác tỉnh dậy giữa tiếng âm thanh va vào đường ray lạch cạch của những chiếc tàu điện đã cũ, nắng sớm tràn qua cửa sổ, bình minh rực rỡ mời gọi phía trước. Từ cửa sổ khách sạn có thể thấy thấp thoáng ngọn tháp cao vút của lâu đài nằm trên sườn đồi Wavel thoai thoải. Một niềm vui dìu dịu nhẹ nhàng xâm chiếm lấy tôi. Không yêu sao được vì cuối cùng tôi đã tới đây như lời hẹn ngày nào với người bạn cũ Anna Wojna xinh đẹp. Tôi đang ở Krakow, cố đô ngàn tuổi, thủ đô tinh thần của hàng triệu người dân Ba Lan.

Ba mươi (36) tiếng sau khi rời Hà Nội, tôi đã transit ở hai sân bay quốc tế, đi mấy lượt tàu hỏa, xe bus, đôi bận nhầm tàu điện và dăm lần lạc bước, tôi mới có mặt ở Krakow. 6 giờ chiều, mặt trời đang buông dần trên dòng Vistula lấp loáng. Một cơn gió từ sông thổi vào mát dịu. Những mệt mỏi của việc di chuyển tàu xe theo gió bay mất. Tôi vội vàng bỏ ba lô ở khách sạn rồi cầm bản đồ lò dò vào trung tâm thành phố trong sự ngạc nhiên bối rối của cô bạn cùng phòng “chẳng lẽ cậu không cần nghỉ ngơi chút gì à?”. Khách sạn nằm ngay trung tâm thành phố nên chẳng khó gì tôi đã có thể đi bộ dọc theo con đường Hoàng Gia, con đường làm lễ đăng quang của các nhà vua Ba Lan, bắt đầu từ nhà thờ St Florian bên phía Bắc của khu thành cổ, đi qua Barbican đến khu Stare Miasto qua cổng Florian, xuôi xuống phố Florianska qua quảng trường lớn, tới lâu đài Wavel soi bóng xuống dòng Vistula.

Trong thoáng chốc tôi đã có mặt ở quảng trường trung tâm với tiếng ồn ào huyên náo của khách du lịch, những quán ăn đông kín khách, từng tốp thanh niên chăm chú xúm quanh những trò biểu diễn ảo thuật, vẳng trong không gian là tiếng đàn sôi nổi của những nghệ sĩ đường phố. Buổi tối hè trăng tròn, ánh trăng hòa cùng ánh đèn vàng ấm áp rọi xuống những công trình kiến trúc đường bệ. Bên phải tôi, nhà thờ St Mary với ngọn tháp đôi rạng rỡ. Phía trước là tháp của tòa thị chính, còn bên tay trái là Cloth Hall với kiến trúc Phục Hưng cân xứng.

Tôi chọn một góc yên tĩnh nhất trên quảng trường lắng nghe một chàng trai chơi những bản tình ca rất ngọt, mãi sau mới được anh giải thích đó là những giai điệu Tango Địa Trung Hải. Người nghe đông dần lên cho tới khi vây kín quanh anh thành một vòng tròn, vài người trẻ dập gót theo điệu nhạc, những người già hơn nghe chăm chú, những du khách không thể nán lại lâu hơn, lặng lẽ thả vào chiếc mũ dăm đồng xu lẻ. Có một điều gì đó rất đẹp trong những giây phút ấy với tôi. Hình như đã lâu lắm rồi tôi không nghe ai chơi đàn say mê và hồn nhiên như thế. Krakow, đêm tháng sáu sáng hồng. Tiếng guitar bập bùng, gương mặt chàng nghệ sĩ sáng lên dưới ánh trăng.

Ngày hôm sau tôi trở lại quảng trường trung tâm từ sớm để gặp Anna và được bạn dẫn đi thăm thành phố. Được coi là một trong những thành phố đẹp nhất của châu Âu, di sản văn hóa của Krakow trải dài từ thời kỳ Gothic, Phục Hưng và những kiến trúc Baroque duyên dáng với vô vàn nhà thờ, cung điện, dinh thự lộng lẫy.

Khởi đầu từ một làng nhỏ trên đỉnh đồi Wavel, tài liệu nhắc tới địa danh Krakow xuất hiện lần đầu tiên vào năm 965. Trong tài liệu này thương gia Abraham ben Jacob nhắc tới một thành phố giàu có nằm ở trung tâm của các tuyến giao thương và bao quanh bởi rừng cây. Sau này Krakow nhanh chóng phát triển trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng của đất nước Ba Lan và là thủ đô trong nhiều thế kỷ cho đến khi Sigismund III Vasa quyết định dời đô về Warsaw.

Krakow đã bước ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai gần như nguyên vẹn, đây là một điều thần kỳ khi mà phần lớn các thành phố khác của Ba Lan đều bị tàn phá đến tan hoang. Chính vì điều này mà Krakow còn giữ lại trong lòng rất nhiều những di sản quý báu. Người ta ước tính rằng ở thành phố này có khoảng 6.000 địa danh lịch sử và hơn hai triệu tác phẩm nghệ thuật.

Trên quảng trường trung tâm, nổi bật nhất phải kể tới nhà thờ St Mary với ban thờ theo phong cách Gothic lớn nhất thế giới được chạm khắc bởi Veit Stoss. Từ tháp chuông chính của nhà thờ, đều đặn mỗi giờ đều vọng lên tiếng kèn trumpet. Điệu kèn này được cất lên để thông báo việc đóng và mở cổng thành, tuy nhiên thường bị ngắt giữa chừng. Theo truyền thuyết, một người lính canh gác đã thổi kèn để báo hiệu cho dân chúng về sự xâm lược của quân Tatar vào thế kỷ XIII, nhưng anh đã bị một mũi tên của quân Tatar bắn chết, vì thế tiếng kèn bị ngừng đột ngột để tưởng niệm người lính anh dũng nọ.

Đối diện với nhà thờ là công trình Cloth Hall (hội trường vải), nơi những nhà lái buôn trong thế kỷ XV, XVI gặp gỡ để trao đổi những mặt hàng nhập khẩu từ phương Đông như gia vị, lụa, da, sáp và bán những sản phẩm địa phương như vải vóc, chì và muối lấy từ mỏ muối Wieliczka gần đó.

Dù không bị Chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá nặng nề nhưng không thể nói tới lịch sử Krakow mà quên đi những ám ảnh nặng nề của cuộc chiến ở thành phố này. Trong suốt thời kỳ bị phát xít Đức chiếm đóng, người dân Do Thái ở Krakow đã bị dồn vào sống ở những khu Ghetto trước khi bị đưa đến những trại tập trung kinh hoàng như trại Auschwitz hay trại Plaszow. Chính thành phố này là bối cảnh lịch sử để đạo diễn Steven Spielberg quay bộ phim nổi tiếng “Bản danh sách của Schindler”, ngày nay khu nhà máy này đã trở thành một bảo tàng lịch sử.

Riêng cá nhân tôi, tôi ấn tượng hơn cả với một khu tưởng niệm đặc biệt dành cho những nạn nhân Do Thái đã bị sát hại trên quảng trường Anh Hùng (the Ghetto Heroes’s square). Công trình tưởng niệm đặc biệt này được thiết kế bởi hai kiến trúc sư người Ba Lan Piotr Lewicki và Kazimierz Łatak bao gồm 33 chiếc ghế cỡ lớn và 37 chiếc ghế nhỏ được sắp đặt rải rác mọi góc trên quảng trường. Chính trên quảng trường này, phát xít Đức đã phá hủy những đồ đạc của người Do Thái, rồi tập trung họ ở đây để tử hình. Chiếc ghế trống đơn côi dường như đang chờ đợi những người chủ cũ mãi mãi không bao giờ trở về nữa.

Chiều dần buông, tôi chia tay Anna về lại khách sạn. Bước dọc bờ sông, tôi nhớ lại một ngày đầy ắp những câu chuyện về lịch sử của Krakow. Bên dòng Vistula lấp loáng nắng chiều, lũ trẻ đang háo hức xem một chú rồng sắt phun lửa, một thần thoại nữa của Krakow.

“Có quá nhiều câu chuyện để kể ở thành phố này. Đó là điều khi đi xa tôi thấy nhớ nhiều nhất”, Anna đã nói như thế về thành phố quê hương mình. Còn tôi, tôi sẽ nhớ gì khi rời thành phố này? Phải chăng tôi sẽ nhớ lâu đài thành quách, nhớ thánh đường nguy nga, nhớ người chủ nhà máy Schindler và câu nói nổi tiếng của ông: “Khi bạn cứu một người là cứu cả thế giới”? Có lẽ tôi sẽ nhớ tất cả những điều ấy. Nhưng trên hết, có lẽ tôi phải cảm ơn Krakow vì ở đây tôi đã tìm lại niềm đam mê đi và trải nghiệm, đam mê được nghe những câu chuyện của các thành phố và thấy rằng cuộc sống này chẳng phải đẹp lắm sao?