← Quay lại trang sách

Mùi Mỹ ở Manila

Tôi bước chân lên máy bay cho một chuyến đi mới khi còn chưa dứt cơn sốt cuối mùa đông giá lạnh. Ấy thế mà vừa tới thành phố nước bạn, thay đổi nhiệt độ, thay đổi múi giờ, trời xanh nắng vàng, hít một hơi khí lạ xứ người, tự nhiên tôi tỉnh táo hẳn. Tôi cứ hay đùa với bạn bè rằng trong các chuyến đi, tôi có thể sống bằng khí trời phương xa là vì thế.

Tôi đã từng nói nhiều về cái mùi của một thành phố lạ.

Lần đầu tiên đến Copenhaghen, tôi thấy không khí có vị ngọt. Hương táo tháng Mười dìu dịu khiến tôi hít hà mãi để rồi mùi hương ấy bám lấy tôi như vị nước hoa sau gáy người mình yêu, cứ thỉnh thoảng lại muốn mở cái hộp ký ức ra mà ngửi, mà nhung nhớ. Sau này, có dịp trở lại Copenhaghen nhiều lần, lúc nào tôi cũng có cảm giác bắt gặp lại hương táo thoang thoảng thanh bình ấy, dù trên con đường liễu rủ mùa xuân hay những ngày thu ngập ngừng trên vịnh.

Sao Paulo, với tôi, lại có một mùi khác. Khi chui lên mặt đường từ một chuyến tàu điện ngầm ngột ngạt lúc năm giờ chiều, tôi có cảm giác như bị cái mùi của một siêu thành phố “đánh” cho một cái. Choáng váng. Khắp nơi đặc quánh mùi oi oi của hơi người, mùi nồng nặc xăng xe của hàng triệu ô tô, mùi nước hoa của vài ba quý cô sành điệu, mùi nước tiểu khắm khú của những người vô gia cư khốn khổ nằm cuộn tròn trong những thùng carton và ổ chăn rách dưới chân tòa nhà hình chữ S của Oscar Nieymer.

À, nhưng tôi không định viết về Copenhaghen hay về Sao Paulo trong bài này. Tôi muốn viết về một thành phố khác. Một thành phố châu Á.

Tôi đang ở Manila.

Manila có mùi gì? Hình như là mùi nắng. Sau những ngày ẩm dột và khê nồm của Hà Nội, thì cái nắng mùa đông mơn man của Manila thật sự là quyến rũ.

Nhưng Manila còn một mùi khác nữa. Mùi Mỹ! Hình như người Mỹ tới Manila từ những năm cuối thế kỷ XIX và chưa bao giờ rời khỏi thành phố này, khiến cho Manila trở thành thành phố Mỹ hóa nhất ở châu Á mà tôi từng biết.

Nếu như người Pháp đã kiến tạo Hà Nội như một thành phố có thể đi bộ - “walkable city” thì người Mỹ biến Manila thành một phiên bản của các thành phố lớn ở Mỹ - một giao lộ khổng lồ của xe hơi, xe jeep, xe điện… Ngoại trừ khu cổ thành Intramuros do người Tây Ban Nha xây dựng từ thế kỷ XVI, các khu vực khác của Greater Manila như Quezon, Ortigas, Makhati… đều không thân thiện với khách bộ hành. Những đại lộ ngập tràn xe hơi, những tòa nhà cao tầng mỏi mắt dễ khiến người ta có cảm giác cô đơn hơn là thân thiện ở thành phố này. Bắt chước người địa phương, tôi cũng chọn leo lên một chiếc xe jeeps làm một vòng quanh thành phố. Những chiếc xe jeeps được trang trí graffiti sặc sỡ sắc màu là một trong những hình ảnh biểu tượng của Manila mà hầu như không quốc gia nào trên thế giới có. Giữa những tiếng người nói ồn ào, giữa những mệt mỏi của buổi chiều đông đúc, tôi lặng ngắm những khu phố muôn màu của Manila. Những công trình kiến trúc đa dạng với những ảnh hưởng rõ rệt từ kiến trúc Malaysia, Tây Ban Nha, Mỹ; bên cạnh đó là sự lộn xộn trong quy hoạch, sự phân tầng giàu nghèo rõ rệt, nạn kẹt xe, mùi ô nhiễm…

Nơi tôi cảm nhận mùi Mỹ rõ hơn cả ở Manila có lẽ là trong các khu trung tâm thương mại. Khắp nơi ở Greater Manila, những khu trung tâm thương mại mang đặc phong cách Mỹ mọc lên nhiều như nấm, trong đó Mall of Asia được xếp vào hàng những trung tâm thương mại lớn nhất thế giới. Dễ hiểu vì sao, Jude, anh bạn địa phương của tôi khi giới thiệu về Manila nói rằng mall- hopping là môn thể thao được yêu thích nhất của giới trẻ ở đây và gợi ý tôi có thể vào các khu thương mại để du lịch vì đó là nơi tốt nhất để ngắm nghía cuộc sống điển hình của người dân Manila.

Trong các khu thương mại, ngoài hệ thống các cửa hàng thời trang, nhà hàng ẩm thực là không gian cho các tín đồ fastfoods: KFC, McDonald, Burger King… Phillipines có 7.000 hòn đảo, trong số đó khoảng 2.000 hòn đảo có dân cư sinh sống, mỗi đảo đều có vô vàn sản vật địa phương phong phú. Nhưng dường như chính văn hóa ẩm thực đơn điệu mà các khu thương mại này tạo ra đã khiến người dân nơi đây đánh mất sự trân trọng đối với ẩm thực dân tộc. Có lẽ vì thế mà tôi cảm thấy may mắn khi Hà Nội của tôi còn giữ được những khu chợ truyền thống đặc sắc.

Thế nhưng dù khắt khe tới mấy, tôi cũng phải công nhận rằng quá trình Mỹ hóa đã đem lại cho người dân Phillipines những thuận lợi rõ ràng.

Nếu nói về hàng hóa, có thể thấy những siêu thị ở Manila đầy ắp sản phẩm không thua kém bất kỳ một siêu thị nào của Mỹ, hay châu Âu, từ lọ pesto xanh cho vào mì Ý cho tới muôn vàn loại ngũ cốc ăn sáng của Kellogs. Về ngôn ngữ, tiếng Anh được sử dụng phổ biến ở đây tới mức bất kỳ một người dân bình thường nào cũng có thể dùng ngôn ngữ toàn cầu này một cách thành thạo. Trên tivi, tiếng Anh được dùng song hành cùng tiếng địa phương Talalog khiến cho một kẻ ngoại quốc như tôi cũng cảm giác có thể hòa nhập vào cuộc sống ở Manila một cách thật dễ dàng.

Có một điểm tôi thích hơn cả ở Manila là những người dân mà tôi gặp đều giữ được sự nồng hậu và hiếu khách đáng quý của người châu Á. Những bạn nhiệt tình đi cùng tôi đến mọi ngõ ngách của thành phố, mời tôi tham gia những bữa trưa, bữa tối kéo dài hàng tiếng đồng hồ để chủ và khách có thể thoải mái trò chuyện. Toàn cầu hóa có thể dẫn tới sự đồng nhất về văn hóa (cultural homonisation) trên khắp địa cầu; vì thế tôi thấy vui vui vì những người bạn Phil mà tôi đã gặp dù ăn chơi kiểu Mỹ nhưng vẫn giữ được tính cách Phil rõ rệt.

Buổi chiều cuối cùng trước khi rời thành phố, tôi đi dạo một mình dọc theo đường bờ biển Baywalk, ngắm hoàng hôn màu đỏ buông xuống trên vịnh Manila. Suốt con đường dài hai cây số, từng nhóm bạn trẻ ngồi trò chuyện râm ran. Ngoài kia, xe cộ vẫn đi lại tấp nập. Khi chiều dần buông, Manila hiện ra hình ảnh của một thành phố vươn trào sức sống. Torben Johanson - một đồng nghiệp cũ của tôi đã chuyển từ thành phố quê hương xa xôi Aarhus, Đan Mạch đến sống ở Manila cũng vì anh muốn đi tìm một cuộc sống tràn đầy năng lượng như thế. Anh thường bảo: “Ở Aarhus, 7 giờ tối đã thấy đường phố rất vắng vẻ, 12 giờ đêm muốn ăn khuya chút gì cũng không có, mùa đông có khi trầm cảm vì thời tiết. Ở Manila thì ngược lại. Lúc nào cũng hối hả, đông đúc và bận rộn. Tôi chọn sống ở Manila để có cảm giác rằng mình còn trẻ”. Tôi hiểu rằng những tiếng rộn ràng trên đường phố Manila là thứ mà rất nhiều người bạn châu Âu của tôi, cũng như Torben, thường tìm kiếm ở các thành phố châu Á.

Đã sống lâu ở những thành phố lạnh giá và yên tĩnh, khi đến Manila tôi có cảm giác như đang về nhà. Gạt đi cái vẻ ngoài Mỹ hóa, Manila khiến tôi nhớ tới những âm thanh náo nhiệt trên đường phố Hà Nội, Sài Gòn. Và trong phút chốc tôi thấy mình hòa cùng dòng người tấp nập trên Baywalk, nhấm nháp những ly chè kem halo-halo mát lịm. Những làn gió thổi từ ngoài biển vào mơn trớn và lòng tôi ngập tràn cảm giác hạnh phúc giản dị.