← Quay lại trang sách

Chương 3

Bữa tối đã gần xong.

Thức ăn khá ngon, rượu thì hoàn hảo. Nhà Rogers đã phục vụ chu đáo.

Mọi người đều lên tinh thần. Họ bắt đầu nói chuyện với nhau một cách cởi mở và thân mật hơn trước.

Ông thẩm phán Wargrave, khi đã mềm lòng bởi loại rượu porto hảo hạng, bắt đầu vui vẻ châm chọc, bác sĩ Armstrong và Tony Marston đang lắng nghe ông nói. Cụ Brent nói chuyện với tướng Macarthur, họ như đã tìm ra được một vài người quen của nhau. Vera Claythorne thì đặt ra những câu hỏi thông minh cho ông Davis về Nam Phi. Ông Davis tỏ ra hoàn toàn trôi chảy về chủ đề này. Lombard dõi theo cuộc trò chuyện. Một đôi lần anh có ngước lên thật nhanh, mắt se lại. Thi thoảng anh lại đưa mắt nhìn quanh bàn ăn, nghiên cứu những người xung quanh.

Anh đang mỉm cười một mình.

Một tuần - hửm?

Anh sẽ tận hưởng tuần sắp tới.

Trong phòng ngủ của mình, Emily Brent diện chiếc váy lụa đen sẵn sàng cho bữa tối, đang đọc quyển Kinh thánh của cụ. Môi cụ mấp máy lần theo từng chữ:

“Những tên ngoại đạo sẽ bị nhấn chìm trong đống đổ nát mà chúng gây nên: trong lưới mà chúng bủa giấu sẽ chính là bàn chân của chúng. Đức Chúa trời được biết tới bởi những bản án mà ngài thi hành: kẻ gian ác sẽ mắc vào chính thứ mà hắn làm ra. Lũ gian tà sẽ bị tống vào hỏa ngục.”

Môi cụ mím chặt. Cụ gập quyển Kinh thánh lại.

Đoạn ngồi dậy, cụ ghim chiếc trâm bảo ngọc vào cổ áo, rồi xuống nhà ăn tối.

Trông ông có ổn không nhỉ? Chắc là được rồi.

Chẳng ai tỏ vẻ thân mật với ông cả… cái cách họ nhìn nhau cũng thật buồn cười - như thể họ biết vậy…

Chà, cũng tại ông cả thôi.

Ông không có ý làm hỏng việc.

Ông ngước nhìn mấy câu vè được đóng khung trên kệ lò sưởi.

Thật thú vị, khi để cái khung ở đó!

Ông ngẫm nghĩ: ‘Còn nhớ hòn đảo này khi mình là một đứa trẻ. Chẳng bao giờ ngờ rằng mình lại đi làm loại công việc này trong một ngôi nhà ở đây. Có lẽ không thấy trước tương lai cũng là một điều tốt.’

Tướng Macarthur thì trầm ngâm một mình.

Thật khốn thay, tất cả mọi thứ đều xui xẻo một cách kỳ cục! Ông chẳng bao giờ nghĩ là mình lại phải chờ đợi thế này…

Thà rằng ông bịa ra cớ gì đó rồi chuồn khỏi nơi đây… quẳng luôn cả phi vụ này…

Thế nhưng chiếc thuyền máy đã về đến đất liền rồi. Ông đành phải ở lại thôi.

Còn tên Lombard kia nữa, trông bất thường thật. Không bình thường. Ông dám thề rằng tên đó không bình thường.

Ngay khi có chuông kêu, Philip Lombard ra khỏi phòng và bước tới cầu thang. Anh di chuyển như một con báo, uyển chuyển và không gây ra một tiếng động. Có điểm gì đó na ná giữa anh và con báo. Một loài thú săn mồi - nom đẹp mắt.

Anthony Marston đột ngột mở lời: “Mấy thứ này thật kỳ quái, đúng không?”

Ở giữa chiếc bàn tròn, trên một chiếc kệ tròn đựng cốc là mấy món đồ gốm sứ.

“Các chiến binh,” Tony nói. “Đảo Chiến Binh. Tôi chắc đó là ý tưởng cho cái này.”

Vera vươn người tới.

“Chắc vậy rồi. Có bao nhiêu chiếc vậy nhỉ? Mười phải không?”

“Vâng - có mười cái.”

Vera thốt lên: “Thật thú vị! Tôi đoán đây chính là mười tên lính nhỏ trong bài vè trẻ con đó. Trong phòng ngủ của tôi có bài vè được đóng khung và treo trên kệ lò sưởi.”

Lombard góp lời: “Phòng tôi cũng thế.”

“Tôi nữa.”

“Phòng tôi cũng vậy.”

Tất cả mọi người đều lặp lại điệp khúc ấy. Vera nói tiếp: “Thật là một ý tưởng hay ho, phải vậy không?”

Ông thẩm phán Wargrave càu nhàu: “Thật hết sức trẻ con,” rồi tự rót cho mình cốc rượu porto. Emily Brent nhìn Vera Claythorne. Vera Claythorne nhìn cụ Brent. Rồi cả hai người phụ nữ đứng dậy.

Trong phòng khách, những ô cửa sổ kiểu Pháp đang mở hướng ra hiên nhà, âm thanh của những con sóng đập vào đá ì ầm vọng tới tai họ.

Emily Brent lên tiếng: “Âm thanh thật dễ chịu.”

Vera đáp gọn lỏn: “Tôi ghét nó.”

Cụ Brent nhìn cô với ánh mắt ngạc nhiên. Vera đỏ mặt. Cô nói, vẻ điềm tĩnh hơn: “Chỉ là sẽ không dễ chịu lắm nếu nơi này có bão thôi ạ.”

Emily Brent đồng tình.

“Không nghi ngờ gì là hòn đảo sẽ bị cách biệt vào mùa đông,” cụ nói. “Sẽ không có người phục vụ nào muốn ở đây ấy chứ.”

Vera thì thầm: “Cũng khó tìm được người phục vụ nữa.”

Emily Brent nói: “Bà Oliver thật may mắn khi kiếm được hai người này. Người phụ nữ kia là một đầu bếp giỏi.”

Vera nghĩ: “Thật buồn cười là mấy người già luôn nhầm lẫn mấy cái tên với nhau.”

Cô đáp: “Vâng, bà Owen thật sự là rất may mắn.”

Emily Brent đã lấy một mẫu vải thêu ra khỏi túi của cụ. Vừa lúc ấy, khi đang chuẩn bị đơm kim, cụ khựng lại.

Cụ nói sắc lẻm: “Owen ư? Cô vừa nói là Owen?”

“Vâng.”

Emily Brent trả lời một cách sắc gọn: “Cả đời tôi chưa bao giờ gặp ai tên là Owen cả.”

Vera nhìn chằm chằm.

“Nhưng chắc hẳn là…”

Cô còn chưa kịp hoàn tất câu nói mình nói, cánh cửa đã bật mở và mấy người đàn ông nhập cuộc. Rogers theo họ với một khay đựng cà-phê.

Ông thẩm phán tiến tới và ngồi xuống bên cạnh Emily Brent.

Armstrong thì tới bên Vera. Tony Marston thong thả đến bên ô cửa sổ đang mở. Blore thì đang ngắm nghía một chiếc tượng nhỏ với vẻ ngạc nhiên vô tư - băn khoăn rằng có khi những góc cạnh kỳ lạ trên bức tượng là những nét dung mạo của phụ nữ. Tướng Macarthur thì đứng quay lưng lại phía lò sưởi. Ông vân vê hàng ria trắng nhỏ của mình. Bữa tối ngon tuyệt cú mèo! Tinh thần ông thêm phấn chấn. Lombard thì lật qua lật lại tờ báo Punch vốn nằm bên cạnh những tờ báo khác trên chiếc bàn kê cạnh tường.

Rogers đi lại với chiếc khay cà-phê trên tay. Cà-phê rất ngon - đen đặc và rất nóng.

Cả đoàn khách đã có một bữa ăn ra trò. Họ thỏa mãn với bản thân và với cuộc sống nói chung. Kim đồng hồ điểm chín giờ kém hai mươi phút. Tĩnh lặng - một sự tĩnh lặng thoải mái ngập tràn.

Xuyên thủng sự tĩnh lặng đó là một giọng nói. Không hề báo trước, không giống tiếng người, thẩm thấu…

“Quý ông quý bà! Mong quý vị im lặng cho!”

Tất cả mọi người sững lại. Họ nhìn quanh - nhìn nhau, nhìn những bức tường. Ai đang nói vậy?

Giọng nói lại tiếp tục - đó là một giọng nói tông cao, rõ ràng:

“Các người bị kết tội theo bản cáo trạng sau:

Edward George Armstrong, về việc ngươi đã làm vào ngày 14 tháng 3 năm 1925, gây ra cái chết của Louisa Mary Clees.

Emily Caroline Brent, vào ngày 5 tháng 11 năm 1931, ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của Beatrice Taylor.

William Henry Blore, ngươi đã gây ra cái chết của của James Stephen Landor vào ngày 10 tháng 10 năm 1928.

Vera Elizabeth Claythorne, vào ngày 11 tháng 8 năm 1935, ngươi đã sát hại Cyril Ogilvie Hamilton.

Philip Lombard, vào một ngày tháng 2 năm 1932, ngươi phạm tội gây ra cái chết của hai mươi mốt người đàn ông thuộc một bộ tộc ở Đông Phi.

John Gordon Macarthur, vào ngày 4 tháng 1 năm 1917, ngươi đã cố ý đẩy nhân tình của vợ ngươi, Arthur Richmond, vào chỗ chết.

Anthony James Marston, vào ngày 14 tháng 11 năm vừa rồi, ngươi đã gây ra cái chết của John và Lucy Combes.

Thomas Rogers và Ethel Rogers, vào ngày 6 tháng 5 năm 1929, các ngươi đã sát hại Jennifer Brady.

Lawrence John Wargrave, vào ngày 10 tháng 6 năm 1930, ngươi đã gây ra cái chết của Edward Seton.

Các tù nhân trước vành móng ngựa, các người có điều gì để thanh minh hay không?”

Giọng nói dừng lại.

Trong một khoảnh khắc là sự im bặt như hóa đá và rồi có một tiếng đổ vỡ vang dội! Rogers đã làm rơi khay cà-phê!

Ngay lúc ấy, từ đâu đó bên ngoài căn phòng, có một tiếng hét vang lên và rồi một tiếng thịch vẳng lại.

Lombard là người đầu tiên chạy ra. Anh nhảy bổ tới cánh cửa và ẩy ra ngoài. Bên ngoài, nằm giữa mớ lộn xộn là bà Rogers.

Lombard gọi to: “Marston.”

Anthony chạy ra giúp. Hai người ở hai bên đỡ người phụ nữ dậy và dìu bà vào phòng nghỉ.

Bác sĩ Armstrong tới thật nhanh. Ông giúp họ đặt người phụ nữ lên ghế bành rồi cúi xuống. Ông nói trong gấp gáp: “Không sao đâu. Bà ấy chỉ ngất thôi. Bà ấy sẽ tỉnh lại sau ít phút.”

Lombard nói với ông Rogers: “Ông mau lấy ít rượu brandy.”

Rogers, với khuôn mặt tái nhợt, đôi tay run rẩy, thì thầm: “Vâng, thưa ngài,” rồi mau lẹ ra khỏi phòng.

Vera kêu thất thanh: “Ai đã nói thế? Hắn ta ở đâu cơ chứ? Nghe như là… nghe như là…”

Tướng Macarthur lắp bắp: “Chuyện gì đang xảy ra vậy? Trò đùa gì quái gở vậy chứ?”

Tay ông lúc này đang run lên. Đôi vai oằn xuống. Trông ông đột nhiên như vừa già thêm mười tuổi.

Blore thì đang lau mặt với chiếc khăn tay của mình.

Chỉ có ngài thẩm phán Wargrave và cụ Brent là có vẻ không động đậy. Emily Brent vẫn ngồi thẳng lưng, ngẩng cao đầu. Hai bên má là đốm da sậm màu. Ông thẩm phán ngồi trong tư thế quen thuộc của mình, cái đầu như lún xuống cổ. Ông đưa tay gãi nhè nhẹ ở tai. Chỉ có đôi mắt là sống động, nhìn quanh căn phòng, bối rối, cảnh giác với vẻ thông thái.

Lần này lại là Lombard hành động. Armstrong còn đang bận bịu với người phụ nữ vừa ngất, Lombard thì lại không vướng tay chuyện gì để đưa ra quyết định.

Anh nói: “Giọng nói ấy? Nghe như là phát ra từ trong căn phòng.”

Vera kêu lên: “Nhưng là ai cơ chứ? Ai? Rõ là không phải ai đó ở đây rồi.”

Giống như ông thẩm phán, mắt Lombard chậm rãi lướt quanh căn phòng. Tạm dừng một lúc nơi cánh cửa sổ đang mở, rồi anh lắc đầu quả quyết. Đột nhiên mắt anh sáng lên. Anh nhanh nhẹn di chuyển tới cánh cửa gần lò sưởi dẫn vào căn phòng kế bên.

Với một động tác mau lẹ, anh với lấy ngọn nến và ẩy cho cửa mở. Anh bước vào và ngay lập tức thốt lên đắc thắng: “À, ra là đây.”

Những người khác liền bám theo. Chỉ có cụ Brent là vẫn giữ tư thế thẳng lưng, ngồi một mình trong chiếc ghế của cụ.

Trong căn phòng thứ hai có một cái bàn gần bức tường kề phòng khách. Trên bàn là một cái đài - loại cổ điển với chiếc kèn to được gắn cùng. Loa kèn hướng vào tường, và Lombard đẩy nó sang một bên để chỉ ra hai ba cái lỗ đã được đục một cách kín đáo trên tường.

Anh chỉnh chiếc loa thả cho cái cần chạm đĩa nhạc và ngay lập tức họ lại nghe được nội dung: “Các người bị kết tội theo bản cáo trạng sau…”

Vera thét lên: “Tắt đi! Tắt nó đi! Thật kinh khủng!”

Lombard làm theo.

Bác sĩ Armstrong lên tiếng, kèm theo một cái thở phào nhẹ nhõm: “Một trò đùa dại đáng xấu hổ và vô tâm, chỉ vậy thôi.”

Giọng nói nhỏ, rõ ràng là của ông thẩm phán Wargrave cất lên: “Vậy ông nghĩ đây là một trò đùa ư?”

Vị bác sĩ nhìn lại ông chằm chằm.

“Vậy nó còn có thể là gì nữa?”

Bàn tay ông thẩm phán nhẹ nhàng đặt lên môi trên. Ông nói: “Hiện giờ tôi chưa sẵn sàng đưa ra ý kiến.”

Anthony Marston ngắt lời: “Xem này, có một điều mà mọi người đã quên. Tên quái quỷ nào đã bật cái loa và cho đĩa này vào?”

Wargrave lẩm bẩm: “Đúng thế, tôi nghĩ chúng ta nên tìm hiểu chuyện đó.”

Nói rồi ông dẫn đầu đoàn người quay trở lại căn phòng khách. Những người khác nối bước theo sau.

Rogers vừa mới quay lại với một ly brandy. Cụ Brent thì cúi xem bà Rogers rên rỉ.

Một cách khéo léo, ông Rogers xen vào giữa hai người phụ nữ.

“Nếu bà cho phép, thưa bà, tôi sẽ nói chuyện với bà ấy. Ethel - Ethel - mọi chuyện ổn rồi. Ổn rồi, mình nghe được không? Cố gắng bình tĩnh nào.”

Nhịp thở của bà Rogers trở nên gấp gáp. Mắt bà mở thao láo đầy sợ hãi, cứ đảo lòng vòng quanh những khuôn mặt. Giọng của ông Rogers tỏ ra khẩn khoản.

“Cố bình tĩnh nào, Ethel.”

Bác sĩ Armstrong dịu dàng nói với bà: “Bà sẽ khỏe lại, bà Rogers. Chỉ là khó chịu một chút thôi.”

Người phụ nữ hỏi lại: “Tôi vừa ngất ư, thưa ngài?”

“Đúng vậy.”

“Là cái giọng đó - cái giọng khủng khiếp đó - như lời phán quyết vậy…”

Mặt bà lại chuyển xanh, đôi mắt chớp chớp.

Bác sĩ Armstrong hỏi gọn: “Chai brandy đó đâu rồi?”

Rogers đã đặt nó nơi cái bàn nhỏ. Ai đó đưa cho vị bác sĩ và ông cúi xuống người phụ nữ đang thở gấp.

“Uống cái này đi, bà Rogers.”

Bà ta uống, hơi nghẹn một chút và lại thở dốc. Hơi rượu mạnh làm bà khỏe lại. Mặt bà đã lấy lại sắc. Bà lên tiếng: “Tôi ổn rồi. Chỉ là… tôi vừa thấy khó chịu.”

Ông Rogers nói nhanh: “Tất nhiên rồi. Anh cũng thế. Đến mức làm rơi cả cái khay. Toàn là những lời dối trá độc ác! Tôi muốn biết…”

Ông bị ngắt lời. Bởi một tiếng ho - chỉ là một tiếng ho khan nhưng lại có tác dụng ngăn ông khỏi kêu lên. Ông nhìn thẩm phán Wargrave chằm chằm và ông ta lại ho lần nữa. Rồi vị thẩm phán cất tiếng hỏi: “Ai đã đặt chiếc đĩa đó vào loa. Có phải ông không, ông Rogers?”

Ông Rogers phân bua: “Tôi không hề biết nó là cái gì. Thề trước Chúa, tôi không hề biết nó là cái gì, thưa ông. Nếu biết, tôi đã không cho nó vào rồi.”

Ông thẩm phán nói khô khan: “Điều này có lẽ cũng đúng. Nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết ông hãy giải thích, ông Rogers.”

Viên quản gia vuốt mặt với chiếc khăn tay. Ông ta trả lời bằng giọng thành thực: “Tôi chỉ làm theo yêu cầu thôi, thưa ngài, chỉ vậy thôi.”

“Yêu cầu của ai?”

“Ông Owen.”

Ông thẩm phán nói: “Để tôi nhắc lại rõ nhé. Ông Owen đã… chính xác yêu cầu cái gì?”

Ông Rogers đáp: “Tôi phải để đĩa nhạc vào chiếc loa kia. Tôi thấy nó trong ngăn kéo và vợ tôi đã bật nó lên trong lúc tôi vào phòng khách với chiếc khay cà-phê.”

Ông thẩm phán thì thầm: “Một câu chuyện thật đáng ghi nhận.”

Ông Rogers kêu lên: “Sự thật là thế, thưa ngài. Tôi thề trước Đức thánh rằng đây là sự thật. Tôi không biết nó là gì - dù chỉ là một chút. Trên nó có ghi chú hẳn hòi - tôi cứ ngỡ nó chỉ là một đĩa nhạc cổ điển.”

Wargrave đưa mắt sang Lombard.

“Nó có đề tên gì không?”

Lombard gật đầu. Anh đột nhiên nhếch miệng cười, lộ ra hàm răng nhọn. Anh tiếp tục: “Đúng thế thật, thưa ông. Nó có tiêu đề là Khúc Thiên Nga…”

Tướng Macarthur đột ngột thốt lên. Ông cho biết: “Tất cả những chuyện này thật là vô lý - mâu thuẫn! Những lời buộc tội tày đình thế này! Phải có ai làm gì đi chứ. Cái tên Owen này dù có là ai đi nữa…”

Emily Brent ngắt lời. Giọng cụ thật sắc lẻm: “Đúng thế đó, ông ta là ai?”

Ông thẩm phán xen ngang. Ông nói với chất giọng đầy thẩm quyền mà cả đời làm việc trong tòa đã mang lại. Ông nói: “Đấy chính là thứ mà chúng ta cần điều tra kỹ càng. Tôi đề nghị là trước tiên ông nên dẫn vợ mình đi ngủ, Rogers. Sau đó hãy quay trở lại đây.”

“Vâng, thưa ông.”

Bác sĩ Armstrong đề nghị: “Tôi sẽ giúp một tay, Rogers.”

Dựa vào hai người đàn ông, bà Rogers liêu xiêu bước khỏi phòng. Khi họ đã đi khỏi, Tony Marston bèn nói: “Không biết anh thế nào chứ tôi phải nhấp mấy ngụm đã.”

Lombard tiếp lời: “Tôi cũng vậy.”

Tony nói: “Tôi sẽ kiếm đồ nhắm.”

Anh bước ra khỏi phòng.

Một hai giây sau anh quay lại.

“Thấy họ đã phục vụ với cái khay bên ngoài chuẩn bị đem vào rồi.”

Anh ngồi xuống một cách cẩn thận. Một hai phút tiếp theo được dành cho việc phân chia đồ uống. Tướng Macarthur lấy rượu whisky mạnh và ông thẩm phán cũng thế. Tất cả mọi người đều thấy cần đến chất kích thích. Chỉ có cụ Emily Brent là đòi lấy một ly nước.

Bác sĩ Amrstrong quay trở lại phòng.

“Bà ấy ổn rồi,” ông cho biết. “Tôi đã cho bà ấy uống thuốc ngủ. Cái gì vậy, rượu phải không? Tôi cũng muốn một cốc.”

Vài người đàn ông rót thêm rượu vào cốc. Một lúc sau thì ông Rogers quay trở lại căn phòng.

Ông thẩm phán Wargrave lãnh lấy trách nhiệm tiến hành. Căn phòng trở thành một tòa án tạm thời.

Thẩm phán nói: “Bây giờ thì, ông Rogers, chúng ta cần đi đến cùng việc này. Ông Owen này là ai?”

Ông Rogers trợn tròn mắt.

“Ông ấy làm chủ chỗ này, thưa ông.”

“Tôi biết rõ việc đó rồi. Cái tôi muốn ông trả lời là ông biết gì về người đàn ông này?”

Rogers lắc đầu.

“Tôi không thể nói được, thưa ông. Ông thấy đấy, tôi chưa gặp ông ấy bao giờ.”

Một sự xáo động nhẹ lan đi khắp phòng.

Tướng Macarthur xen vào: “Ông chưa bao giờ gặp ông ta sao? Ý ông là gì?”

“Chúng tôi mới dọn tới đây chưa đến một tuần, thưa ông, vợ tôi và tôi. Chúng tôi được thuê trước bằng thư, qua một công ty môi giới. Công ty môi giới Regina ở Plymouth.”

Blore gật gù.

“Một công ty được thành lập từ lâu.” Ông cho hay.

Wargrave thắc mắc: “Ông có lá thư ấy ở đây không?”

“Lá thư giới thiệu chúng tôi ư? Không, thưa ông. Tôi không mang nó theo.”

“Vậy tiếp tục câu chuyện của ông đi. Ông được thuê, như ông đã nói, nhờ một bức thư.”

“Vâng, thưa ông. Chúng tôi phải đến vào một ngày đã định sẵn. Và chúng tôi đã làm như vậy. Tất cả mọi thứ ở đây đều rất ngăn nắp. Có rất nhiều thức ăn trong kho và mọi thứ đều rất đẹp. Chỉ cần phủi mỗi bụi mà thôi.”

“Còn gì nữa?”

“Không có gì nữa, thưa ông. Chúng tôi nhận được yêu cầu - lại bằng thư - là cần chuẩn bị các phòng cho một bữa tiệc tại gia, và rồi khoảng chiều hôm qua tôi nhận thêm được một lá thư của ông Owen. Lá thư có viết là ông bà Owen bị kẹt, rằng chúng tôi phải làm hết sức, và có cả chỉ dẫn về bữa tối, cà-phê và bật loa nghe nhạc.”

Thẩm phán nói một cách sắc lẻm: “Ông chắc là mình còn giữ lá thư đó không?”

“Vâng, thưa ông. Tôi có đem theo nó đây.”

Ông ta lấy từ trong túi áo ra bức thư. Vị thẩm phán cầm lấy.

“Hừm,” ông thốt lên. “Gửi tới khách sạn Ritz và được đánh máy.” Với một động tác mau lẹ, Blore đã lách người tới bên cạnh thẩm phán.

Ông ta nói: “Ông có thể cho tôi xem một lát chứ?”

Đoạn Blore rút lá thư khỏi tay vị thẩm phán, rồi đảo mắt khắp lượt. Ông ta thì thầm.

“Dùng máy hiệu Vương Miện. Hoàn toàn mới - không có lỗi. Giấy bìa - loại được dùng nhiều nhất từ trước đến giờ. Không thể rút ra được điều gì từ cái này cả. Có thể là vân tay, nhưng tôi nghi là khó.”

Ông Wargrave chú mục vào người vừa nói ra những điều ấy với một vẻ chú ý đến bất ngờ.

Anthony Marston đang đứng cạnh Blore và nhìn qua vai ông ta. Anh góp lời: “Ông ta có mấy cái tên Thiên Chúa mỹ miều phết, phải không? Ulick Norman Owen. Thật hết biết.”

Ông thẩm phán già nói mà hơi giật mình: “Tôi phải biết ơn cậu mới phải, cậu Marston. Cậu đã hướng sự chú ý của tôi đến một điểm rất đáng tò mò và gợi liên tưởng.”

Rồi nhìn hết thảy mọi người xung quanh và rướn cổ lên như một con rùa đang tức giận, ông nói: “Tôi nghĩ đã đến lúc mọi người cùng chia sẻ thông tin rồi. Tôi nghĩ, sẽ tốt hơn nếu mọi người đứng ra và nói những gì mình biết liên quan đến chủ nhân ngôi nhà này.” Ông dừng một lúc rồi tiếp tục, “Chúng ta đều là khách của ông ấy. Tôi nghĩ sẽ có ích nếu mỗi người tự giải thích rằng chúng ta quen ông ta như thế nào.”

Một giây phút tạm lắng và rồi cụ Emily Brent nói với vẻ quả quyết.

“Có điều gì đó rất mờ ám về chuyện này,” cụ nhìn nhận. “Tôi đã nhận được một lá thư với chữ ký không mấy rõ ràng để nhận ra. Bức thư có ghi là của một người phụ nữ mà tôi từng gặp vào một mùa hè hai hay ba năm về trước. Tôi nghĩ là cái tên đó hoặc là Ogden hoặc là Oliver. Tôi có biết một bà tên Oliver và một cô tên Ogden. Tôi hoàn toàn chắc chắn là chưa từng gặp, hay quen biết bất cứ ai là bà Owen cả.”

Ông thẩm phán Wargrave hỏi tới: “Bà có mang bức thư cùng không, bà Brent?”

“Vâng, tôi sẽ lấy cho ông xem.”

Cụ bước ra rồi một phút sau quay lại với lá thư.

Thẩm phán đọc bức thư. Ông nói: “Tôi bắt đầu hiểu ra rồi… còn cô Claythorne?”

Vera giải thích hoàn cảnh dẫn cô tới công việc thư ký thuê này.

Ông thẩm phán tiếp tục: “Marston?”

Anthony trả lời: “Tôi nhận được một cú điện. Từ một người bạn. Badger Berkeley. Tôi khá bất ngờ lúc ấy vì cứ tưởng lão già đó đã đi Na Uy rồi. Lão bảo tôi tới đây.”

Lại một lần nữa Wargrave gật đầu. Ông nhắc: “Bác sĩ Amrstrong?”

“Tôi được gọi tới đây vì công việc.”

“Tôi hiểu rồi. Vậy là ông không hề quen biết trước với gia đình này?”

“Không. Có một người đồng nghiệp của tôi được nhắc đến trong lá thư.”

Ông thẩm phán đoán định: “Để tăng độ tin cậy… Vâng, vậy còn người đồng nghiệp kia, tôi đoán là, không liên lạc được với ông vào thời điểm đó?”

“Ừm - ơ - đúng thế.”

Lombard, người từ nãy giờ vẫn nhìn Blore chằm chặp, đột ngột nói: “Xem này, tôi vừa nghĩ ra điều này…”

Ông thẩm phán giơ tay lên.

“Đợi một phút thôi…”

“Nhưng tôi…”

“Chúng ta sẽ nghe từng người nói một, anh Lombard. Chúng ta đang tập trung tìm hiểu nguyên nhân của việc tất cả được dẫn tới đây đêm nay. Tướng Macarthur?”

Vừa vân vê râu, ông tướng lẩm bẩm: “Tôi nhận được lá thư - từ ông Owen này - có nhắc tới vài người bạn già của tôi mà đáng lẽ phải tới đây rồi - để tôi khỏi bận tâm về lời mời thiếu trịnh trọng. Tôi không nghĩ là mình có đem lá thư theo.”

Wargrave tiếp tục: “Anh Lombard?”

Lombard lúc này khá tỉnh táo. Liệu anh có nên khai thành thực hay không đây? Anh đã đi đến quyết định.

“Cũng như thế thôi,” anh cho biết. “Có lời mời, nhắc đến vài người bạn - tôi đã tin như vậy. Và tôi xé lá thư rồi.”

Ông thẩm phán Wargrave hướng sự chú ý của mình vào ông Blore. Ngón trỏ của ông gõ nhẹ lên môi trên và giọng ông thì lịch sự một cách nguy hiểm.

Ông nói: “Ngay lúc này đây chúng ta đang có một chút trải nghiệm thật đáng lo lắng. Một giọng nói vô hình nào đó nêu đích danh từng người, đọc ra một số cáo trạng tỉ mỉ buộc tội chúng ta. Chúng ta sẽ giải quyết việc đó ngay lúc này. Hiện giờ tôi đang quan tâm về một điểm nhỏ. Trong số những cái tên được nhắc tới có William Henry Blore. Theo mọi người thấy thì không có ai tên Blore ở đây. Cái tên Davis không hề được nhắc tới. Ông có gì để nói về việc này không, ông Davis?”

Blore giận dữ đáp: “Chỉ là nói hớ thôi mà. Tôi nghĩ tốt hơn tôi nên thú nhận tên tôi không phải là Davis.”

“Ông là William Henry Blore?”

“Đúng vậy.”

“Tôi muốn bổ sung điều này nữa,” Lombard xen vào, “không những là ông tới đây với một cái tên giả, ông Blore, mà tối nay tôi còn phát hiện ra ông đúng thực là một tay nói dối hạng nhất. Ông kể rằng ông đến từ Natal, Nam Phi. Tôi biết Nam Phi và vùng Natal và tôi sẵn sàng thề rằng ông chưa từng một lần đặt chân tới Nam Phi trong đời.”

Mọi cặp mắt đều hướng về phía Blore. Những đôi mắt giận dữ nghi ngờ. Anthony Marston tiến một bước về phía ông ta. Nắm đấm của anh cuộn chặt lại.

“Bây giờ thì sao, tên khốn?” Anh gằn giọng. “Có lời giải thích nào không?”

Blore quay đầu lại và bắt đầu bạnh hàm ra nói.

“Các quý ông nghĩ sai về tôi rồi,” ông ta tỏ bày. “Tôi có giấy ủy nhiệm và các ông có thể xem ngay đây. Tôi là một cựu đặc vụ điều tra tội phạm CID. Tôi có điều hành một văn phòng thám tử ở Plymouth. Tôi được giao nhiệm vụ này.”

Ông thẩm phán Wargrave hỏi: “Ai giao cho ông?”

“Ông Owen này này. Có gửi kèm theo cả một đống tiền cho mọi chi phí và hướng dẫn tôi phải làm gì theo ý ông ta. Tôi phải tham dự tiệc tại gia này, giả vờ làm khách. Tôi được đưa cho tên của các vị. Tôi phải xem chừng tất cả mọi người.”

“Có lý do gì không?”

Blore đáp một cách chua chát: “Vì mớ nữ trang của bà Owen. Bà Owen khỉ gì chứ! Tôi không tin là có một người như thế nữa.”

Ngón trỏ của vị thẩm phán lại nhịp lên môi, lần này với một vẻ cảm kích.

“Kết luận đó của ông, tôi nghĩ là hợp lý,” Ông nói. “Ulick Norman Owen! Trong lá thư gửi bà Brent, dù chữ ký phần họ rất nguệch ngoạc cái tên Thiên Chúa kia thì lại khá rõ ràng - Una Nancy - trong cả hai trường hợp nếu ta để ý, sẽ thấy cách viết tắt giống hệt. Ulick Norman Owen - Una Nancy Owen - hợp lại, sẽ thành U.N. Owen. Hay nếu nói hơi chệch đi sẽ thành UNKNOWN (VÔ DANH)!

Vera thảng thốt: “Nhưng như thế thì thật quái gở… điên rồ!”

Thẩm phán gật gù, tán thành: “Ồ, vâng. Tôi không nghi ngờ là chúng ta đã được mời tới đây bởi một người điên - có khả năng là một tên giết người hàng loạt mất trí nguy hiểm.”