Chương 2
Đứng ngoài ga Oakbridge lúc này là một nhóm người có vẻ phân vân giây lát. Phía sau họ là người khuân vác đồ với đống hành lý. Một trong số đó gọi: “Jim!”
Một người lái xe tắc-xi bước đến.
“Mọi người đến Đảo Chiến Binh phải không ạ?” Anh ta hỏi với giọng Devon nhè nhẹ. Có bốn giọng trả lời - và gần như ngay lập tức họ quay ra nhìn nhau vẻ giấu giếm.
Người lái xe trả lời, quay sang ngài thẩm phán Wargrave vì ông là một người cao tuổi trong nhóm: “Ở đây có hai chiếc xe, thưa ông. Một chiếc lại phải đợi chuyến tàu chậm từ ga Exeter - chỉ năm phút thôi - vì có một quý ông đang trên chuyến đó. Có lẽ một người trong số các vị không thấy phiền nếu phải đợi chứ? Như thế mọi người sẽ được thoải mái hơn.”
Vera Claythorne, với ý thức rõ ràng về vị trí thư ký của mình, cất tiếng ngay.
“Tôi sẽ đợi,” cô cho biết, “nếu mọi người đều muốn đi ngay?” Cô nhìn ba người còn lại, cái nhìn và giọng nói của cô có chút gì đó như ra lệnh do cô đã quen lối ra oai trong nghề của mình. Có thể cô đã từng chỉ đạo cho lũ trẻ được chơi séc quần vợt nào trong trường.
Cụ Brent nói một cách cứng nhắc: “Cảm ơn cô,” rồi khom người vào một chiếc tắc-xi mà cửa đã được người lái xe mở sẵn. Thẩm phán Wargrave theo sau cụ.
Đại úy Lombard bèn nói: “Tôi sẽ ở lại đợi với quý cô…”
“Claythorne,” Vera đáp lời.
“Tên tôi là Lombard, Philip Lombard.”
Mấy người khuân đồ lúc này đang xếp hành lý vào xe tắc-xi. Bên trong, ông thẩm phán Wargrave nói với vẻ thận trọng pháp lý đúng mực.
“Thời tiết thật là đẹp làm sao.”
Cụ Brent đáp lời: “Đúng là đẹp thật.”
Một quý ông thật nổi bật, cụ nghĩ. Hoàn toàn khác với những loại người thường thấy ở những nhà nghỉ gần biển. Rõ ràng là bà hay cô Oliver gì đó có những mối quan hệ khá tốt. Ông thẩm phán Wargrave hỏi: “Bà có biết nhiều về nơi này không?”
“Tôi đã từng đến Cornwall và Torquay, nhưng đây là lần đầu tiên tôi đặt chân tới Devon.”
Ông thẩm phán nói: “Tôi cũng chưa biết nhiều về nơi này cho lắm.”
Chiếc tắc-xi bắt đầu lăn bánh.
Người lái chiếc xe tắc-xi thứ hai liền hỏi: “Cô có muốn ngồi đợi ở phía trong không?”
Vera đáp một cách dứt khoát: “Không hề.”
Đại úy Lombard mỉm cười. Anh nói: “Chỗ bức tường đầy nắng kia nhìn hấp dẫn hơn. Trừ khi cô muốn vào trong trạm ga?”
“Không, thực tình. Tôi thấy rất vui vì thoát được khỏi chiếc tàu chật chội đó.”
Anh trả lời: “Đúng là đi bằng tàu hỏa trong thời tiết như thế này hơi khó chịu thật.”
Vera đáp kiểu mẫu mực: “Tôi hy vọng nó được lâu, ý tôi là thời tiết ấy. Cái nắng của nước Anh thật là không thể tin được.”
Lombard liền hỏi một câu không được độc đáo cho lắm: “Cô từng đến đây chưa?”
“Chưa, tôi chưa bao giờ tới đây.” Cô mau lẹ nói thêm, với chủ đích làm rõ vị trí của mình ngay từ đầu. “Tôi thậm chí còn chưa được gặp bà chủ của mình.”
“Bà chủ của cô ư?”
“Đúng vậy, tôi là thư ký riêng của bà Owen.”
“Ồ, tôi hiểu rồi.” Điệu bộ của anh liền có chút thay đổi. Giọng anh trở nên thêm chắc chắn - và cởi mở hơn. Anh nói: “Thế có lạ không?”
Vera cười.
“Ồ, không, tôi không nghĩ vậy. Vì cô thư ký trước của bà ấy đột nhiên bị ốm và phải nhờ đến một công ty môi giới để tìm người thay thế và họ đã cử tôi.”
“Ra là vậy. Lỡ đến mà cô không thích công việc đó thì sao?”
Vera lại cười.
“À, đó chỉ là công việc tạm thời thôi - một công việc trong kỳ nghỉ. Tôi có việc ổn định ở một trường dành cho các bé gái. Thực ra thì, tôi cũng khá hồi hộp khi đến Đảo Chiến Binh này. Có quá nhiều tin trên báo mà. Chẳng phải hòn đảo đó rất thú vị sao?”
Lombard đáp: “Tôi cũng không rõ. Tôi chưa tới đó bao giờ.”
“Ồ, thật thế sao? Nhà Owen hẳn rất quan tâm tới nó, tôi nghĩ vậy. Họ như thế nào? Hãy kể tôi nghe đi.”
Lombard nghĩ: Quái lạ, thế này - đúng ra thì mình đã phải gặp họ rồi chứ nhỉ, hay sao? Anh đáp nhanh: “Có một con vò vẽ đang bò trên tay cô kìa. Không - cứ giữ yên như thế.” Đoạn anh vờ ngập ngừng như thể đúng thế thật. “Được rồi. Nó bay đi rồi!”
“Ôi, cảm ơn anh. Hè này có nhiều ong quá.”
“Vâng, tôi cho là do cái nóng. Mà chúng ta đang đợi ai nhỉ, cô biết không?”
“Tôi không biết chút gì cả.”
Một tiếng còi hụ ầm ĩ vang lên từ chiếc xe lửa đang tiến đến. Lombard nói: “Tàu hỏa đến rồi kìa.”
Một người đàn ông cao ráo ra dáng lính xuất hiện chỗ cánh cửa nhà ga. Mái tóc bạc của ông được miết xẹp xuống và ông ta có một hàng ria trắng cắt tỉa gọn gàng.
Người mang hành lý cho ông, có vẻ loạng choạng dưới sức nặng của chiếc va-li da nặng trịch, hướng về phía Vera và Lombard.
Vera bước tới với vẻ đáng tin cậy. Cô lên tiếng: “Tôi là thư ký của bà Owen. Đang có một chiếc xe đợi chúng ta rồi.” Cô nói thêm, “Còn đây là anh Lombard.”
Đôi mắt người đàn ông sở hữu thứ màu xanh biển nhạt, sắc bén mặc cho vết thời gian để lại, nhìn Lombard ước chừng. Trong vài giây, một vẻ phán xét hiện rõ - nếu có ai đó nhận ra được.
“Nhìn khá điển trai. Nhưng có gì đó không ổn…”
Ba người liền bước lên chiếc xe tắc-xi đợi sẵn. Chiếc xe đi qua con phố nhỏ yên ắng của Oakbridge và đi tiếp khoảng một dặm trên đường cái Plymouth, rồi lao vào một mê cung của những con đường ngoằn ngoèo, dốc, xanh rờn và hẹp. Tướng Macarthur mở lời: “Tôi không hề biết gì về Devon cả. Tôi ở bên đông Devon - giáp ngay với Dorset ấy.”
Vera nhìn nhận: “Chỗ này thật là đẹp. Những ngọn đồi với đất đỏ và tất cả mọi thứ đều xanh, nhìn lại màu mỡ nữa.”
Philip Lombard nhận xét: “Chỉ có điều nó hơi cô lập… Tôi thích một nơi hướng ngoại hơn. Thế thì mới biết được mọi thứ diễn ra xung quanh…”
Tướng Macarthur nói với anh: “Chắc cậu cũng có đi vài nơi trên thế giới rồi chứ?”
Lombard nhún vai khiêm nhường: “Cũng từng đi chỗ này chỗ khác, thưa ông.”
Anh nghĩ thầm: “Thể nào ông ta cũng hỏi xem mình có đủ tuổi đi lính hồi trước không cho mà xem. Mấy ông lính già toàn thế cả.”
Nhưng tướng Macarthur không hề đả động đến cuộc chiến.
Xe đi lên một quả đồi dốc rồi xuống theo lối dích dắc đến Sticklehaven - chỉ có mỗi vài ngôi lán nhỏ với một hay hai chiếc thuyền đánh cá nhỏ phơi mình trên bãi biển.
Nhờ ánh sáng hoàng hôn chiếu rọi, lần đầu tiên họ thấy Đảo Chiến Binh nổi lên giữa biển hướng nam.
Vera thốt lên với vẻ ngạc nhiên: “Ôi, còn xa lắm.”
Cô đã hình dung hòn đảo khác hoàn toàn, gần với bờ, với chiếc vương miện là một ngôi nhà trắng xinh đẹp. Nhưng từ đây không thể thấy một ngôi nhà nào, chỉ rõ bóng của mấy tảng đá nom na ná như một cái đầu khổng lồ. Ở nó toát lên một vẻ gì đó hiểm trở. Cô khẽ rùng mình.
Bên ngoài nhà khách nhỏ Bảy Sao là ba người đang ngồi. Bóng lưng gù gù của ông thẩm phán, dáng thẳng thớm của cụ Brent, và một người thứ ba - một người đàn ông to lớn thô kệch bước tới và tự giới thiệu: “Chúng tôi nghĩ là nên đợi các vị,” ông ta nói. “Đi liền một lúc cho tiện. Xin tự giới thiệu. Tên tôi là Davis. Nơi sinh ư, nơi chôn rau cắt rốn của tôi là Nam Phi, ha ha!”
Lão bật cười sảng khoái.
Ông thẩm phán Wargrave nhìn lão với ánh mắt lộ rõ sự ác cảm. Nhìn ông như thể đang muốn yêu cầu cả tòa án phải giải tán vậy. Cụ Emily Brent thì không chắc liệu mình có thích mấy dân thuộc địa hay không.
“Có ai muốn làm một nhấp trước khi nhổ neo không?” lão Davis hỏi một cách hiếu khách.
Không ai hưởng ứng lời đề nghị này, nên lão Davis quay ra và giơ ngón tay nói.
“Thế thì không nên chậm trễ nữa. Ông chủ và bà chủ tốt bụng của chúng ta đang chờ.” Lão giục.
Dường như lão Davis đã nhận ra sự kìm nén kỳ lạ bao trùm lên đoàn khách. Như thể việc nhắc tới ông bà chủ nhà làm mọi người tê liệt vậy.
Đáp lại cái giơ tay ra hiệu của lão Davis, một người đàn ông vốn đang dựa lưng vào một bức tường gần đó liền rời chỗ của mình và tiến đến phía họ. Dáng đi lắc lư của ông như tuyên bố rằng ông là một người chuyên đi biển. Khuôn mặt ông ta dãi dầu mưa nắng với đôi mắt đen như đang cố giấu điều gì. Ông ta cất lên chất giọng nhẹ nhàng của xứ Devon.
“Quý bà và quý ông đã sẵn sàng ra đảo chưa ạ? Thuyền đang đợi rồi. Còn có hai quý ông nữa đang trên đường tới đây bằng xe hơi nhưng ngài Owen đã bảo tôi không cần phải đợi họ, vì họ có thể sẽ đến bất cứ lúc nào.”
Đoàn khách lên thuyền. Người hướng dẫn chỉ cho họ qua một cái cầu tàu nhỏ bằng đá. Nằm bên cạnh nó là một chiếc thuyền máy.
Cụ Emily Brent nhìn nhận: “Chiếc thuyền này nhỏ quá.”
Người chủ chiếc thuyền trả lời đầy thuyết phục: “Con thuyền này rất tốt đó, thưa quý bà. Bà còn có thể đi nó đến Plymouth chỉ trong chớp mắt.”
Ông thẩm phán Wargrave nói sắc lẻm: “Chúng tôi khá đông người mà.”
“Nó còn chở được gấp đôi thế này nữa, thưa ông.”
Philip Lombard nói với giọng xoa dịu dễ dãi: “Cũng ổn mà. Thời tiết quá tốt rồi - không có sóng biển.”
Với vẻ hơi nghi ngờ, cụ Brent để người khác giúp mình lên thuyền. Những người còn lại thì theo sau. Không khí đoàn khách như vẫn có chút dè chừng. Như thể mỗi người trong số họ đều bị lúng túng trước những người còn lại.
Mọi người vừa chuẩn bị khởi hành thì người hướng dẫn đột ngột dừng lại, với chiếc neo thuyền trong tay.
Cuối con dốc dẫn vào làng có một chiếc xe đang đi tới. Một chiếc xe mạnh mẽ, tuyệt đẹp tới độ sự xuất hiện của nó không khác nào một bóng ma. Ngồi sau vô-lăng là một người đàn ông trẻ, mái tóc nâu hất ngược vì gió. Trong ánh chiều anh ta giống hệt một vị thần trẻ, chứ không còn là một người đàn ông nữa, một vị thần anh hùng nào đó bước ra từ thần thoại phương Bắc.
Anh ta nhấn còi và một tiếng kêu vang dội vọng lại từ những phiến đá trên vịnh.
Đó là một giây phút phi thường. Trong giây lát ấy, Anthony Marston có vẻ như bất tử. Kể từ đó có tới hơn một người trong đoàn khách nhớ tới khoảnh khắc ấy.
Fred Narracott ngồi bên động cơ mà nghĩ về đoàn khách kỳ cục này.
Chẳng hề giống như ông tưởng tượng về đám khách khứa của nhà Owen chút nào. Ông đã mong đợi một đoàn khách toàn những người sang trọng. Những quý bà váy áo là lượt và những quý ông trong bộ trang phục du thuyền với vẻ giàu có và quan trọng.
Chẳng bù cho đám khách của ông Elmer Robson. Một nụ cười mờ nhạt hiện trên miệng Fred Narracott khi ông nhớ đến đám khách của tay triệu phú nọ. Đó mới gọi là tiệc tùng - và cả những loại rượu mà họ đã dùng nữa chứ!
Cái ông Owen này hẳn phải là một quý ông khác thường. Thật buồn cười làm sao, Fred nghĩ, khi chưa một lần ông được thấy ông Owen - hay bà vợ của ông ta nữa. Chưa bao giờ ông ta đặt chân xuống đây cả. Tất cả mọi yêu cầu hay việc tiền nong đều do ông Morris lo toàn bộ. Lệnh bao giờ cũng rất rõ ràng và việc chi trả thì luôn mau lẹ, nhưng vẫn kỳ lạ thế cả thôi. Mấy bài báo có viết một chuyện gì đó bí ẩn về ông Owen. Ông Narracott cũng thấy như thế.
Hay có khi cuối cùng lại là cô Gabrielle Turl mua đảo nhỉ. Nhưng giả thuyết đó của ông bị gạt đi khi ông thăm dò đoàn khách. Không phải mấy người này rồi - chẳng ai trong số này có vẻ liên quan tới một ngôi sao điện ảnh cả.
Ông rút ra kết luận một cách khách quan.
Một bà cô già - thuộc dạng khó tính - ông cũng thừa biết kiểu người này. Ông dám cá là bà ta luôn ra lệnh này nọ. Ông lính già kia - có vẻ đúng thực là lính. Cô gái nom ưa nhìn - nhưng chỉ tầm tầm, chứ không phải loại rạng rỡ - chẳng có vẻ gì là Hollywood về cô ta cả. Còn người đàn ông thô kệch xởi lởi kia - ông ta không phải là một quý ông thực thụ. Một thương nhân đã nghỉ hưu, thế mới đúng, Fred Narracott nghĩ. Quý ông còn lại, nom gầy đói với đôi mắt nhanh nhạy, là một người trông lạ lùng, đúng thế. Cũng có khi anh ta lại liên quan tới mấy tấm ảnh đó.
Không, chỉ có mỗi một người có vẻ thỏa mãn trên con thuyền. Người đàn ông cuối cùng, người đã tới bằng chiếc xe hơi (xe gì thế chứ! Loại xe đó trước nay chưa ai thấy ở Sticklehaven cả. Chắc một chiếc như thế phải tốn bộn tiền). Anh ta mới hợp với chốn này. Loại đẻ ra đã có tiền. Nếu đám khách khứa toàn những người như vậy… thì ông còn hiểu được…
Chuyện này nghĩ đi nghĩ lại đều thấy lạ - tất cả mọi việc đều kỳ lạ - rất kỳ lạ…
Con thuyền chòng chành gần đá. Cuối cùng thì ngôi nhà cũng đã lọt vào tầm nhìn. Phía nam hòn đảo lại khác biệt hoàn toàn. Sườn dốc phía đó thoai thoải trải nhẹ đến biển. Căn nhà quay về hướng nam - thấp và vuông vắn nom hiện đại với những ô cửa sổ tròn cho ánh sáng ùa vào.
Một ngôi nhà thú vị - một ngôi nhà đúng như đã mong đợi!
Fred Narracott tắt động cơ, mũi thuyền chĩa nhẹ vào khoảng bến giữa hai tảng đá.
Philip Lombard sắc sảo nói: “Hẳn cập bến sẽ rất khó nếu thời tiết xấu.”
Fred Narracott nói vui vẻ: “Không lên được Đảo Chiến Binh nếu có gió hướng nam đâu. Đôi khi nó bị cô lập phải đến một tuần hoặc hơn.”
Vera Claythorne nghĩ: “Đồ ăn thức uống chắc sẽ khó khăn. Đấy là thứ tệ nhất ở một hòn đảo. Tất cả mọi vấn đề trong nhà đều đáng lo nghĩ cả.”
Con thuyền kêu kèn kẹt khi va phải đá. Fred Narracott nhảy khỏi thuyền rồi cùng Lombard giúp mọi người lên bờ. Narracott buộc thuyền vào mỏm đá. Rồi ông dẫn đường lên những bậc thang tạc từ đá.
Tướng Macarthur thốt lên: “A! Chỗ này hay thật!”
Nhưng ông không có thấy dễ chịu mấy. Cái chỗ kỳ cục chết tiệt.
Khi đoàn khách đã lên bậc thang và tới hiên nhà ở trên, tinh thần của họ phấn chấn hẳn. Nơi cánh cửa mở dẫn vào nhà là một người quản gia thực thụ đang chờ, vẻ nghiêm trang của ông ta như trấn an mọi người. Và rồi chính ngôi nhà lại trở nên thật thu hút, khung cảnh nhìn từ mái hiên trở nên thật kỳ vĩ…
Người quản gia tiến tới khẽ nghiêng người chào. Ông ta là một người cao ráo, mảnh khảnh, mái tóc màu xám và nom đáng kính, ông ta lên tiếng: “Mời quý khách đi đường này.”
Trong sảnh lớn, đồ uống đã được dọn sẵn đâu vào đấy. Hàng hàng những chai. Tinh thần của Anthony Marston được khích lệ thêm một chút. Anh ta vừa mới nghĩ là vụ này có vẻ kỳ dị. Chẳng có ai anh quen cả! Chẳng hiểu lão Badger nghĩ ngợi thế nào mà để cho anh gia nhập vào cái đám này? Dù vậy, rượu có vẻ tạm ổn. Lại còn có nhiều đá nữa.
Mà lão quản gia kia đang nói gì vậy nhỉ?
Ông Owen - chẳng may bị trễ - nên không thể đến đây trước ngày mai. Lời chỉ dẫn - tất cả mọi thứ họ muốn - nếu mọi người muốn về phòng riêng của mình?… Bữa tối sẽ bắt đầu lúc tám giờ…
Vera theo bà Rogers lên gác. Bà mở sẵn một cánh cửa phía cuối hành lang và Vera bước vào căn phòng ngủ trông vui mắt, khung cửa sổ to mở rộng ra hướng biển và một khung cửa khác nhìn ra hướng đông. Cô thốt lên hài lòng.
Bà Rogers hỏi han: “Tôi mong là đã có đủ các thứ cô cần rồi chứ?”
Vera nhìn quanh. Hành lý của cô đã được mang lên và dỡ ra. Một bên là cánh cửa dẫn vào phòng tắm với gạch lát màu xanh dương nhạt.
Cô trả lời vắn tắt: “Vâng, tôi nghĩ là đủ rồi.”
“Cô chỉ cần rung chuông nếu cần bất cứ thứ gì.”
Bà Rogers có một chất giọng đơn điệu đều đều. Vera nhìn bà, không tránh được cảm giác tò mò. Trông bà ấy trắng bệch như ma vậy! Nom rất đứng đắn, với mái tóc hất ra sau gương mặt và chiếc váy đen. Đôi mắt kỳ lạ luôn đảo từ chỗ này sang chỗ khác.
Vera nghĩ bụng: “Bà ấy như thể đang sợ chính cái bóng của mình vậy.”
Đúng thế rồi - sợ hãi!
Bà ta trông như một người phụ nữ luôn phải chịu nỗi sợ hãi cái chết…
Một cơn rùng mình chạy dọc theo sống lưng của Vera. Bà ta sợ điều gì mới được cơ chứ?
Cô cất giọng một cách thoải mái: “Tôi là thư ký mới của bà Owen. Chắc bà cũng đã biết.”
Bà Rogers đáp lời: “Không, thưa cô, tôi không biết gì hết. Chỉ có danh sách một loạt các quý bà quý ông và những ai ở phòng nào thôi.”
Vera tỏ ra thắc mắc: “Bà Owen không nhắc tới tôi ư?”
Hàng mi bà Rogers chớp chớp.
“Tôi chưa được gặp bà Owen - cho tới giờ. Chúng tôi mới tới từ hai ngày trước.”
Những con người bất thường, cái nhà Owen này, Vera thầm nhủ. Rồi cô nói to: “Vậy có những ai làm việc ở đây?”
“Chỉ có tôi và ông Rogers thôi, thưa cô.”
Vera nhíu mày. Tám người trong nhà - mười người nếu tính cả ông bà chủ - và chỉ có một cặp vợ chồng làm mọi việc cho họ.
Bà Rogers giải thích thêm: “Tôi giỏi việc bếp núc và Rogers thì thạo việc nhà. Tất nhiên là tôi cũng không ngờ lại có nhiều người tới đây như vậy.”
Vera hỏi tới: “Liệu ông bà có lo xuể không?”
“Ồ có chứ, thưa cô, tôi lo được. Nếu nhiều khách đến thường xuyên thì có lẽ bà Owen cũng giúp một tay.”
Vera đáp: “Tôi cũng đoán vậy.”
Bà Rogers quay trở ra. Đôi chân bước trên sàn không một tiếng động. Bà lướt ra khỏi căn phòng như một cái bóng.
Vera đến bên cửa sổ và ngồi lên bậu cửa. Cô hơi băn khoăn. Tất cả mọi thứ - dường như - đều có vẻ kỳ cục. Sự vắng mặt của ông bà Owen, bà Rogers tái nhợt như ma. Và đám khách nữa! Đúng thế, đám khách cũng kỳ cục nốt. Một tập hợp toàn những người kỳ lạ.
Vera nghĩ: “Phải chi mình được gặp nhà Owen từ trước… Giá mình biết họ là người thế nào.”
Cô đứng dậy và đi đi lại lại quanh căn phòng.
Căn phòng ngủ hoàn hảo được trang trí kỹ lưỡng theo kiểu hiện đại. Tấm thảm màu trắng nhờ trải trên sàn gỗ sáng bóng, những bức tường màu nhạt, một tấm gương dài với các bóng đèn bao quanh. Cái kệ gỗ trên lò sưởi chẳng có đồ trang trí nào trừ một khối cẩm thạch đồ sộ có hình hài của một con gấu, một bức tượng tân thời với một chiếc đồng hồ được khắc ở trong. Trên đó, trong khung ảnh bằng crôm sáng loáng, là một tấm vải da to vuông vức - một bài thơ.
Mười tên lính nhỏ đi ăn;
Một tên chết nghẹn
giờ còn chín tên.
Chín tên thức muộn trong đêm;
Một quên không dậy
tám tên ngậm ngùi.
Devon du thuyền chúng chơi;
Một tên nằm lại
bảy thời ra đi.
Bảy tên bổ củi làm chi;
Bổ đôi một đứa
sáu tên muộn phiền.
Sáu đem tổ ong ra nghiền;
Một ong đốt chết
còn năm sững sờ.
Đến tòa năm đứa kia chờ;
Một vào Thượng thẩm,
bốn ra biển ngồi
Bốn tên cùng ra biển trời
Trích đỏ nuốt một
giờ còn lại ba
Vườn thú ba đứa la cà;
Gấu to vồ một,
còn hai vẹn toàn.
Hai tên đi dưới nắng vàng;
Một khô cong chết
một tên bơ phờ.
Còn tên lính nhỏ thẫn thờ
Hắn đi treo cổ
mình lên trần nhà
Và rồi chẳng còn một ai.
Vera cười. Tất nhiên rồi! Đây là Đảo Chiến Binh mà!
Cô lại đến bên cửa sổ ngồi ngắm nhìn cảnh biển.
Biển mới rộng lớn làm sao! Từ đây cô không thể thấy được đất liền ở đâu cả - chỉ có mênh mông là nước biển xanh thẫm gợn sóng dưới ánh hoàng hôn.
Biển… Hôm nay thật hiền hòa - đôi khi lại thật dữ tợn… Biển có thể lôi tuột người ta xuống đáy của nó. Chìm nghỉm… Khi tìm thấy thì đã chết đuối… chết đuối ngoài khơi… Chết đuối - chết - đuối…
Không, cô sẽ không nhớ tới nữa… cô sẽ không nghĩ tới chuyện đó nữa!
Tất cả mọi chuyện đều đã qua…
Bác sĩ Armstrong tới được Đảo Chiến Binh ngay khi mặt trời vừa bị nuốt chửng xuống lòng biển. Trong lúc đi, ông có chuyện trò với người coi thuyền - một người dân địa phương. Ông sốt sắng muốn được biết đôi chút về chủ nhân của Đảo Chiến Binh, thế nhưng cái ông Narracott nọ lại có vẻ như thiếu thông tin một cách lạ lùng, hoặc có thể ông ta không muốn hé lộ điều gì.
Vì thế bác sĩ Armstrong đành nói chuyện phiếm về thời tiết và tình hình đánh cá.
Ông khá mệt mỏi sau cuộc hành trình dài. Mắt ông đau. Khi lái xe về hướng tây tức là người ta đang hướng thẳng về phía mặt trời chiếu.
Đúng vậy, ông đang rất mệt. Biển và sự yên bình hoàn hảo của nó - chính là thứ ông cần. Ông đang rất muốn có được kỳ nghỉ thật dài. Tất nhiên là ông thừa sức chi trả cho việc đó, nhưng không thể bỏ dở công việc như vậy. Người ta sẽ sớm bị lãng quên trong thời buổi này. Không, khi ông đã đến đây rồi thì chỉ có đường làm việc không ngơi nghỉ mà thôi.
Ông nghĩ: “Đằng nào cũng vậy, tối nay mình sẽ cố tưởng tượng là không phải quay lại - rằng mình đã thoát hẳn London, phố Harley và tất cả mọi thứ ở đó.”
Có một điều gì đó kỳ diệu nơi hòn đảo - chỉ từ đó thôi đã đủ gợi nên bao viễn cảnh. Người ta sẽ quên đi cái thế giới bên ngoài - chỉ riêng hòn đảo thôi đã là cả một thế giới riêng rồi. Có lẽ là một thế giới mà người ta sẽ không bao giờ rời khỏi đó để trở về.
Ông lại nghĩ: “Ta đang rời bỏ cuộc sống tầm thường phía sau.”
Và, cười một mình, ông bắt đầu vạch ra các kế hoạch, những kế hoạch hay ho cho tương lai. Ông vẫn tiếp tục mỉm cười trong lúc leo lên những bậc đá.
Trong chiếc ghế bành trước hiên nhà là một người đàn ông có tuổi đang ngồi và trông ông ta có vẻ gì đó quen thuộc với bác sĩ Armstrong. Ông đã nhìn thấy cái khuôn mặt ếch, cái cổ rùa, cái thái độ kênh kiệu - đúng vậy, và cả cặp mắt nhỏ sắc sảo đó ở đâu rồi nhỉ? Tất nhiên rồi, lão già Wargrave. Ông đã có lần phải làm chứng trước mặt lão. Nhìn lúc nào cũng như nửa thức nửa mê, nhưng luôn sáng suốt mỗi khi dính dáng tới chuyện luật pháp. Có hẳn trong tay mình bồi thẩm đoàn - người ta đồn rằng lão có thể quyết định thay cho họ bất cứ ngày nào trong tuần. Lão từng có được một vài lời tuyên án không ngờ từ phía họ. Thẩm phán treo cổ, vài người gọi như vậy.
Thật buồn cười khi gặp lão… ở đây - cách xa với thế giới.
Ông thẩm phán Wargrave thầm nghĩ: “Armstrong à? Còn nhớ hồi hắn ngồi ghế nhân chứng. Luôn chính xác và cảnh giác. Đám bác sĩ ấy đều là lũ ngốc cả. Hội phố Harley là tệ nhất trong số đó.” Đầu óc ông ngập chìm trong cuộc phỏng vấn gần đây giữa ông và một nhân vật khôn khéo từ chính con phố ấy.
Ông to tiếng càu nhàu: “Đồ uống ở trong sảnh ấy.”
Bác sĩ Armstrong đáp lại: “Tôi phải vào đáp lễ ông bà chủ chứ.”
Ông thẩm phán Wargrave nhắm mắt lại lần nữa, nhìn giống loài bò sát một cách rõ rệt, và nói: “Ông không gặp được đâu.”
Bác sĩ Armstrong hoảng hốt: “Tại sao cơ?”
Ông thẩm phán trả lời: “Không có ông chủ và bà chủ. Mọi chuyện đều rất đáng tò mò. Không hiểu nơi này là kiểu gì nữa.”
Bác sĩ Armstrong nhìn người đối diện chằm chằm trong một phút. Khi ông nghĩ người đàn ông già đã thực sự ngủ rồi thì Wargrave đột ngột cất tiếng: “Ông có biết ai là Constance Culmington không?”
“Ừm - không, tôi nghĩ là không.”
“Cũng không quan trọng lắm,” thẩm phán trầm ngâm. “Đó là một người phụ nữ rất khó hiểu - và nét chữ thì hoàn toàn không thể đọc nổi. Tôi chỉ đang ngờ liệu mình có đến nhầm nhà hay không.”
Bác sĩ Armstrong lắc đầu và tiếp tục đi vào nhà.
Thẩm phán Wargrave ngẫm nghĩ lại về chủ đề Constance Culmington. Bà ta không đáng tin cậy như mọi phụ nữ khác.
Tâm trí ông tiếp tục nghĩ về hai người phụ nữ trong ngôi nhà, bà cụ già với đôi môi mím chặt và cô gái. Ông không quan tâm mấy đến cô gái nọ, loại phụ nữ trẻ lạnh lùng tinh ranh. Không, cả thảy là ba người, nếu tính cả bà Rogers nọ. Một người kỳ lạ, trông bà ta sợ gần chết. Một đôi vợ chồng đứng đắn và hiểu rõ công việc của họ.
Rogers vừa ra hiên nhà ngay phút đó, ông thẩm phán liền hỏi ông ta: “Ông có hay là quý bà Constance Culmington được mời không?”
Rogers nhìn ông không rời mắt.
“Không, thưa ngài, tôi không hề biết.”
Cặp mày ông thẩm phán rướn cao. Nhưng ông chỉ lầm bầm, nghĩ ngợi.
“Đảo Chiến Binh, hửm? Đúng là con sâu làm rầu nồi canh.”
Anthony Marston đang ngồi trong bồn tắm. Anh đang tận hưởng sự xa hoa trong hơi nước nóng. Chân tay anh đau nhức sau chuyến đi dài. Ít khi có ý nghĩ nào lướt qua đầu anh. Anthony là con người của cảm giác phấn khích - và của hành động.
Anh thầm nhủ: “Chắc mình phải trôi theo dòng thôi,” và rồi xua đi tất cả mọi chuyện ra khỏi đầu.
Làn nước ấm nóng - chân tay thì mỏi - chốc nữa cạo râu - rồi cocktail - bữa tối.
Rồi sau đó nữa?
Ông Blore đang thắt cà-vạt. Ông vốn không rành mấy chuyện như thế này lắm.