← Quay lại trang sách

Chương 9

Lombard nói một cách chậm rãi: “Vậy là chúng ta đã lầm - lầm ngay từ đầu! Tự dựng nên một cơn ác mộng huyễn hoặc và ảo tưởng chỉ vì hai cái chết trùng hợp!”

Armstrong nghiêm trang nhận xét: “Thế nhưng, anh thấy đó, cuộc tranh cãi là có lý. Cứ dừng ở đó đã, tôi là một bác sĩ, tôi biết vài điều về tự sát. Anthony Marston không phải là loại người đi tự tử.”

Lombard cho biết với vẻ nghi ngờ: “Tôi nghĩ, chẳng lẽ lại không thể là một vụ tai nạn sao?”

Blore khịt mũi, tỏ vẻ không được thuyết phục cho lắm.

“Trùng hợp gì mà quái gở vậy cơ chứ?” Ông ta càu nhàu.

Một khoảng lặng, rồi ông Blore cất tiếng: “Về người phụ nữ đó…”, rồi dừng lại.

“Bà Rogers ư?”

“Vâng. Cũng có khi, chỉ là một tai nạn thôi, đúng không?”

Philip Lombard thốt lên: “Tai nạn á? Tại nạn kiểu gì cơ?”

Blore nom ngượng ngùng. Khuôn mặt đỏ gạch của ông ta trở nên sẫm màu hơn. Và ông ta trả lời, gần như là buột miệng: “Thế này nhé, bác sĩ, ông có đưa cho bà ấy liều thuốc mê gì đó mà, ông biết rõ mà.”

Armstrong nhìn lại chằm chằm.

“Thuốc mê á? Ông có ý gì vậy?”

“Tối qua. Chính ông đã nói là ông sẽ cho bà ấy uống một liều gì đó để đi ngủ.”

“Ồ đúng rồi, đúng thế. Một liều thuốc ngủ vô hại.”

“Chính xác thì nó là cái gì?”

“Tôi đã đưa cho bà ấy uống một liều trional loại vừa. Đó là một sự chuẩn bị hoàn toàn vô hại.”

Mặt ông Blore đỏ thêm lên. Ông hỏi gặng: “Xem này - không phải là tôi làm quá chuyện này lên - nhưng ông chắc là không đưa cho bà ấy dùng quá liều đó chứ?”

Bác sĩ Armstrong giận dữ vặc lại: “Tôi không hiểu nổi ý ông là gì.”

Ông Blore nói: “Cũng có thể chứ, phải không, rằng ông mắc một lỗi nào đó? Những chuyện như thế này cũng đôi khi xảy ra mà.”

Armstrong nói sắc như dao: “Tôi không làm những chuyện như vậy. Cách nghĩ như vậy thật ngớ ngẩn.” Ông ta dừng lại một thoáng và thêm vào với giọng đắng ngắt: “Hay ý ông là tôi đã cho bà ấy dùng quá liều có chủ đích?”

Philip Lombard nói nhanh: “Khoan đã, hai người, phải giữ bình tĩnh chứ. Đừng có khới ra những lời buộc tội lung tung như vậy.”

Blore nói, vẻ rầu rĩ: “Tôi chỉ nghĩ là có thể ông bác sĩ mắc phải nhầm lẫn thôi.”

Bác sĩ Armstrong gắng nở một nụ cười, ông ta phô ra hàm răng với nụ cười không mang nét vui tươi chút nào: “Bác sĩ không thể phạm phải những lỗi như thế được, ông bạn của tôi ạ.”

Ông Blore cố tình nói: “Cũng không phải là lần đầu tiên ông mắc phải mà - nếu như lời chiếc loa đó nói là tin được!”

Khuôn mặt bác sĩ Armstrong trở nên trắng bệch. Philip Lombard nhanh miệng nói một cách giận dữ với ông Blore: “Ông cứ phải gây hiềm khích như thế để làm gì? Chúng ta đều đang trên cùng một thuyền. Phải cùng đoàn kết chứ. Thế còn cái tin ông khai man thì sao hả?”

Ông Blore dấn tới một bước, bàn tay nắm chặt, ông ta gằn từng tiếng với giọng chắc nịch: “Khai man cái con khỉ! Đó là một lời nói dối! Anh cứ cố mà chặn họng tôi lại đi, Lombard, nhưng có những điều mà tôi muốn tìm cho ra nhẽ - và một trong số đó là chuyện của anh đấy!”

Đôi mày của Lombard rướn lên.

“Về tôi á?”

“Đúng đấy. Tôi muốn biết tại làm sao mà anh lại mang theo một khẩu súng ngắn bên mình trong khi đến đây để gặp gỡ xã giao?”

Lombard đáp: “À, là ông muốn biết, chứ gì?”

“Đúng thế đấy, anh Lombard.”

Lombard bất ngờ nói: “Ông biết không, Blore, ông cũng không đến nỗi ngờ nghệch như cái vẻ bên ngoài của ông đâu.”

“Cũng có thể là thế đấy. Thế còn khẩu súng thì sao đây?”

Lombard mỉm cười.

“Tôi mang nó theo vì tôi đang chuẩn bị lâm vào một chuyện rắc rối.”

Blore nói đầy nghi hoặc: “Anh không hề nói với chúng tôi tối qua.”

Lombard lắc đầu.

“Anh muốn giấu không cho chúng tôi biết sao?” Ông Blore tiếp tục.

“Theo cách nào đó thì đúng như thế.” Lombard đáp.

“Ôi, thôi đi, nói toẹt ra đi.”

Lombard nhả từng lời, một cách chậm chạp: “Tôi muốn để mọi người nghĩ là tôi cũng bị kéo tới đây theo cái cách mà mọi người đều bị. Điều đó không hẳn là đúng. Thực ra thì có một tên Do Thái nhỏ thó đã gặp tôi - tên hắn là Morris. Hắn đã trả tôi một trăm gui-nê để xuống đây thám hiểm mọi thứ - hắn nói là tôi có tiếng giỏi xoay xở trong tình huống khó khăn.”

“Rồi sao nữa?” Blore chen ngang với vẻ mất kiên nhẫn.

Lombard nhếch miệng: “Chỉ có vậy thôi.”

Bác sĩ Armstrong thêm vào: “Nhưng chắc là hắn ta phải nói điều gì đó nữa với anh chứ?”

“Ồ không, hắn không thêm gì cả. Chỉ câm như hến. Hoặc nhận hoặc bỏ - đó là lời mà hắn nói. Tôi đang cần kiếm tiền gấp, nên đã nhận.”

Blore có vẻ không tin cho lắm. Ông ta hỏi: “Tại sao anh không cho chúng tôi biết điều này vào tối qua?”

“Quý ông thân mến của tôi…” Lombard nhún vai đầy cảm xúc. “Làm sao mà tôi biết được là chuyện tối qua không phải là thứ cuối cùng mà tôi phải bận tâm ở đây? Tôi đành phải giấu thân phận thật và bịa ra một câu chuyện không ràng buộc mà thôi.”

Bác sĩ Armstrong khôn khéo đáp: “Nhưng bây giờ - anh nghĩ khác rồi chứ?”

Mặt Lombard thay đổi. Khuôn mặt đó trở nên tối sầm và rắn đanh lại. Anh ta đáp: “Đúng thế. Bây giờ thì tôi tin là tôi cũng cùng hội cùng thuyền với các ông cả thôi. Cái số tiền một trăm gui-nê đó chỉ là mồi phô-mát dụ tôi vào bẫy cùng với mọi người.”

Rồi anh nói chậm rãi: “Và vì chúng ta đang ở trong bẫy - tôi dám thề là như thế! Cái chết của bà Rogers! Của Tony Marston! Tượng lính biến mất khỏi bàn ăn nữa! Đúng thế, bàn tay của tên Owen kia đã lộ rõ - nhưng hắn ở cái chỗ quỷ quái nào mới được cơ chứ?”

Dưới nhà, một hồi chuông trang nghiêm vẳng lên báo đã đến giờ ăn trưa.

Rogers đang đứng bên cánh cửa phòng ăn. Khi ba người đàn ông xuống cầu thang thì ông ta bước một, hai bước tới trước. Ông ta nói với giọng trầm lo lắng: “Tôi hy vọng là bữa trưa đáng hài lòng. Có đĩa thịt nguội và lưỡi đông lạnh, tôi cũng luộc thêm cả khoai tây. Và có cả phô-mát, bánh quy, cùng với hộp hoa quả thiếc.”

Lombard đáp lời: “Nghe có vẻ ổn rồi. Vậy là kho chứa có vẻ dư thừa nhỉ?”

“Có rất nhiều thức ăn, thưa ông - đủ các loại đồ hộp. Kho thịt cũng được bảo quản tốt. Tôi nghĩ, đó là một điều cần thiết, ở nơi mà đảo cách xa đất liền trong một khoảng thời gian dài.”

Lombard gật gù.

Rogers lẩm bẩm khi bước theo ba người đàn ông vào phòng ăn.

“Điều làm tôi lo lắng là việc hôm nay, Fred Narracott vẫn chưa qua đây. Điều này không may một cách kỳ lạ, như các ông thấy đấy.”

“Đúng vậy.” Lombard tán thành. “Nói không may một cách kỳ lạ là hoàn toàn chuẩn xác.”

Cụ Brent bước vào căn phòng. Cụ vừa đánh rơi một cuộn len và lúc này đang cuộn lại đoạn len cuối cùng một cách cẩn thận.

Khi đã ngồi vào bàn ăn, cụ đưa ra nhận xét: “Thời tiết đang thay đổi. Gió đang mạnh lên và tôi thấy có sóng bạc đầu ở ngoài khơi.”

Thẩm phán Wargrave vừa bước vào. Ông ta sải những bước đều chân, chậm chạp, ném một cái nhìn nhanh từ dưới đôi mày rậm rạp của mình về phía những người đang ở trong phòng ăn. Rồi ông ta lên tiếng: “Các ngài đã có một buổi sáng thật tích cực.”

Có gì đó như sự thỏa mãn độc ác trong giọng nói của ông ta. Vera Claythorne vội vã đi vào. Nom cô có vẻ như hụt hơi. Cô nói nhanh: “Tôi mong là mọi người chưa phải chờ tôi. Tôi xuống muộn phải không?”

Cụ Emily Brent trả lời: “Cô không phải người cuối cùng đâu. Ông đại tướng vẫn chưa xuất hiện.”

Họ bắt đầu ngồi quanh bàn ăn.

Ông Rogers quay sang cụ Brent.

“Bà muốn bắt đầu rồi chứ, thưa bà, hay bà muốn đợi một lúc?”

Vera nói xen vào: “Tướng Macarthur đang ngồi ở ngay bên bờ biển. Dù gì tôi cũng không nghĩ là ông ấy có thể nghe được tiếng chuông đâu.” Cô ngập ngừng. “Ngày hôm nay ông ấy có vẻ hơi khó hiểu, tôi thấy thế.”

Ông Rogers nhanh nhảu: “Tôi sẽ xuống báo với ông ấy là bữa trưa đã sẵn sàng.”

Bác sĩ Armstrong nhảy dựng lên.

“Tôi sẽ đi.” Ông ta tự nguyện. “Các vị cứ bắt đầu bữa ăn đi.”

Rồi vị bác sĩ rời khỏi căn phòng. Từ phía sau, ông nghe thấy tiếng ông Rogers hỏi: “Bà muốn lưỡi đông lạnh hay thịt nguội, thưa bà?”

Năm người ngồi quanh bàn ăn lúc này cảm thấy thật khó khăn để bắt đầu cuộc trò chuyện. Bên ngoài, những cơn gió giật bất chợt ùa đến rồi tan biến.

Vera có hơi run một chút, cô thẽ thọt: “Cơn bão sắp tới rồi.”

Ông Blore góp lời cho cuộc hội thoại, ông ta nói kiểu tiếp chuyện: “Có một ông lão trên chuyến tàu từ Plymouth hôm qua. Ông ấy cứ liên tục nói rằng có một cơn bão đang đến. Thật tuyệt vời làm sao cái cách mà mấy người đó đoán biết được thời tiết, mấy người từng đi biển ấy.”

Ông Rogers đi quanh bàn ăn thu gom lại những đĩa thịt.

Đột nhiên, với chồng đĩa trên tay, ông ta dừng lại.

Viên quản gia nói với giọng sợ hãi: “Có ai đó đang chạy…”

Tất cả mọi người đều nghe được âm thanh đó - bước chân chạy dọc theo hiên nhà.

Trong giây phút đó, họ đã biết - họ biết mà không cần thông báo gì…

Như được giao hẹn từ trước, ai nấy đều đứng thẳng dậy. Họ đứng đó nhìn ra phía cửa.

Bác sĩ Armstrong xuất hiện, thở hổn hển.

Ông ta thông báo: “Tướng Macarthur…”

“Chết rồi!” Âm thanh như bùng phát từ Vera.

Armstrong xác nhận: “Vâng, ông ấy chết rồi…”

Lại một khoảng lặng - một khoảng lặng dài thật dài.

Bảy người bọn họ nhìn nhau mà không tìm được lời nào để nói.

Cơn bão ập tới ngay khi xác của người đàn ông già được khiêng qua cánh cửa.

Những người còn lại thì đứng ở trong sảnh.

Đột nhiên có một tiếng rít rồi gầm gừ khi cơn mưa đổ xuống.

Trong lúc ông Blore và Armstrong leo lên cầu thang cùng với sức nặng kia, Vera đột ngột quay trở lại căn phòng ăn trống trải.

Nó vẫn y hệt như lúc họ rời khỏi đó. Cô ở đó được khoảng một hay hai phút thì ông Rogers khẽ chân đi vào căn phòng.

Ông khựng lại khi nhìn thấy cô. Vừa lúc đó, mắt ông như dò hỏi điều gì.

Ông lên tiếng: “Ồ, quý cô, tôi - tôi chỉ muốn tới xem…”

Với một giọng khắc nghiệt đến chính cô cũng phải ngạc nhiên, Vera trả lời: “Ông đoán đúng rồi đó, Rogers. Hãy tận mắt xem này. Chỉ còn có bảy chiếc thôi…”

Tướng Macarthur đã được đặt trên giường của ông ta. Sau khi thực hiện lần kiểm tra cuối cùng, Armstrong rời căn phòng và bước xuống dưới nhà. Ông thấy những người khác đang họp lại với nhau trong căn phòng khách.

Cụ Brent đang đan len. Vera Claythorne thì đứng bên cửa sổ quan sát cơn mưa gầm gào.

Ông Blore vẫn ngồi vuông vắn trong chiếc ghế, tay đặt trên gối. Lombard đi lên đi xuống không chút ngưng nghỉ. Trong một góc phòng xa, thẩm phán Wargrave đang ngồi trong chiếc ghế bành to. Mắt ông như khép lại.

“Thế nào rồi, bác sĩ?”

Armstrong mặt tái nhợt. Ông ta cho biết: “Không có vẻ là một cơn đau tim hay thứ gì đại loại như thế cả. Macarthur đã bị đánh vào đầu bởi một cái cần phao hay một thứ gì đó tương tự.”

Một đợt rì rầm lan tỏa ra xung quanh, nhưng thứ giọng rành rọt của ông thẩm phán lại một lần nữa nổi lên trên hết.

“Ông có thấy loại vũ khí thực được sử dụng không?”

“Không.”

“Nhưng dù thế ông vẫn chắc chắn về điều ông nói chứ?”

“Tôi hoàn toàn tin chắc.”

Ông thẩm phán Wargrave nói khẽ: “Giờ thì chúng ta đã biết đích xác tình cảnh của chúng ta rồi.”

Chẳng còn nghi ngờ gì về việc ai là người nắm quyền hành trong tay nữa. Sáng nay Wargrave còn ngồi thu lu trong chiếc ghế của mình ở góc hiên nhà lảng tránh mọi hoạt động lộ liễu. Còn giờ thì ông ta tự nắm lấy quyền chỉ huy một cách dễ dàng nhờ có thói quen lâu năm của một người có thẩm quyền. Rõ ràng ông ta là người điều hành cả tòa án.

Tằng hắng lấy giọng, ông Wargrave lại nói thêm.

“Sáng nay, thưa các vị, trong khi tôi đang ngồi ở hiên nhà, thì tôi đã quan sát được việc mà các vị làm. Tôi có một chút nghi ngờ về mục đích của việc đó. Quý vị đã đi tìm khắp hòn đảo này vì một tên giết người vô danh ư?”

“Hoàn toàn đúng vậy, thưa ông.” Philip Lombard đáp.

Ông thẩm phán tiếp tục.

“Không nghi ngờ gì, là các vị cũng đi đến cùng một kết luận với tôi - rằng cái chết của Anthony Marston và bà Rogers không hề do trùng hợp ngẫu nhiên, cũng chẳng phải do tự sát. Chắc hẳn các vị cũng đi đến kết luận về mục đích của ông Owen khi lôi kéo chúng ta ra hòn đảo này?”

Ông Blore nói, giọng khàn khàn: “Lão ta là một tên điên! Một thằng mất trí.”

Ông thẩm phán húng hắng ho.

“Điều đó là hiển nhiên rồi. Nhưng cũng chẳng thể hiện rõ vấn đề gì. Bây giờ mối lo chính của chúng ta là - giữ lấy mạng sống của bản thân mình.”

Armstrong nói, giọng run lẩy bẩy: “Nhưng chẳng có ai trên hòn đảo này cả, tôi nói cho mọi người hay. Chẳng có ai cả!”

Ông thẩm phán vân vê cằm của mình, nói một cách ôn tồn: “Với cách ông nghĩ, thì không. Tôi đã đi tới kết luận đó từ sáng nay rồi. Đáng lẽ tôi đã nói với các vị rằng cuộc tìm kiếm đó sẽ chẳng đem lại kết quả gì. Nhưng dù sao đi nữa thì tôi cũng rất đồng tình với ý kiến là ‘ông Owen’ (nếu ta gọi hắn theo cái tên mà tự hắn nghĩ ra) đang ở trên đảo. Nhiều khả năng là thế. Với kế hoạch mà chúng ta đang xem xét thì nó không có gì khác hơn là thi hành án đối với một số người, vì những tội mà luật pháp không thể với tay tới được, và chỉ có mỗi một cách để kế hoạch đó được hoàn tất. Ông Owen chỉ có thể đến hòn đảo theo một con đường duy nhất mà thôi. Như vậy là đã sáng tỏ hoàn toàn, ông Owen chính là một trong số chúng ta…”

“Ôi, không, không, không…”

Chính Vera là người đã thốt lên trước - gần như là rên rỉ. Ông thẩm phán đưa một cái nhìn quan tâm về phía cô.

Ông nói: “Cô gái trẻ thân mến của tôi, giờ không phải là lúc để phủ nhận sự thật sờ sờ trước mặt. Chúng ta đều đang trong tình cảnh nguy hiểm hết sức. Một trong số chúng ta là U.N. Owen. Và chúng ta lại không biết là ai. Trong số mười người đặt chân đến đảo này thì có ba người là không dính líu gì rồi. Anthony Marston, bà Rogers, và tướng Macarthur là không thể bị nghi ngờ gì cả. Vậy là còn bảy người chúng ta thôi. Trong số này, một người là, nếu tôi được phép nói như thế này, là một tên lính rởm.”

Ông dừng lời và nhìn quanh.

“Tôi nghĩ là mọi người đồng ý cả chứ?”

Bác sĩ Armstrong trả lời: “Thật không bình thường - nhưng tôi đoán là ông nói đúng.”

Ông Blore tiếp lời: “Không nghi ngờ gì rồi. Và nếu ông hỏi tôi, tôi có một giả thuyết rất hay là…”

Bằng một động tác nhanh lẹ, bàn tay của thẩm phán Wargrave đã ngăn ông ta lại. Thẩm phán nói khẽ khàng: “Chúng ta sẽ đề cập tới việc đó ngay bây giờ đây. Ngay lúc này, tôi muốn chắc là chúng ta đều đồng tình với sự thật này.”

Cụ Emily Brent vẫn tiếp tục đan, lên tiếng: “Cách biện luận của ông có vẻ logic. Tôi cũng đồng ý là một trong số chúng ta bị quỷ ám.”

Vera lẩm bẩm: “Tôi không tin được… không thể nào…”

Thẩm phán Wargrave hỏi tới: “Anh Lombard?”

“Tôi cũng đồng ý, thưa ông, hoàn toàn đồng ý.”

Ông thẩm phán gật đầu với phong thái mãn nguyện. Ông nói: “Bây giờ thì chúng ta hãy kiểm tra các chứng cứ. Để bắt đầu, liệu có nguyên cớ gì để nghi ngờ một ai đó cụ thể hay không? Ông Blore, tôi đoán ông có điều gì muốn nói.”

Ông Blore bắt đầu thở hơi khó nhọc. Ông ta trả lời: “Lombard có một khẩu súng ngắn. Anh ta không nói thật - vào tối hôm qua. Anh ta đã thừa nhận điều đó.”

Philip Lombard mỉm cười khinh miệt.

Anh cất tiếng: “Tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi nên giải thích lại.”

Và anh làm hệt như thế, kể lại câu chuyện một cách ngắn gọn và súc tích.

Ông Blore nói sắc lẻm: “Thế thì chứng minh được gì? Chẳng có gì có thể xác minh cho câu chuyện của anh hết.”

Ông thẩm phán lại ho.

“Đáng tiếc thay,” ông ta nói, “chúng ta đều trong tình huống như vậy. Chỉ có điều chúng ta nói là được phổ biến thôi.”

Rồi vị thẩm phán nhoài người ra phía trước.

“Chưa ai trong số quý vị đây hiểu được sự kỳ quặc của tình hình mà chúng ta gặp phải. Với tôi thì chỉ có một việc phải làm mà thôi. Có ai trong số chúng ta là loại bỏ được mọi nghi ngờ dựa vào những bằng chứng mà chúng ta hiện có hay không?”

Bác sĩ Armstrong nói nhanh: “Tôi, tôi là một bác sĩ lành nghề được nhiều người biết tới. Chỉ cái ý nghĩ rằng tôi có thể bị nghi là…”

Lại một lần nữa, tay thẩm phán lại đưa ra cử chỉ chặn đứng một người đang trình bày ý kiến của họ. Ông thẩm phán lại nói với giọng rõ ràng, nhưng nho nhỏ: “Tôi cũng vậy chứ, là một người được biết đến khá nhiều! Nhưng, quý ông thân mến, điều đó chẳng chứng tỏ được điều gì cả! Bác sĩ đã mất trí từ trước tới nay. Mấy tên thẩm phán cũng mất trí chứ. Và…” ông ta bồi thêm, nhìn thẳng vào ông Blore, “cảnh sát cũng vậy nốt!”

Lombard nói: “Dù gì đi nữa, tôi đoán ông cũng sẽ loại phụ nữ khỏi diện tình nghi.”

Đôi mày ông thẩm phán lại rướn lên. Ông ta nói với chất giọng chua loét nổi tiếng mà ban hội thẩm đã quá quen thuộc: “Tôi có hiểu đúng khi nói là anh muốn khẳng định phụ nữ không thể đi giết người hàng loạt không?”

Lombard nói với vẻ khó chịu: “Tất nhiên là không. Nhưng kể cả thế, nó cũng khó mà xảy ra được…”

Anh dừng lời. Ông thẩm phán Wargrave vẫn nói với giọng mỏng chua chát khi hướng tới Armstrong.

“Bác sĩ Armstrong à, tôi nghĩ là một người phụ nữ vẫn có đủ sức lực để thực hiện cú đánh giết chết ông Macarthur tội nghiệp, phải không?”

Ông bác sĩ nói bình tĩnh: “Hoàn toàn được - nếu có công cụ phù hợp, chẳng hạn như một chiếc dùi cao su hay cây gậy.”

“Điều đó không đòi hỏi quá sức chứ?”

“Không hề.”

Ông thẩm phán Wargrave vặn vẹo cái cổ rùa của mình. Ông kết luận: “Hai cái chết trước là do dùng thuốc. Điều đó, không ai có thể bàn cãi là không thể do một người với sức khỏe thể chất yếu nhất.”

Vera hét lên giận dữ: “Tôi nghĩ là ông điên rồi!”

Mắt ông chầm chậm đảo qua cho tới khi bắt gặp cô. Đó là cái nhìn chằm chặp không thiên vị của một người đàn ông đã quá quen với cảnh phải cân nhắc lòng nhân từ.

“Ông ta nhìn cứ như thể mình là… mình chỉ là một mẫu thí nghiệm vậy. Và…” Rồi một ý nghĩ gây bất ngờ lớn đột nhiên lướt qua tâm trí cô, ‘Ông ta không ưa mình mấy!’

Với một giọng kìm nén, ông thẩm phán bắt đầu nói: “Cô gái trẻ quý mến của tôi ơi, hãy cố gắng mà kiềm chế cảm xúc của cô. Tôi không hề buộc tội cô nhé.” Ông cúi mình quay sang phía cụ Brent. “Tôi cũng mong là, bà Brent, rằng bà không lấy làm phiền bởi việc tôi khăng khăng là chúng ta đều đáng bị nghi như nhau chứ?”

Cụ Brent vẫn đang đan len. Cụ không thèm ngẩng mặt lên lấy một lần. Với một chất giọng lạnh lùng, cụ nói: “Cái ý tưởng rằng tôi có thể bị buộc tội tước đi mạng sống của một đồng loại - chứ chưa nói gì đến ba mạng sống - tất nhiên là rất vô lý đối với những người hiểu rõ tính cách của tôi. Nhưng tôi cũng hoàn toàn ý thức được cái sự thật là chúng ta toàn là những người xa lạ với nhau, và rằng, trong những hoàn cảnh như vậy, không ai có thể được tha tội trừ khi có được chứng cớ đầy đủ. Như tôi đã nói đó, có một con quỷ hiện hữu trong số chúng ta.”

Ông thẩm phán nói: “Vậy là chúng ta đồng thuận. Sẽ không có một ngoại lệ nào chỉ dựa trên cơ sở là nhân cách hay vị thế nữa.”

Lombard hỏi lại: “Vậy còn ông Rogers thì sao?”

Ông thẩm phán nhìn anh không chớp mắt.

“Ông ấy làm sao?”

Lombard trả lời: “Chà, với tôi thì Rogers hoàn toàn thuộc phần ngoại lệ.”

Ông thẩm phán Wargrave thừa nhận: “Đúng thế thật, mà dựa trên cơ sở gì thế?”

Lombard đáp: “Ông ấy không đủ kiến thức là thứ nhất. Và thứ hai là vợ ông ấy nằm trong số những nạn nhân.”

Đôi mày ông thẩm phán lại rướn lên lần nữa. Ông nói: “Vào cái thời của tôi, chàng trai trẻ ạ, có tới vài người đã phải hầu tòa vì lời buộc tội sát hại chính vợ của họ - và còn bị chứng minh là có tội nữa.”

“Ồ! Tôi đồng ý. Giết vợ là việc hoàn toàn có thể xảy ra - gần như là chuyện tự nhiên phải thế, cứ coi như thế đi! Nhưng không phải loại người này! Tôi có thể tin là Rogers giết bà ấy vì sợ rằng vợ mình có thể suy sụp mà làm lộ mọi chuyện về ông ta, hoặc có thể vì ông ta đã chán ghét bà ấy, hoặc có khi vì ông ấy muốn cặp kè với một mụ già khụ khú đế nào đó. Nhưng tôi không thể hiểu được chuyện ông ta là một tên Owen thần kinh nào đó đi thi hành pháp luật bằng cách bắt đầu từ vợ của chính mình trong khi cả hai bọn họ cùng tham gia.”

Thẩm phán Wargrave nói: “Anh đang tự cho những tin đồn đó là chứng cớ. Chúng ta không thể biết được có đúng là Rogers và vợ đã cùng nhau lên kế hoạch giết người chủ của họ hay không. Biết đâu đó lại là một lời dối trá chỉ để khiến cho Rogers lâm vào tình thế giống như chúng ta thì sao. Cú sốc của bà Rogers tối qua biết đâu là do việc bà ấy nghĩ là chồng mình bị loạn trí.”

Lombard đáp: “Được, thế thì cứ làm điều ông thích, U.N. Owen là một trong số chúng ta. Không có ngoại lệ nào hết. Tất cả đều như nhau.”

Thẩm phán Wargrave tiếp tục: “Tôi muốn chỉ ra rằng không có ngoại lệ nào dựa trên cớ là nhân cách, vị thế, hay việc có thể hay không. Cái mà chúng ta cần kiểm tra hiện giờ là tính khả thi của việc ai đó được ngoại phạm hay không dựa trên mọi dữ kiện. Nói một cách đơn giản, liệu có một ai hay nhiều người trong số chúng ta là không thể có khả năng dùng xyanua với Anthony Marston, hay như chuyện thuốc ngủ quá liều với bà Rogers, và ai không thể có thời cơ thuận lợi ra đòn giết chết tướng Macarthur?”

Khuôn mặt có hơi nặng nề của ông Blore như được thắp sáng. Ông khom người về trước.

“Có thế chứ, thưa ngài!” Ông ta thốt lên. “Chính là thế! Hãy nói thêm về chuyện đó đi. Về trường hợp của cậu Marston trẻ kia, tôi không nghĩ là có gì cần phải bàn rồi. Mọi thứ cho thấy là có ai đó từ bên ngoài đã rắc thứ gì đó vào cốc rượu của cậu ta trước khi cậu ta rót đầy lần cuối. Một người ở trong căn phòng thậm chí còn có thể làm chuyện đó dễ dàng hơn. Tôi không nhớ là Rogers có ở trong phòng hay không, nhưng bất cứ ai trong số chúng ta ở đây đều có thể thực hiện được việc đó.”

Ông dừng lời, rồi nói tiếp: “Còn giờ thì đến vợ Rogers. Những người nổi bật ở đây thì có chồng bà ta và ông bác sĩ. Một trong số họ đã có thể làm chuyện đó dễ như…”

Armstrong đứng hẳn dậy. Ông ta đang run rẩy.

“Tôi phản đối - thế này thật không cần thiết! Tôi thề là chỗ thuốc mà tôi đưa cho bà ấy uống hoàn toàn…”

“Bác sĩ Armstrong.”

Cái giọng nhỏ bé chua chát ấy thật đầy sức thuyết phục. Ông bác sĩ giật mình ngưng lại câu nói đang dang dở của mình. Tiếng nói nho nhỏ, lạnh lùng tiếp tục cất lên: “Sự phẫn nộ của ông là rất bình thường. Dù gì đi nữa thì ông cũng phải thừa nhận những dữ kiện mà ông phải đối mặt. Hoặc ông hoặc là Rogers đã có thể đưa liều thuốc chết người ấy một cách vô cùng dễ dàng. Bây giờ thì chúng ta hãy cùng xem xét tình thế của những người còn lại. Liệu có khi nào tôi, hay thám tử Blore, bà Brent, cô Claythorne, anh Lombard đã có thời cơ mà thực hiện việc đầu độc hay không? Có ai trong số chúng ta có thể hoàn toàn ngoại phạm hay không?” Ông ta ngừng lại. “Tôi không nghĩ như vậy.”

Vera tỏ ra giận dữ: “Tôi còn chẳng hề tới gần người phụ nữ đó! Tất cả mấy người đều có thể chứng thực cho chuyện đó mà!”

Ông thẩm phán Wargrave đợi mất một phút, rồi ông nói: “Nếu như trí nhớ của tôi còn hoạt động tốt thì mọi chuyện là như thế này - mọi người có thể sửa sai cho tôi nếu tôi có nhầm lẫn đâu đó nhé? Bà Rogers được đặt lên ghế sô-pha nhờ Anthony Marston và anh Lombard rồi bác sĩ Armstrong tiến tới gần. Ông ấy nhờ Rogers đi mang một chai brandy. Sau đó là câu hỏi về việc chúng ta nghe được giọng nói đó từ đâu ra. Chúng ta đều đi sang phòng bên cạnh ngoại trừ cụ Brent ở lại căn phòng này - một mình với người phụ nữ bất tỉnh.”

Đốm màu bắt đầu xuất hiện trên má cụ Brent. Cụ ngưng việc đan len lại. Cụ nói: “Thế này thật đáng lên án!”

Cái giọng nhỏ nhẹ không thương tiếc kia lại cất lên: “Khi chúng tôi quay trở lại căn phòng này, thì bà, bà Brent, đang cúi người bên người phụ nữ trên ghế sô-pha.”

Cụ Emily Brent vặc lại: “Vậy tình thương đồng loại là một tội ư?”

Ông thẩm phán Wargrave trả lời: “Tôi chỉ đang thuật lại dữ kiện mà thôi. Rogers sau đó quay trở lại căn phòng với chai brandy, tất nhiên là ông ấy hoàn toàn có thể thêm gì đó vào trước khi bước chân vào phòng. Chai brandy được chuyển cho người phụ nữ rồi sau đó ông chồng cùng bác sĩ Armstrong đưa bà ấy lên gác, ở đó bác sĩ Armstrong đã đưa cho bà ấy một liều thuốc ngủ.”

Ông Blore tán thành: “Đúng là những gì đã xảy ra đó. Chắc chắn rồi. Và thế là loại ra được ông thẩm phán, anh Lombard, tôi và cô Claythorne.”

Giọng ông lúc này trở nên lớn tiếng và hân hoan. Ông thẩm phán Wargrave, ném một cái nhìn lạnh lẽo về phía ông, thì thầm: “A, nhưng phải vậy không đã? Chúng ta cần xem xét tất cả những kết cuộc có thể xảy ra.”

Ông Blore sững lại.

“Tôi không hiểu ý ông.”

Ông thẩm phán nói: “Trong phòng mình, bà Rogers đang nằm ở trên giường. Thuốc ngủ mà bác sĩ đưa cho bà ấy bắt đầu có tác dụng. Bà ấy bắt đầu thấy buồn ngủ và trở nên dễ bảo. Giả sử lúc ấy có tiếng gõ cửa và rồi ai đó bước vào, mang cho bà ấy, cứ coi như là, một viên thuốc, hay liều thuốc mê, với tin nhắn là: ‘Ông bác sĩ bảo bà cần uống cái này’. Ông có nghĩ là bà ấy lại không nuốt ực viên thuốc ấy một cách ngoan ngoãn mà không thèm nghĩ lại không?”

Lại một sự im lặng, ông Blore chuyển thế đứng với vẻ trầm tư. Philip Lombard góp lời: “Tôi không tin câu chuyện đó dù chỉ là một chút. Với lại chẳng ai trong số chúng ta lại rời căn phòng này sau đó cả. Có cái chết của Marston và mấy chuyện kia nữa mà.”

Thẩm phán cũng góp thêm ý kiến: “Ai đó có thể rời khỏi phòng ngủ của mình - vào lúc sau.”

Lombard phản đối: “Nhưng thế thì lúc đó Rogers ở trên đó rồi.”

Bác sĩ Armstrong cựa mình.

“Không,” ông nói. “Rogers đã đi xuống nhà để dọn dẹp phòng ăn và tủ đồ ăn rồi. Bất cứ ai cũng có thể vào phòng người phụ nữ mà không bị phát hiện.”

Cụ Emily Brent hỏi vặc lại: “Bác sĩ, ông chắc là khi đó người phụ nữ đã chìm vào giấc ngủ sâu nhờ tác dụng của thuốc mà ông đưa chứ?”

“Trong mọi trường hợp thì đúng thế. Nhưng cũng không phải là chắc ăn. Nếu ta không kê đơn thuốc cho một bệnh nhân hơn hai lần thì không thể nào đoán được phản ứng của bệnh nhân với liều thuốc khác nhau. Có khi, cần mất một khoảng thời gian đáng kể thì thuốc mới có tác dụng. Nó còn phụ thuộc vào cơ địa của người bệnh đối với mỗi loại thuốc cụ thể.”

Lombard nói: “Tất nhiên là ông sẽ nói thế rồi, bác sĩ. Thuận cho ông chứ, hả?”

Một lần nữa khuôn mặt của Armstrong đanh lại vì giận dữ.

Nhưng vẫn là cái giọng vô cảm, thấp tông kia đã ngăn lời ông chực nói ra.

“Sẽ chẳng có kết quả gì nếu chỉ phản bác lại lời buộc tội đâu. Sự thật mới là những gì mà chúng ta phải đối mặt. Thế là đã rõ, tôi nghĩ, giả thiết mà tôi nghĩ đến là có thể xảy ra. Tôi cũng đồng ý rằng khả năng xảy ra không cao lắm; nhưng dù gì thì, nó cũng còn tùy thuộc vào chuyện người đó là ai nữa. Sự xuất hiện của cô Claythorne hay bà Brent ở khu đó sẽ không gây ra sự ngạc nhiên nào cho người bệnh. Tôi đồng ý là sự xuất hiện của bản thân tôi, nói nhẹ nhất cũng là bất thường, nhưng tôi vẫn nghĩ là chuyến viếng thăm ấy cũng sẽ không gây ra một sự nghi ngờ nào.”

Ông Blore thắc mắc: “Vậy tất cả chuyện này dẫn chúng ta tới - đâu?”

Ông thẩm phán Wargrave đang vân vê mấy ngón tay quanh cái miệng của mình, nom ông hoàn toàn vô cảm và lạnh lùng, phát biểu: “Giờ chúng ta đã đi đến vụ giết người thứ hai, và thống nhất là không ai trong số chúng ta ngoại phạm cả.”

Ông dừng lại rồi nói tiếp.

“Giờ thì chúng ta đi đến cái chết của tướng Macarthur. Chuyện xảy ra vào sáng nay. Tôi sẽ hỏi xem có ai cho rằng mình có chứng cớ ngoại phạm hay không để được trình bày rõ. Bản thân tôi sẽ nói ngay là tôi không có chứng cứ ngoại phạm rõ ràng nào. Tôi đã dành cả buổi sáng ngồi ngoài hiên và tĩnh tâm suy ngẫm về cái tình huống mà chúng ta bị đặt vào. Tôi ngồi trong chiếc ghế chỗ hiên nhà ấy cả buổi sáng cho tới khi có tiếng chuông kêu, nhưng cũng có những lúc mà tôi nghĩ là mình hoàn toàn không bị giám sát để có thể đi ra bãi biển, giết ông tướng, rồi quay trở lại chỗ ngồi. Chỉ có lời nói của tôi bảo vệ cho chuyện là tôi không hề rời hiên nhà. Trong hoàn cảnh mà điều đó không đủ, thì phải có bằng chứng.”

Ông Blore nói tiếp: “Tôi ở cùng với anh Lombard và bác sĩ Armstrong cả buổi sáng. Họ có thể chứng thực chuyện đó.”

Bác sĩ Armstrong xác nhận: “Ông có vào nhà tìm dây thừng mà.”

Ông Blore trả lời: “Tất nhiên rồi, tôi có vào nhà. Đi thẳng đến đó rồi quay ngay trở lại. Ông biết là thế mà.”

Bác sĩ Armstrong khẳng định: “Ông đã mất khá nhiều thời gian…”

Ông Blore mặt đỏ phừng phừng. Ông ta xẵng giọng: “Ông có ý đồ gì khi nói thế, hả bác sĩ Armstrong?”

Armstrong nhắc lại: “Tôi chỉ nói là ông đã mất nhiều thời gian thôi.”

“Còn phải đi tìm nữa chứ, đúng không? Không phải chỉ một giây là đã tìm thấy cuộn dây thừng.”

Ông thẩm phán Wargrave hỏi tiếp: “Trong khi thám tử Blore vắng mặt, hai người ở lại với nhau phải không?”

Armstrong nóng nảy đáp: “Tất nhiên rồi. Lúc đó, Lombard đi đâu đó mất một, hai phút. Còn tôi thì đứng nguyên tại chỗ.”

Lombard mỉm cười nói: “Tôi muốn kiểm tra khả năng dùng gương phản quang để báo tới đất liền. Muốn tìm được chỗ tốt nhất. Tôi cũng chỉ vắng mặt khoảng một, hai phút thôi.”

Armstrong gật đầu, ông nói: “Đúng thế. Không đủ thời gian để giết ai cả, tôi chắc chắn với ông như vậy.”

Ông thẩm phán nêu nhận xét: “Hai người có xem đồng hồ không?”

“À, không.”

Philip Lombard nói: “Tôi không đeo.”

Thẩm phán trả lời với vẻ bình tĩnh: “Một hay hai phút là cách nói không được rõ ràng cho lắm.”

Ông quay đầu sang cái hình thù thẳng đuột đang ngồi với que đan trong lòng.

“Bà Brent?”

Cụ Emily Brent cất tiếng: “Tôi đi dạo với cô Claythorne lên tới đỉnh đồi trên đảo. Sau đó thì tôi ngồi chỗ hiên nhà dưới ánh nắng trời.”

Thẩm phán nói ngay: “Tôi không nhớ là có nhìn thấy bà ở đó.”

“Không, tôi đứng ở góc phía đông căn nhà. Nơi đó không có gió.”

“Và bà ngồi đó cho đến tận bữa trưa ư?”

“Đúng thế.”

“Còn cô Claythorne?”

Vera trả lời với vẻ sẵn sàng và rành rọt: “Tôi đi cùng bà Brent vào sáng nay. Lúc sau tôi có đi loanh quanh một lúc. Rồi tôi đi xuống và nói chuyện với tướng Macarthur.”

Ông thẩm phán Wargrave chen ngang. Ông nói: “Lúc đó là mấy giờ?”

Lần đầu tiên Vera tỏ vẻ không mấy chắc chắn. Cô đáp: “Tôi không biết nữa. Khoảng một tiếng trước bữa ăn trưa, tôi đoán vậy - hoặc có khi còn sớm hơn.”

Ông Blore hỏi: “Lúc đó là trước khi chúng tôi nói chuyện với ông ấy hay là sau đó vậy?”

Vera đáp: “Tôi không rõ. Ông ấy - ông ấy đã rất kỳ cục.”

Cô run lên.

“Kỳ cục như thế nào cơ?” Thẩm phán trở nên thắc thỏm.

Vera trả lời với giọng trầm trầm: “Ông ấy nói là chúng ta đều sắp chết - ông ấy nói là ông ấy đang đợi đến ngày kết thúc, ông ấy - ông ấy khiến tôi sợ…”

Thẩm phán gật gù. Ông tiếp lời: “Cô làm gì sau đó?”

“Tôi quay trở lại căn nhà. Sau đó, ngay trước bữa ăn, tôi lại ra ngoài lần nữa và leo lên con dốc phía sau ngôi nhà. Tôi như không nghỉ cả ngày hôm nay.”

Thẩm phán Wargrave mân mê cái cằm của mình, ông nói: “Vậy là còn Rogers. Tuy nhiên tôi nghi là bằng chứng của ông ấy cũng chẳng thêm được điều gì cho chúng ta cả.”

Rogers, được triệu đến trước ‘tòa’, và có rất ít thứ để kể. Ông ta đã bận bịu cả buổi sáng vì mấy việc nhà và chuẩn bị bữa trưa. Ông đã đem mấy ly cocktail ra hiên nhà ngay trước bữa trưa rồi lên thu dọn đồ đạc từ căn gác mái sang một căn phòng khác. Ông đã không hề nhìn qua cửa sổ suốt cả sáng nên chẳng nhìn thấy điều gì có thể liên quan tới cái chết của tướng Macathur. Ông kiên quyết thề rằng đã có tám bức tượng sứ trên bàn ăn khi ông đi dọn bữa.

Khi chứng cứ của Rogers đến hồi kết thì lại có một khoảng dừng.

Ông thẩm phán Wargrave tằng hắng giọng.

Lombard thì thầm với Vera Claythorne: “Màn kết luận sắp bắt đầu rồi đây.”

Thẩm phán nói: “Chúng ta đã cố gắng hết khả năng để điều tra về hoàn cảnh của ba cái chết này rồi. Trong khi một vài tình huống có vẻ chống lại một số người, chúng ta vẫn chưa thể nói một cách chắc chắn rằng có người nào là miễn được mọi sự rắc rối. Tôi muốn nhắc lại niềm tin chắc chắn của mình rằng một trong số bảy người chúng ta là người nguy hiểm và có thể là một tên giết người mất trí. Chưa có bằng chứng nào hiện có ở đây để chỉ ra được người đó là ai. Tất cả những gì chúng ta có thể làm được vào thời điểm hiện tại là xem xét các phương tiện có thể dùng để liên lạc với đất liền nhờ giúp đỡ, và nếu sự cứu giúp có bị trì hoãn (mà với thời tiết như thế này là hoàn toàn có thể) thì chúng ta cần dùng phương pháp nào để bảo đảm an toàn.

“Tôi muốn yêu cầu mọi người hãy coi chuyện này kỹ càng và đưa ra bất kỳ gợi ý nào mà mọi người nghĩ ra. Trong lúc này tôi cảnh báo mọi người nên thật cảnh giác. Cho đến giờ tên sát nhân vẫn đang thực hiện nhiệm vụ một cách dễ dàng, bởi nạn nhân của hắn quá mất cảnh giác. Từ giờ trở đi, nhiệm vụ của chúng ta là phải nghi ngờ mỗi người còn lại. Cảnh giác trước chính là phòng vệ bản thân trước. Đừng nên mạo hiểm và luôn ý thức được hiểm nguy. Chỉ có vậy thôi.”

Philip Lombard nói thầm: “Tòa án đã đến giờ giải tán…”