← Quay lại trang sách

Chương 8 MÙA THU 2010

Tối nay, tôi từ bệnh viện về nhà thì thấy có tin nhắn của Thalia trên điện thoại bàn trong phòng ngủ. Tôi bật nó lên trong lúc cởi giày rồi ngồi vào bàn. Cô bảo tôi cô bị cảm lạnh, mà cô chắc chắn là bị lây từ Mamá*, rồi cô hỏi thăm tôi, hỏi xem công việc của tôi ở Kabul thế nào. Cuối cùng, trước khi cúp máy, cô nói, Cô Odie suốt ngày hỏi sao cậu không gọi điện. Tất nhiên là bà không bảo cậu rồi. Thế thì tôi đành nhắc thay vậy. Markos. Vì tình yêu của Chúa. Gọi cho mẹ cậu đi. Cậu là đồ con lừa.

Chu Thich: Mẹ (tiếng Hy Lạp).

Tôi mỉm cười.

Thalia.

Tôi giữ một bức ảnh của cô trên bàn, bức ảnh tôi đã chụp nhiều năm về trước trên bãi biển ở đảo Tinos - Thalia ngồi trên một tảng đá, lưng quay về phía ống kính. Tôi đã đóng khung bức ảnh, dù nếu nhìn kỹ, ta vẫn có thể thấy một đốm nhỏ màu nâu sẫm ở góc trái bên dưới do một cô gái Italia khùng điên từng tìm cách đốt nó nhiều năm trước.

Tôi bật laptop lên và bắt đầu gõ biên bản phẫu thuật ngày hôm trước. Phòng tôi ở tầng trên - một trong ba phòng ngủ trên tầng hai ngôi nhà nơi tôi sống từ khi đến Kabul hồi năm 2002 - còn bàn làm việc của tôi ở bên cửa sổ nhìn xuống khu vườn phía dưới. Từ đây tôi có thể nhìn ra những cây sơn trà mà người chủ nhà cũ của tôi, Nabi, và tôi đã trồng mấy năm trước. Tôi cũng có thể thấy nơi một thời là chỗ ở của Nabi dọc theo bức tường sau, giờ đã được sơn sửa lại. Sau khi cụ qua đời, tôi dành chỗ này cho một anh bạn trẻ người Hà Lan đang giúp học sinh trong vùng học công nghệ thông tin. Còn bên phải là chiếc Chevrolet đời 1940 của Suleiman Wahdati, nằm đó hàng chục năm trời, phủ một lớp gỉ sét như rêu phủ đá, giờ bị lấp dưới lớp tuyết mỏng bất ngờ rơi sớm vào hôm qua, đợt tuyết đầu tiên trong năm tính đến thời điểm này. Sau khi Nabi mất, tôi đã thoáng nghĩ là sẽ tống nó đến một bãi phế liệu ở Kabul, nhưng không nỡ. Với tôi, nó dường như là một phần quan trọng không thể vứt bỏ trong quá khứ của ngôi nhà này, là một phần lịch sử của nó.

Tôi viết xong biên bản và xem đồng hồ. Đã chín rưỡi tối. Bảy giờ tối ở Hy Lạp.

Gọi cho mẹ cậu đi. Cậu là đồ con lừa.

Nếu tối nay tôi phải gọi cho Mamá, thì tôi không thể trì hoãn thêm nữa. Tôi nhớ có lần Thalia đã viết trong e-mail rằng Mamá càng ngày càng đi ngủ sớm hơn. Tôi hít một hơi và cố trấn tĩnh bản thân. Tôi cầm ống nghe lên và quay số.

❆❆❆

Tôi gặp Thalia vào mùa hè năm 1967, khi tôi mười hai tuổi. Cô và mẹ cô, Madaline, đến Tinos thăm Mamá và tôi. Mamá, Odelia, nói rằng bà và người bạn Madaline đã không gặp nhau hàng năm trời, chính xác là mười lăm năm. Madaline rời đảo năm mười bảy tuổi và đến Athens để trở thành, ít nhất trong một thời gian ngắn, một diễn viên nổi tiếng trung bình.

“Ta không ngạc nhiên đâu,” Mamá nói, “khi nghe nhắc đến diễn xuất của cô ấy. Nhờ có ngoại hình đấy. Ai ai cũng bị cô ấy hớp hồn. Tự con sẽ thấy khi gặp cô ấy.”

Tôi hỏi Mamá tại sao không bao giờ nhắc đến bạn mình.

“Thật ư? Con có chắc không đấy?”

“Con chắc mà.”

“Rõ ràng là có.” Rồi bà nói, “Cô con gái. Thalia ấy. Con phải ý tứ với cô bé vì nó từng gặp tai nạn. Bị chó cắn. Cô bé có một vết sẹo.”

Mamá không nói gì thêm, và tôi biết tốt hơn là chẳng nên hỏi bà nữa. Nhưng sự hé lộ này khiến tôi chú ý còn hơn cả tới quá khứ của Madaline trong những bộ phim hay vở kịch trên sân khấu, sự tò mò của tôi được thổi bùng lên bởi nỗi nghi ngờ, rằng vết sẹo hẳn phải to và dễ thấy lắm thì cô bé mới cần được đối xử tế nhị đặc biệt như vậy. Với sự háo hức bệnh hoạn, tôi mong chờ được chính mắt nhìn thấy vết sẹo đó.

“Madaline và ta gặp nhau ở Thánh lễ hồi nhỏ,” Mamá nói. Ngay tức thì, bà tiếp, họ trở thành những người bạn thân thiết. Họ nắm tay nhau dưới bàn trong lớp học, hay giờ nghỉ giải lao, ở nhà thờ, hay tản bộ trên những cánh đồng lúa mạch. Họ thề sẽ là chị em cả đời. Họ hứa sẽ sống gần nhau, kể cả sau khi lập gia đình. Họ sẽ sống như những người hàng xóm, và nếu một trong hai ông chồng kiên quyết chuyển đi, thì họ sẽ đòi ly hôn. Tôi nhớ Mamá đã ngoác miệng cười một chút khi kể tôi nghe tất cả những chuyện này với vẻ tự giễu, như thể để tách mình khỏi sự khờ dại và háo hức tuổi trẻ, tất cả những hứa hẹn hấp tấp và dồn dập. Nhưng tôi thấy trên mặt bà còn có cả vẻ tổn thương không thốt thành lời, một bóng đen thất vọng mà Mamá quá kiêu hãnh để thừa nhận.

Giờ Madaline đã kết hôn với một người đàn ông giàu có và già hơn bà nhiều tuổi, một ông Andreas Gianakos, người mà mấy năm trước đã sản xuất bộ phim thứ hai, mà té ra cũng là bộ phim cuối cùng của bà. Hiện ông làm trong ngành xây dựng và sở hữu một công ty lớn ở Athens. Gần đây họ có chút hục hặc, cãi cọ gì đấy, Madaline và ông Gianakos ấy. Mamá không hề kể cho tôi nghe chuyện này; tôi biết được là nhờ vội vàng đọc trộm một phần lá thư mà Madaline gửi Mamá để báo là sắp đến thăm.

Quanh quẩn bên Andreas và đám bạn thủ cựu của ông ta cùng thứ âm nhạc võ hiệp của họ ngày càng khiến mình mệt mỏi, nói cho cậu biết nhé. Lúc nào mình cũng phải nín nhịn. Mình không nói gì khi bọn họ tán tụng đám phiến loạn giễu nhại nền dân chủ của chúng mình. Nếu chỉ hở ra một lời bất đồng thôi, mình tin chắc sẽ bị dán nhãn là một kẻ theo chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ, và thế là bất chấp ảnh hưởng của Andreas, mình cũng sẽ bị tống vào ngục tù. Mà có lẽ ông ta cũng chẳng buồn sử dụng nó, sức ảnh hưởng của ông ta ấy. Đôi khi mình tin rằng hẳn là ông ta cố tình khích động mình công kích chính bản thân. À mà, mình nhớ cậu lắm, Odie thân mến của mình. Mình nhớ sự bầu bạn của cậu biết mấy…

Ngày các vị khách của tôi dự định đến, Mamá dậy sớm dọn dẹp. Chúng tôi sống trong một ngôi nhà nhỏ trên sườn đồi. Như nhiều ngôi nhà khác ở Tinos, nó được làm từ đá sơn trắng, mái bằng, với những viên ngói đỏ hình thoi. Phòng ngủ nhỏ tầng trên mà Mamá và tôi dùng chung không có cửa - cầu thang hẹp dẫn thẳng vào đó - nhưng nó có hẳn một khung cửa sổ hình bán nguyệt và khoảng hiên be bé với lan can bằng thép rèn cao ngang hông, mà từ đó ta có thể nhìn ra mái những ngôi nhà khác, vườn cây ô liu và bầy dê cùng những con ngõ lát đá ngoằn ngoèo và cửa tò vò bên dưới, và tất nhiên, biển Aegea, xanh hiền hòa trong buổi sáng mùa hè, rồi chiều buông lại hóa thành những ngọn sóng trắng vỗ bờ, khi những cơn gió meltemi* thổi đến từ phương Bắc.

Chu Thich: Gió thổi từ phương Bắc.

Dọn dẹp xong, Mamá khoác lên mình bộ trang phục được bà cho là đẹp, bộ mà bà vẫn mặc vào ngày mười lăm tháng Tám mỗi năm, nhân Lễ Đức Mẹ Lên Trời tại nhà thờ Panagia Evangelistria, khi những người hành hương tứ xứ kéo đến Tinos từ khắp Địa Trung Hải để cầu nguyện trước biểu tượng nổi tiếng của nhà thờ. Có một bức ảnh mẹ tôi trong bộ trang phục đó - chiếc váy vàng dài cổ tròn, giản dị bạc màu, áo len trắng rúm ró, tất và đôi giày đen thô kệch. Mamá trông đúng kiểu một bà góa cau có với khuôn mặt ghê gớm, chân mày rậm, mũi hếch, đứng thẳng đơ, nom sùng đạo một cách u sầu như thể chính bà là một người hành hương vậy. Tôi cũng có mặt trong bức ảnh đó, đứng cứng đờ bên hông mẹ. Tôi vận áo sơ mi trắng, quần soóc trắng, và tất trắng dài đến đầu gối, mép gập lại. Nhìn tôi nhăn nhó là biết tôi bị bắt đứng thẳng, không được cười, rằng tôi không hề thích và còn tức điên lên khi bị lau mặt và chải tóc bằng nước. Người ta có thể cảm nhận thấy sự bất mãn lồ lộ giữa chúng tôi. Người ta nhận thấy qua dáng đứng cứng đơ, qua cách chúng tôi hầu như không chạm vào nhau.

Hoặc cũng có thể là không. Nhưng lần nào xem bức ảnh đó, tôi cũng nhìn ra, lần cuối cùng là cách đây hai năm. Tôi không thể không nhìn ra vẻ đề phòng, sự gồng mình, nỗi sốt ruột. Tôi không thể không nhìn ra hai con người bên nhau chỉ vì nghĩa vụ về gien, bị đày đọa để làm nhau bối rối và thất vọng, mỗi người đều vì danh dự mà thách thức lẫn nhau.

Từ cửa sổ phòng ngủ trên gác, tôi nhìn theo Mamá rời cảng trên một con phà ở thị trấn Tinos. Khăn buộc dưới cằm, Mamá chúi đầu lao vào ngày nắng xanh ngắt. Bà là một phụ nữ mảnh mai, xương nhỏ với cơ thể như trẻ con, nhưng khi bạn thấy bà đi về phía mình, tốt hơn là bạn nên để bà qua. Tôi nhớ bà từng đưa tôi đi học mỗi sáng - mẹ tôi giờ đã về hưu, nhưng bà từng là giáo viên. Khi đi, Mamá chẳng bao giờ nắm tay tôi. Những bà mẹ khác vẫn làm vậy với con mình, nhưng Mamá thì không. Bà nói bà phải đối xử với tôi như với mọi học sinh khác. Bà bước đều phía trước, nắm tay co lại trước cổ áo len, còn tôi cố đuổi theo, hộp cơm trưa trong tay, lon ton sau bước chân bà. Tôi luôn ngồi cuối lớp. Tôi nhớ mẹ tôi nơi bảng đen, nhớ cách bà trị một học sinh hư với một cái nhìn sắc như dao cạo, như một hòn đá từ chiếc ná, chuẩn xác như trong một ca phẫu thuật. Và bà có thể chẻ đôi ta chỉ bằng ánh mắt u ám hay một nốt lặng đột ngột.

Mamá tin vào lòng trung thành hơn hết thảy, kể cả khi phải hy sinh lợi ích của mình. Nhất là khi phải hy sinh lợi ích của mình. Bà cũng tin rằng nói thẳng, nói thật, không vòng vo, luôn là cách tốt nhất, và sự thật càng khó nghe thì ta lại càng phải nói. Bà không có kiên nhẫn để rào trước đón sau. Bà đã là - lúc nào cũng là - một phụ nữ có ý chí mạnh mẽ, một phụ nữ không bao giờ nói lời xin lỗi, và cũng là một phụ nữ mà với bà ta không muốn bất hòa - dẫu cho tôi không bao giờ thực sự hiểu, kể cả bây giờ, rằng tính khí của bà là do trời sinh hay vì hoàn cảnh mà thành ra như vậy, với một ông chồng hấp hối chưa đầy một năm sau khi cưới và bỏ lại bà một thân một mình nuôi con khôn lớn.

Tôi thiếp ngủ một lát trên gác sau khi Mamá đi. Rồi giật nảy mình tỉnh giấc khi nghe thấy một giọng nữ cao chói lói. Tôi ngồi dậy thì thấy bà, tất cả những son môi, phấn, nước hoa, đường cong mảnh mai, như thể một nữ tiếp viên trong những quảng cáo hàng không đang mỉm cười nhìn xuống tôi qua lớp mạng mỏng của chiếc mũ. Bà đứng giữa phòng trong chiếc váy ngắn màu xanh nê ông, chiếc va li da đặt dưới chân, tóc nâu vàng, chân tay dài, tươi cười với tôi, vẻ mặt rạng rỡ, và thao thao bất tuyệt, giọng nói tràn ngập sự tự tin và vui vẻ.

“Ra cháu là Markos bé bỏng của Odie. Cô ấy không nói cho cô biết là cháu lại đẹp trai thế! Ồ, cô thấy hình bóng cô ấy ở cháu, qua đôi mắt ấy - phải rồi, hai người có đôi mắt giống nhau, cô nghĩ thế, cô chắc là cháu nghe người khác nói thế rồi. Cô rất vui được gặp cháu. Mẹ cháu và cô - bọn cô - ồ chắc chắn Odie nói với cháu rồi, để cháu có thể mường tượng, có thể hình dung ra, rằng gặp hai người bọn cháu, gặp cháu, Markos ạ, làm cô phấn khích quá. Markos Varvaris! Ừm, cô là Madaline Gianakos, và cô xin phép được nói là, cô mừng lắm.”

Bà cởi đôi găng tay xa tanh màu kem dài đến khuỷu tay ra, loại mà tôi chỉ thấy trong những cuốn tạp chí, trên tay những quý cô thanh lịch đi dự dạ hội, hút thuốc trên những bậc thang rộng của nhà hát hay được đỡ xuống khỏi chiếc xe hơi đen bóng lộn, khuôn mặt sáng bừng bởi những bóng đèn flash lách tách. Bà phải giật từng đầu ngón tay cả chục lần mới tháo được găng ra, và rồi bà hơi cúi người chìa tay về phía tôi.

“Hân hạnh,” bà nói. Tay bà mềm mát dù vừa đeo găng. “Còn đây là con gái cô, Thalia. Con yêu, chào cậu Markos Varvaris đi.”

Cô đứng bên mẹ nơi ngưỡng cửa, nhìn tôi với ánh mắt vô hồn, một cô gái cao gầy, da xanh xao với những lọn tóc xoăn mềm rũ. Ngoài thế ra, tôi chẳng thể miêu tả gì hơn. Tôi chẳng thể tả lại màu chiếc váy cô mặc hôm đó là gì - đúng vậy, nếu hôm ấy cô mặc váy - hay kiểu giày của cô, hoặc giả cô có đi tất không, có đeo đồng hồ, vòng cổ, nhẫn hay khuyên tai không. Tôi chẳng thể miêu tả gì, bởi nếu ta đang ở nhà hàng và có ai đó bỗng nhiên lột đồ ra, nhảy phóc lên bàn, rồi bắt đầu tung hứng mấy chiếc thìa cho món tráng miệng, thì ta sẽ không chỉ nhìn thôi đâu, mà đó sẽ là thứ duy nhất ta có thể nhìn. Tấm mạng che nửa dưới khuôn mặt cô gái cũng giống như vậy. Nó che khuất bất cứ sự quan sát nào.

“Thalia, chào hỏi đi con yêu. Đừng bất lịch sự thế.”

Tôi nghĩ là mình nhìn thấy một cái gật đầu khe khẽ.

“Chào cậu,” tôi đáp mà lưỡi cảm giác như giấy nhám. Có gì đó lăn tăn trong không khí. Một dòng điện. Tôi cảm thấy mình bị hút vào một thứ nửa hồi hộp, nửa hãi sợ, một thứ trỗi dậy trong tôi rồi co cuộn lại. Tôi cứ nhìn chằm chằm, tôi biết mà không thể dừng lại, không thể rời mắt khỏi tấm mạng xanh màu trời, khỏi hai sợi dây buộc sau đầu cô, khỏi đường xẻ ngang phía trên khuôn miệng. Tôi biết ngay rằng nhìn thứ bên dưới đó là một việc quá sức chịu đựng với tôi, cho dù tấm mạng đó che giấu điều gì. Vậy mà tôi vẫn nóng lòng được biết. Không gì trong cuộc đời tôi có thể quay lại chiều hướng, nhịp điệu và trật tự cũ được nữa cho tới khi tôi tận mắt thấy cái thứ kinh khủng, đáng sợ đến nỗi tôi và những người khác phải được che chắn khỏi nó.

Một khả năng khác, là tấm mạng có lẽ được thiết kế để bảo vệ Thalia khỏi chúng tôi, để né tránh tôi. Ít nhất nó đã có tác dụng trong những giây phút khó xử của cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy.

Madaline và Thalia ở trên gác dỡ đồ trong khi Mamá hì hục mổ cá bơn cho bữa nhẹ trong bếp. Bà bảo tôi pha cho Madaline một tách ellinikós kafés*, tôi vâng lời, rồi bà bảo tôi mang lên tận nơi, trên một cái khay kèm theo một đĩa pastelli* nhỏ, tôi cũng vâng lời nốt.

Chu Thich: Cà phê truyền thống của Hy Lạp, được pha trong bình có tay cầm dài.

Chu Thich: Bánh mè mật ong.

Hàng chục năm sau, nỗi hổ thẹn vẫn trào dâng trong tôi như một thứ chất lỏng ấm và dính khi nhớ về những gì xảy ra sau đó. Tới ngày hôm nay tôi vẫn có thể hình dung ra cảnh tượng ấy, như trong một tấm ảnh, bất động. Madaline đứng bên cửa sổ phòng ngủ hút thuốc, nhìn xuống biển qua cặp kính râm mắt vàng, một tay đặt lên hông, mắt cá chân bắt tréo. Chiếc mũ mạng nằm trên mặt bàn phấn. Phía trên bàn phấn là một chiếc gương, và trong gương là Thalia, ngồi trên mép giường, lưng quay về phía tôi. Cô đang cúi xuống làm gì đó, có lẽ đang cởi dây giày, và tôi có thể thấy cô đã bỏ mạng ra. Nó nằm kế bên cô trên giường. Cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi và tôi cố kìm lại, nhưng tay tôi cứ run rẩy, khiến chiếc tách sứ kêu lanh canh trên đĩa lót, khiến Madaline từ cửa sổ quay lại nhìn tôi, khiến Thalia ngước lên. Tôi thấy hình phản chiếu của cô trong gương.

Chiếc khay tuột khỏi tay tôi. Sứ vỡ tung tóe. Thứ chất lỏng nóng túa ra và chiếc khay rơi loảng xoảng xuống bậc thang. Cảnh tượng đột ngột trở nên hỗn loạn, tôi bò trên tứ chi, nôn khan lên những mảnh sứ vỡ, Madaline thì luôn miệng, “Ôi trời. Ôi trời,” còn Mamá chạy lên cầu thang hét lớn, “Chuyện gì thế? Con làm gì thế, Markos?”

Con bé bị chó cắn, Mamá đã cảnh báo tôi như vậy. Nó có một vết sẹo. Chó không cắn vào mặt Thalia; mà là đã ăn nó. Và có lẽ trên đời có rất nhiều từ ngữ để diễn tả những gì tôi thấy trong gương ngày hôm ấy, nhưng sẹo không phải một trong số đó.

Tôi nhớ Mamá đã túm vai tôi, kéo tôi đứng dậy, xoay lại mà hỏi, “Con làm sao vậy? Có chuyện gì không ổn với con vậy?” Và tôi nhớ bà ngước qua đầu tôi. Cái nhìn của bà đóng băng tại chỗ. Lời lẽ chết cứng trong miệng. Khuôn mặt thất thần. Tay buông thõng khỏi vai tôi. Và rồi tôi chứng kiến cảnh tượng lạ thường nhất đời, sánh ngang với việc tôi nhìn thấy đích thân vua Constantine xuất hiện nơi ngưỡng cửa nhà chúng tôi trong bộ đồ chú hề: một giọt nước mắt rưng rưng nơi khóe mắt phải của mẹ.

❆❆❆

“Vậy cô ta thế nào?” Mamá hỏi.

“Ai ạ?”

“Ai? Cái cô người Pháp chứ ai. Cháu gái của ông chủ nhà, giáo sư từ Paris ấy.”

Tôi đổi ống nghe sang tai kia. Thật ngạc nhiên là mẹ nhớ. Cả đời này, tôi có cảm giác mọi lời tôi nói với Mamá đều chẳng lọt vào tai bà, như thể đường dây kết nối kém, giữa chúng tôi chẳng có gì khác ngoài tiếng nhiễu sóng. Đôi khi tôi gọi cho bà từ Kabul, như lúc này, tôi cảm giác như thể bà khẽ khàng đặt ống nghe xuống rồi đi mất, rằng tôi đang nói chuyện vào hư không qua các lục địa - dù tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của bà trên đường dây và nghe thấy tiếng thở của bà trong tai tôi. Những lần khác, tôi đang kể cho bà nghe chuyện tôi chứng kiến ở bệnh viện - một cậu bé đầy máu me được cha bế vào viện, ví dụ thế, những mảnh đạn găm sâu vào má nó, một tai đứt rời, một nạn nhân khác của việc chơi trên nhầm phố vào nhầm thời điểm lúc nhầm ngày - và rồi, đột ngột, một tiếng động lớn vang lên, giọng Mamá bỗng xa dần rồi nghèn nghẹt, lên bổng xuống trầm, tiếng vang của bước chân, của một vật bị kéo lê trên sàn, và tôi im lặng, đợi đến khi bà quay lại, việc mà cuối cùng bà cũng làm, luôn là với giọng gần hết hơi, lên tiếng giải thích, Ta đã bảo nó là ta đứng không sao đâu. Ta nói rõ ràng thế. Ta bảo, “Thalia này, ta muốn đứng bên cửa sổ nhìn xuống nước lúc nói chuyện với Markos.” Nhưng nó cự lại là, “Cô sẽ mệt đấy, Odie, cô phải ngồi xuống.” Chớp mắt một cái nó đã kéo cái ghế bành ra - cái ghế da to oành mà nó mua cho ta năm ngoái ấy - nó kéo ra tận cửa sổ. Trời ơi, nó khỏe khiếp. Con chưa nhìn thấy cái ghế bành đó đâu, tất nhiên rồi. Ừm, tất nhiên rồi. Rồi bà thở dài với vẻ cáu tiết giả vờ và bảo tôi kể tiếp đi, nhưng đến lúc đó thì tôi chẳng còn tâm trạng nào mà kể nữa. Tác động bao trùm chính là bà khiến tôi mơ hồ cảm thấy bị trách cứ, thêm nữa, còn đáng bị thế, áy náy về những điều sai trái không được nói ra, về những điều gây mất lòng mà tôi chưa bao giờ chính thức bị kết tội. Dù cho tôi có kể tiếp đi chăng nữa, thì chính tôi cũng thấy câu chuyện chẳng còn gì đáng kể. Nó không thể sánh nổi với vở kịch chiếc ghế bành của Mamá với Thalia.

“Mà tên cô ta là gì ấy nhỉ?” Mamá hỏi. “Pari thì phải, đúng không nhỉ?”

Tôi đã kể cho Mamá nghe về Nabi, người bạn tốt của tôi. Bà cũng chỉ biết sơ qua về cuộc đời ông. Bà biết rằng trong di chúc, ông đã để lại ngôi nhà ở Kabul cho cháu gái mình, Pari, người lớn lên ở Pháp. Nhưng tôi chưa kể với Mamá về Nila Wahdati, cuộc chạy trốn của bà tới Paris sau cơn đột quỵ của chồng, hàng thập kỷ mà Nabi đã dành để chăm sóc Suleiman. Câu chuyện đó. Có quá nhiều sự kiện song song như những chiếc boomerang. Như đọc to bản cáo trạng của chính mình vậy.

“Pari. Vâng. Chị ấy cũng dễ mến,” tôi nói. “Và ấm áp nữa. Quá mức dễ mến và ấm áp so với một người làm nghiên cứu.”

“Cô ta làm gì ấy nhỉ, nhà hóa học à?”

“Nhà toán học ạ,” tôi đáp, đoạn đóng nắp laptop lại. Trời lại đổ tuyết, nhẹ nhàng, những bông tuyết nhỏ xoay tròn trong bóng tối, liệng mình vào cửa sổ.

Tôi kể cho Mamá nghe về chuyến viếng thăm của Pari Wahdati vào cuối mùa hè vừa qua. Chị thật sự rất đáng mến. Tao nhã, mảnh mai, mái tóc bạc, chiếc cổ dài với đường gân xanh hằn rõ mỗi bên, nụ cười khuyết răng ấm áp. Nom chị hơi yếu và già hơn tuổi. Bệnh thấp khớp nặng, nhất là ở đôi bàn tay nổi cục, dù vẫn hoạt động được, nhưng ngày đó sắp đến và chị biết điều ấy. Nó khiến tôi nghĩ tới Mamá và ngày sắp đến của bà.

Pari Wahdati lưu lại một tuần với tôi trong ngôi nhà ở Kabul. Tôi đã dẫn chị đi tham quan một vòng khi chị mới từ Paris đến. Chị nhìn thấy ngôi nhà lần cuối là vào năm 1955 và tỏ ra ngỡ ngàng trước trí nhớ sinh động của chính mình về nơi này, thiết kế chung của nó, hai bậc thang nối giữa phòng khách và phòng ăn, ví dụ thế, nơi chị bảo từng ngồi đọc sách trong những buổi sáng ngập nắng. Chị ngạc nhiên khi ngôi nhà lại nhỏ hơn nhiều so với phiên bản trong trí nhớ của mình. Khi tôi dẫn chị lên lầu, chị biết nơi nào từng là phòng ngủ của chị, dù hiện tại đây là nơi ở của hai đồng nghiệp người Đức làm việc cho Chương trình Lương thực Thế giới. Tôi nhớ chị đã thở dốc khi nhìn thấy chiếc tủ quần áo thấp bé trong góc phòng - một trong những dấu tích còn lại của thời thơ ấu. Tôi nhớ đã đọc được điều đó trong lời nhắn Nabi gửi cho tôi trước khi qua đời. Chị ngồi xổm bên chiếc tủ và lướt đầu ngón tay trên lớp sơn vàng nứt nẻ, những con hươu cao cổ và những chú khỉ đuôi dài đã mờ phai trên cánh cửa. Khi chị ngước lên nhìn tôi, tôi thấy mắt chị ngấn lệ, và chị hỏi, vẻ hết sức ngại ngùng và có lỗi, rằng liệu chị có thể chuyển nó về Paris được không. Chị đề nghị trả tiền để tôi mua cái khác. Đó là thứ duy nhất trong nhà mà chị muốn. Tôi bảo chị không phải ngại gì cả.

Cuối cùng, ngoài chiếc tủ quần áo mà tôi chuyển cho chị vài ngày sau khi chị rời đi, Pari Wahdati trở về Pháp mà không đem theo gì nhiều nhặn ngoài tập giấy vẽ của Suleiman Wahdati, lá thư của Nabi, và mấy bài thơ của bà Nila mẹ chị mà Nabi đã lưu giữ lại. Một việc duy nhất khác nữa mà chị nhờ tôi làm trong thời gian ở đây là sắp xếp một chuyến đi tới Shadbagh để tận mắt thấy ngôi làng nơi chị sinh ra và hy vọng tìm thấy người em trai cùng cha, Iqbal.

“Ta đoán là cô ta sẽ bán ngôi nhà,” Mamá nói, “giờ nó là của cô ta rồi còn gì.”

“Thực ra chị ấy nói con có thể ở lại bao lâu tùy ý,” tôi đáp. “Miễn phí thuê.”

Tôi gần như có thể thấy Mamá mím chặt môi vẻ nghi ngờ. Bà là người sống trên đảo. Bà hồ nghi động cơ của tất cả những người sống trên đất liền, nhìn vào những hành vi rõ ràng là thiện chí của họ với ánh mắt ngờ vực. Đây là một trong những lý do tôi biết, khi tôi còn nhỏ, thôi thúc tôi rời khỏi Tinos một ngày nào đó khi có cơ hội. Một nỗi niềm như tuyệt vọng từng đeo bám tôi bất cứ khi nào nghe thấy mọi người nói chuyện theo cách đó.

“Chuồng chim câu thế nào rồi mẹ?” tôi hỏi để chuyển chủ đề.

“Ta phải tạm để đấy đã. Nó làm ta chết mệt.”

Sáu tháng trước tại Athens, Mamá được một bác sĩ thần kinh mà tôi kiên quyết bắt bà phải đi khám bắt bệnh, sau khi Thalia kể với tôi là Mamá cứ bị run tay và đánh rơi đồ suốt. Chính Thalia đã đưa bà đi. Từ hồi đi khám về, Mamá bắt đầu luôn chân luôn tay. Tôi biết chuyện đó qua những e-mail Thalia gửi. Sơn lại nhà, sửa những chỗ rò trên đường ống nước, dỗ ngọt Thalia giúp bà dựng một buồng quần áo hoàn toàn mới trên lầu, thậm chí thay từng viên ngói nứt trên mái nhà, dù may mắn thay, cuối cùng Thalia là người ra tay. Giờ đến cái chuồng chim câu. Tôi hình dung Mamá tay áo xắn cao, chiếc búa trong tay, mồ hôi lấm tấm sau lưng, đóng đinh và đánh bóng những tấm ván gỗ. Chạy đua với những nơ ron suy yếu của chính mình, vắt kiệt từng giọt hữu ích từ chúng khi vẫn còn thời gian.

“Bao giờ con về nhà?” Mamá hỏi.

“Sớm thôi ạ,” tôi đáp. Sớm là từ tôi nói từ năm trước, khi mẹ hỏi tôi cùng câu hỏi ấy. Đã hai năm rồi tôi chưa về thăm Tinos.

Một khoảng lặng ngắn. “Đừng để lâu quá. Ta muốn gặp con trước khi người ta trói ta vào lá phổi sắt* đó.” Bà cười. Đó là một thói quen cũ, nói đùa và cười cợt trước sự trêu ngươi của số phận, sự khinh thường dành cho dấu hiệu nhỏ nhất của lòng thương hại chính mình. Việc đó mang lại tác động ngược đời - mà tôi biết là cố tình - khi vừa giảm bớt vừa tăng thêm nỗi bất hạnh.

Chu Thich: Tức máy thở.

“Nếu được thì Giáng sinh này về nhé,” bà nói. “Mà phải trước ngày mùng bốn tháng Một đấy. Thalia nói là hôm đó sẽ có nhật thực ở Hy Lạp. Nó đọc được trên Internet. Chúng ta có thể xem cùng nhau.”

“Con sẽ cố, Mamá à,” tôi đáp.

❆❆❆

Cảm giác giống như một buổi sáng thức dậy thì đã thấy một con thú hoang lang thang vào nhà mình vậy. Không có chỗ nào an toàn cho tôi. Đâu đâu cũng thấy cô, đi lại loanh quanh, nhòm ngó, liên tục lấy khăn tay chấm má để lau khô dòng nước dãi cứ không ngừng chảy ra khỏi miệng. Nhà tôi nhỏ nên việc chạy trốn khỏi cô là không thể. Tôi đặc biệt sợ giờ ăn khi phải chịu đựng cảnh Thalia vén mạng lên để xúc thức ăn vào miệng. Dạ dày tôi nhộn nhạo khi thấy cảnh ấy và nghe âm thanh ấy. Cô ăn ầm ĩ, những mẩu thức ăn nhai dở luôn rơi với một tiếng toẹt ẩm ướt xuống đĩa của cô, hoặc ra bàn, thậm chí sàn nhà. Cô buộc phải uống mọi loại chất lỏng, kể cả xúp, bằng ống hút, thứ mà mẹ cô luôn giấu trong ví. Cô phát ra tiếng xì xụp và roàn roạt khi hút nước canh hầm bằng ống hút, nó luôn lem nhem ra tấm mạng, và chảy dọc xương hàm xuống cổ cô. Lần đầu tiên, tôi xin phép rời khỏi bàn thì bị Mamá quắc mắt nhìn. Thế là tôi đành rèn bản thân nhìn đi chỗ khác cũng như cố không nghe âm thanh ấy, nhưng chẳng dễ chút nào. Tôi đi vào bếp thì thấy cô đã ở đó, ngồi bất động trong khi Madaline thoa thuốc mỡ lên má cô để chống trầy xước. Tôi bắt đầu giữ một cuốn lịch, một cách thầm đếm ngược bốn tuần mà Mamá nói Madaline và Thalia sẽ ở lại.

Tôi ước gì Madaline chỉ đến một mình. Tôi rất quý bà. Chúng tôi ngồi, bốn chúng tôi, trên khoảnh sân vuông nhỏ ngoài cửa chính, bà nhấm nháp cà phê và hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, góc mặt bị phủ bóng bởi cây ô liu và chiếc mũ cói vàng vành nhỏ mà lẽ ra phải trông lố bịch lắm, với người khác thì chắc chắn thế - như Mamá chẳng hạn. Nhưng Madaline là người có sự duyên dáng tự nhiên như thể đó là một kỹ năng sẵn có, như khả năng uốn lưỡi thành hình ống vậy. Với Madaline, không bao giờ có lúc nào hết chuyện; những câu chuyện cứ trào ra khỏi bà. Một sáng bà kể cho chúng tôi nghe về những chuyến đi - tới Ankara chẳng hạn, nơi bà thả bước trên bờ sông Enguri Su, nhấm nháp trà xanh pha raki*, hay dịp bà và ông Gianakos tới Kenya cưỡi voi giữa những cây keo đầy gai và thậm chí còn ngồi ăn cháo ngô và cơm dừa với người dân địa phương.

Chu Thich: Rượu hoa hồi truyền thống của Thổ Nhĩ Kỳ.

Những câu chuyện của Madaline đã khuấy động nỗi bất an xưa cũ trong tôi, một sự thôi thúc lao vào đời, sự thôi thúc được dũng cảm mà tôi luôn có. So sánh mà nói, thì cuộc sống của tôi ở Tinos có vẻ tầm thường cùng cực. Tôi đã thấy trước cảnh cuộc đời mình trải ra với chuỗi vô vị bất tận và thế là tôi đã dành phần lớn những năm tháng tuổi thơ ở Tinos trong sự hoang mang, cảm giác như một kẻ thế thân của chính mình, một kẻ đại diện, tựa hồ bản thân thực sự đang cư trú ở đâu đó, đợi chờ một ngày được đoàn tụ với phần bản thân nông cạn, mờ nhạt này. Tôi cảm thấy bị bỏ rơi. Một kẻ tha phương trong chính nhà mình.

Madaline nói rằng ở Ankara bà đã tới một nơi tên là công viên Kuğulu và ngắm thiên nga lướt trên nước. Mặt nước lấp lóa, bà kể.

“Mình làm quá rồi,” bà cười nói.

“Không đâu,” Mamá nói.

“Thói cũ ấy mà. Mình nói quá nhiều. Lúc nào cũng thế. Cậu có nhớ mình đã đem lại bao nhiêu tai họa cho chúng ta không, nói chuyện riêng trong lớp ấy? Cậu thì không bao giờ phạm lỗi gì cả, Odie à. Cậu quá trách nhiệm và chăm chỉ.”

“Thú vị mà, chuyện của cậu ấy. Cậu có một cuộc sống thật thú vị.”

Madaline đảo mắt. “Chà, cậu biết lời nguyền của người Tàu* đấy.”

Chu Thich: Tức câu thành ngữ May you live in interesting times, được cho là câu thành ngữ Trung Quốc, mặc dù chúc sống vui nhưng lại hàm nghĩa nguyền rủa, mong cầu bất hạnh xảy ra với người khác.

“Cháu có thích châu Phi không?” Mamá hỏi Thalia.

Thalia ấn chiếc khăn tay vào má mà không đáp. Tôi thấy mừng. Cách nói của cô kỳ cục nhất trần đời. Nghe đẫm nước sao đó, một sự kết hợp kỳ lạ giữa tiếng ngọng nghịu và nhóp nhép.

“Ồ, Thalia không thích đi du lịch đâu,” Madaline đáp thay, đoạn dụi điếu thuốc. Bà nói điều này như thể đó là sự thật hiển nhiên. Chẳng buồn nhìn Thalia xem cô đồng tình hay phản đối. “Con bé không ham mấy thứ đó.”

“Ừm, cô cũng thế,” Mamá nói, lại quay sang Thalia. “Cô thích ở nhà. Có lẽ cô chẳng bao giờ tìm được lý do thuyết phục để rời Tinos cả.”

“Mình cũng là típ ở nhà,” Madaline nói. “Tất nhiên là ngoài cậu ra.” Bà chạm vào cổ tay Mamá. “Cậu biết nỗi sợ kinh khủng nhất của mình khi rời đi là gì không? Nỗi lo lớn nhất ấy? Làm thế nào mình có thể xoay xở mà không có Odie đây? Mình thề, mình đã chết điếng trước suy nghĩ ấy.”

“Cậu xoay xở tốt mà, có vẻ thế,” Mamá chậm rãi nói, từ từ rời mắt khỏi Thalia.

“Cháu không hiểu đâu,” Madaline nói, và tôi nhận ra mình chính là người không hiểu vì bà đang nhìn thẳng vào tôi. “Cô đã không thể đứng vững nếu thiếu mẹ cháu. Mẹ cháu đã cứu cô.”

“Giờ thì cậu đang làm quá lên đấy,” Mamá nói.

Thalia ngước mặt lên. Cô nhíu mày. Một chiếc máy bay, tít trên bầu trời xanh, lặng lẽ đánh dấu đường bay của nó bằng một vệt khói dài đơn độc.

“Odie đã cứu ta khỏi chính cha ta,” Madaline nói. Tôi không chắc có phải bà vẫn đang nói với mình không. “Ông ấy là người tàn nhẫn bẩm sinh. Mắt lồi, cổ to ngắn với nốt ruồi đen ở sau gáy. Còn nắm đấm. Nắm đấm chắc như gạch. Ông ấy về nhà và thậm chí chẳng cần làm gì, chỉ cần nghe tiếng giày dọc hành lang, tiếng chìa khóa lách cách, tiếng huýt sáo, là quá đủ với ta rồi. Khi nổi điên, ông ấy thường thở phì phì qua đường mũi và nhắm mắt lại, như thể đang suy nghĩ lung lắm, và rồi ông ấy xoa mặt nói, Được rồi, con gái, được rồi, và ta thừa biết điều gì sẽ đến - cơn bão - nó đang trên đường đến - và rằng không gì có thể ngăn nó lại. Không ai có thể giúp ta. Đôi khi, ông ấy chỉ xoa mặt, hay thở sượt qua ria mép thôi, là ta đã thấy mây xám kéo đến rồi.”

“Kể từ đó ta đã chạm mặt biết bao người đàn ông như ông ấy. Ước gì ta có thể nói khác đi. Nhưng không thể. Và những gì ta học được là chỉ cần tìm hiểu một chút thôi thì sẽ thấy tất cả bọn họ đại loại đều cùng một giuộc. Có những người tao nhã hơn, cứ cho là vậy đi. Họ có thể có đôi nét quyến rũ - hoặc rất nhiều - và điều đó có thể đánh lừa ta. Thế nhưng thực sự thì họ đều là đám nhóc cau có bì bõm trong cơn thịnh nộ của chính mình. Họ cảm thấy bị đối xử bất công. Không ai yêu họ đủ. Tất nhiên là họ mong ta yêu họ. Họ muốn được ôm ấp, được nựng nịu, vỗ về. Nhưng thật sai lầm nếu ta cho họ những thứ đó. Họ không thể chấp nhận. Họ không thể chấp nhận đúng thứ họ cần. Cuối cùng họ đâm ra ghét ta. Và chuyện đó chẳng bao giờ kết thúc vì họ không biết ghét ta thế nào cho đủ. Chuyện đó chẳng bao giờ kết thúc đâu - tất thảy những đau khổ, những lời xin lỗi, những hứa hẹn, sự thất hứa, nỗi bất hạnh. Người chồng đầu tiên của ta là như thế.”

Tôi sững sờ. Chưa ai từng nói thẳng thừng đến vậy trước mặt tôi, chắc chắn không phải Mamá. Chưa một ai tôi biết lại dốc hết bất hạnh của mình ra nói như vậy. Tôi vừa cảm thấy ái ngại cho Madaline lại vừa ngưỡng mộ sự bộc trực của bà.

Khi Madaline nhắc đến người chồng đầu tiên, tôi nhận thấy, lần đầu kể từ khi tôi gặp bà, một bóng đen phủ xuống khuôn mặt bà, một dấu hiệu thoáng qua của sự tăm tối, ê chề, đau đớn nào đó, tương phản với tiếng cười giòn tan, những lời chòng ghẹo, và chiếc váy hoa màu vàng bí ngô suông rộng mà bà đang mặc. Tôi nhớ lúc đó mình đã nghĩ hẳn bà phải là một diễn viên cừ lắm mới có thể giấu nỗi thất vọng và đau đớn dưới bề ngoài vui vẻ. Như một chiếc mặt nạ, tôi nghĩ, và thầm hài lòng với chính mình vì sự liên hệ thông minh đó.

Sau này lớn lên, tôi cũng chẳng thấy sáng tỏ hơn là bao. Nghĩ lại lúc ấy, có gì đó đã tác động đến cách bà ngừng lại khi nhắc tới người chồng đầu tiên, ánh mắt cụp xuống, cổ họng nghẹn lại, bờ môi run nhẹ, cùng lúc đó lại có một nguồn sinh khí dồi dào, vẻ quyến rũ nặng nề, sống động, bỡn cợt, cung cách mà kể cả sự coi thường của bà cũng hạ cánh nhẹ nhàng, được bung dù đỡ bởi cái nháy mắt và tiếng cười vỗ về. Có lẽ cả hai đều chỉ là vẻ màu mè giả tạo, hoặc cũng có thể là không. Tôi mơ hồ không biết đâu là thật, đâu là diễn - điều mà ít nhất khiến tôi càng nghĩ về bà như một diễn viên thú vị hơn biết bao.

“Đã bao nhiêu lần mình chạy đến nhà này rồi, Odie nhỉ?” Madaline nói. Giờ lại là nụ cười, tiếng cười mỗi lúc một to hơn. “Ông bà già tội nghiệp của cậu. Nhưng ngôi nhà này là chốn nương thân của mình. Nơi bình yên của mình. Đã từng như vậy. Một hòn đảo nhỏ bên trong một hòn đảo lớn hơn.”

Mamá nói, “Cậu lúc nào cũng được chào đón ở đây mà.”

“Chính mẹ cháu là người chấm dứt cảnh đánh đập đấy, Markos. Mẹ cháu đã bao giờ kể cho cháu nghe chưa?”

Tôi đáp rằng chưa.

“Cô chẳng ngạc nhiên mấy đâu. Thế mới đúng là Odelia Varvaris của cháu.”

Mamá đang vân vê mép chiếc tạp dề trong lòng rồi vuốt phẳng nó ra với khuôn mặt nhuốm vẻ mơ màng.

“Một đêm cô đến đây, lưỡi chảy máu, một mảng tóc thì bị dứt ra khỏi thái dương, tai vẫn còn ù ù vì bị đánh. Thời điểm đó ông ấy kiểm soát cô rất chặt. Hoàn cảnh của cô mới hay làm sao! Hoàn cảnh mới hay làm sao!” Cách Madaline thuật lại khiến ta nghĩ bà đang miêu tả một bữa ăn thịnh soạn hay một cuốn tiểu thuyết thú vị. “Mẹ cháu không hỏi gì vì đã biết cả rồi. Tất nhiên mẹ cháu biết. Mẹ cháu chỉ nhìn cô một lúc lâu - nhìn cô đứng đó run rẩy, rồi cất tiếng nói, mình vẫn còn nhớ, Odie à, mẹ cháu nói, Ừm, chuyện này thế là đủ rồi. Mẹ cháu tiếp, Chúng ta sẽ đến thăm cha cậu một chuyến, Maddie à. Và rồi cô bắt đầu nài nỉ. Cô lo rằng ông ấy sẽ giết cả hai bọn cô. Nhưng cháu biết cô ấy thế nào rồi mà, mẹ cháu ấy.”

Tôi đáp là biết, và Mamá bèn liếc xéo tôi một cái.

“Mẹ cháu không nghe. Cô ấy nhìn thế này này. Cô chắc là cháu biết cái nhìn đó. Mẹ cháu đi ra ngoài, nhưng không quên cầm theo khẩu súng săn của cha mình. Trong suốt lúc về nhà cô, cô đều tìm cách ngăn mẹ cháu lại, bảo là cha cô không đánh cô đau đến thế. Nhưng cô ấy có nghe đâu. Bọn cô đi thẳng tới cửa và rồi cha cô đứng đó, trên ngưỡng cửa, Odie giơ nòng súng lên chĩa vào cằm ông ấy mà nói, Còn làm thế nữa là tôi sẽ quay lại bắn thẳng vào mặt ông bằng khẩu súng săn này.

“Cha cô chớp mắt, và trong giây khắc cứng lưỡi lại. Ông ấy không thốt nổi một lời. Mà cháu có muốn biết phần hay nhất không, Markos? Cô nhìn xuống thì thấy một vũng tròn nhỏ, một vũng - ừm, chắc là cháu đoán được - một vũng tròn nhỏ loang ra trên sàn nhà giữa đôi bàn chân trần của ông ấy.”

Madaline vuốt ngược tóc ra sau và nói, đoạn đánh bật lửa đánh tách. “Và chuyện đó, cưng ạ, là thật đấy.”

Bà không cần phải nói vậy, tôi biết chuyện đó là thật. Tôi nhận ra điều đó trong sự trung thành sục sôi, giản đơn của Mamá, lòng quyết tâm sắt đá của bà. Động lực, nhu cầu muốn làm người sửa chữa những bất công, kẻ bảo vệ cho những con người bị chà đạp. Và tôi biết chuyện đó là thật từ tiếng rên rỉ nghiến chặt trong miệng Mamá trước chi tiết cuối cùng của câu chuyện. Bà không đồng tình. Có lẽ bà thấy nó thật ghê tởm, và không chỉ vì lý do hiển nhiên ấy. Trong mắt bà, con người, dù có cư xử tệ hại thế nào trong đời, cũng xứng đáng có được chút tôn nghiêm khi chết. Nhất là người trong gia đình.

Mamá cựa mình trên ghế, nói, “Thế nếu không thích đi du lịch, Thalia à, thì cháu thích làm gì?”

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Thalia. Madaline đã nói suốt từ nãy, và tôi nhớ là đã nghĩ, khi chúng tôi ngồi trong khoảnh sân với những tia nắng lốm đốm xung quanh, rằng đó là một phương cách trong khả năng thu hút chú ý, khả năng cuốn mọi thứ vào cơn lốc của bà, mạnh đến nỗi Thalia hoàn toàn bị lãng quên. Tôi cũng để ngỏ khả năng rằng họ đã quen với sự sôi nổi này vì thấy cần phải thế, đứa con gái trầm lặng bị lu mờ bởi sự độc chiếm chú ý của bà mẹ, rằng lòng tự yêu bản thân của Madaline có lẽ là hành động nhân ái, là sự bảo vệ đẫm tình mẫu tử.

Thalia mấp máy gì đó.

“To lên chút đi con,” Madaline gợi ý.

Thalia hắng giọng, một âm thanh khàn đục, đầy đờm dãi. “Khoa học.”

Lần đầu tiên tôi chú ý đến màu mắt cô, xanh như đồng cỏ không chăn thả súc vật, màu đen thẫm của mái tóc cô, và rằng cô cũng có làn da không tì vết giống mẹ. Tôi tự hỏi có phải một thời cô cũng từng xinh đẹp, thậm chí đẹp như Madaline chưa biết chừng.

“Kể cho mọi người nghe về đồng hồ mặt trời đi con,” Madaline nói.

Thalia nhún vai.

“Con bé đã dựng một cái đồng hồ mặt trời,” Madaline kể. “Ngay trong sân sau nhà. Hồi mùa hè năm ngoái ấy. Tự nó làm hết. Andreas không giúp đỡ gì đâu. Cô thì chắc chắn là không rồi.” Bà khúc khích.

“Nằm ngang hay nghiêng?” Mamá hỏi.

Có một tia ngạc nhiên lóe lên trong mắt Thalia. Một vẻ ngỡ ngàng. Như một người bước đi trên con phố đông đúc ở một thành phố xa lạ bỗng nghe thấy giọng quê nhà ngay sát bên tai. “Ngang ạ,” cô đáp bằng đúng cái giọng đẫm nước kỳ lạ đó.

“Cháu lấy gì làm cột?”

Mắt Thalia dừng lại nơi Mamá. “Cháu cắt bưu thiếp ra.”

Đó là lần đầu tiên tôi thấy hai người bọn họ có thể thân thiết đến mức nào.

“Hồi bé nó toàn tháo đồ chơi ra đấy,” Madaline nói. “Nó thích đồ chơi cơ học, những thứ có máy móc bên trong ấy. Con bé không chơi mấy thứ đó đâu, phải không con yêu. Không, nó tháo hết ra, tất cả những món đồ chơi đắt tiền ấy, mở toang hết ra ngay khi được mua cho. Chuyện đó từng làm mình buồn lòng lắm. Nhưng Andreas - điểm này thì cần phải khen ông ta - Andreas bảo rằng cứ kệ nó đi, đó là dấu hiệu của một trí óc ham học hỏi tìm tòi.”

“Nếu cháu thích, chúng ta có thể cùng nhau dựng một cái,” Mamá nói. “Ý cô là một cái đồng hồ mặt trời.”

“Cháu biết làm rồi.”

“Xem lại thái độ của con đi kìa, con yêu,” Madaline nhắc, đoạn duỗi dài rồi gập lại một chân, như thể đang sải chân trong một điệu nhảy. “Cô Odie chỉ cố giúp đỡ thôi mà.”

“Thế thì làm thứ khác vậy,” Mamá nói. “Chúng ta có thể cùng nhau dựng thứ khác.”

“Ôi! Ôi!” Madaline nói, vội vã nhả khói, thở khò khè. “Không thể tin được là mình chưa kể cho cậu nghe, Odie. Mình có tin này. Đoán thử xem.”

Mamá nhún vai.

“Mình sẽ diễn xuất trở lại! Trong phim! Mình đã được mời một vai, vai chính cơ đấy, trong một tác phẩm hoành tráng. Cậu tin được không?”

“Chúc mừng nhé,” Mamá khẽ nói.

“Mình có mang theo kịch bản đấy. Mình sẽ cho cậu đọc Odie à, nhưng mình lo là cậu không thích. Như thế có tệ quá không? Mình sẽ buồn chết mất, nói thẳng cho cậu biết. Mình sẽ không vượt qua được. Mùa thu này bọn mình sẽ bắt đầu quay.”

❆❆❆

Sáng hôm sau, sau bữa sáng, Mamá kéo tôi ra một bên, “Được rồi, thế có chuyện gì? Con làm sao thế?”

Tôi bảo không biết bà đang nói chuyện gì.

“Tốt nhất là con thôi đi. Cái trò ngu ngốc ấy. Nó không hợp với con đâu,” bà nói. Bà có cách nhíu mắt và nghiêng đầu rất nhẹ. Tới ngày hôm nay nó vẫn ám ảnh tôi.

“Con không làm được đâu, Mamá. Đừng bắt con.”

“Chính xác thì sao lại không?”

Lời nói vọt ra trước khi tôi kịp trở tay. “Nó là quái vật.”

Miệng Mamá mím lại. Bà nhìn tôi không phải với ánh mắt giận dữ mà bần thần, như thể tôi đã rút cạn nhựa sống khỏi bà. Có một dấu chấm hết trong cái nhìn ấy. Như một nhà điêu khắc cuối cùng đã buông bỏ dùi đục, bó tay trước khối đá cứng đầu sẽ chẳng bao giờ thành hình như tưởng tượng.

“Con bé là người từng trải qua chuyện kinh khủng. Thử gọi nó bằng cái tên đó lần nữa xem, mẹ muốn coi lắm đấy. Gọi đi rồi xem điều gì sẽ xảy ra.”

Một lát sau chúng tôi, Thalia và tôi, men theo con đường rải sỏi mà hai bên là những bức tường đá. Tôi đảm bảo là mình đi trước vài bước để người qua đường - hay, phỉ phui, một thằng nhóc nào đó ở trường - không nghĩ chúng tôi đi cùng nhau, mà tất nhiên chúng nó sẽ nghĩ như thế. Ai cũng thấy. Ít nhất, tôi hy vọng khoảng cách giữa chúng tôi cũng cho thấy sự khó chịu và ngần ngại của tôi. Tôi nhẹ nhõm khi cô chẳng buồn đuổi theo cho kịp. Chúng tôi đi qua những bác nông dân với làn da cháy nắng và dáng vẻ mỏi mệt từ chợ về nhà. Đám lừa oằn lưng dưới những chiếc giỏ mây đựng hàng không bán được, móng guốc gõ lọc cọc trên đường. Tôi biết hầu hết những bác nông dân này, nhưng tôi cứ cúi đầu và đánh mắt đi chỗ khác.

Tôi dẫn Thalia ra biển. Tôi chọn chỗ nhiều đá mà thỉnh thoảng tôi vẫn đến, biết rằng nó không đông như mấy bãi biển khác, Agios Romanos chẳng hạn. Tôi xắn quần nhảy từ mỏm đá lởm chởm này sang mỏm đá khác, chọn chỗ gần nơi những con sóng vỡ tan rồi rút xuống. Tôi cởi giày rồi thò chân xuống một vũng nước nông nhỏ được tạo thành giữa một cụm đá. Một con cua ẩn sĩ hối hả bò thoát khỏi ngón chân tôi. Tôi thấy Thalia bên tay phải mình, ngồi xuống một tảng đá gần đó.

Chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu, ngắm sóng biển vỗ dào dạt vào đá. Một luồng gió lạnh buốt vút qua tai tôi, hắt những tia nước mặn mùi vị muối vào mặt tôi. Một con bồ nông lượn lờ trên mặt nước màu lục lam, đôi cánh dang rộng. Hai người phụ nữ đứng bên nhau, đầu gối ngập trong nước, váy xắn cao. Ở phía Tây, tôi nhìn thấy hòn đảo, màu trắng nổi bật của những ngôi nhà và cối xay gió, màu xanh của cánh đồng lúa mạch, màu nâu trầm của rặng núi lởm chởm vốn là nơi khơi nguồn của những mạch suối năm này qua năm khác. Cha tôi đã mất trên một trong những ngọn núi đó. Ông làm việc cho một mỏ đá cẩm thạch xanh và một ngày, khi Mamá có mang tôi sáu tháng, ông đã sẩy chân xuống vách đá và rơi xuống từ độ cao ba mươi mét. Mamá nói ông quên đeo dây bảo hộ.

“Cậu thôi đi,” Thalia lên tiếng.

Tôi đang ném sỏi vào một cái xô thiếc mạ kẽm cũ sì gần đó thì cô làm tôi giật nảy mình. Tôi trượt. “Can gì đến cậu?”

“Ý tôi là cái kiểu tự mãn ấy. Tôi chán ngấy chuyện đó chả kém gì cậu đâu.”

Gió thổi tóc cô bay phấp phới, và cô đang phải giữ chiếc mạng sát mặt. Tôi tự hỏi có phải ngày nào cô cũng sống với nỗi sợ hãi đó, rằng một cơn gió mạnh sẽ giật nó khỏi mặt cô, khiến cô phải đuổi theo, khuôn mặt bị phơi bày. Tôi không nói gì. Tôi quẳng một viên sỏi và lại trượt lần nữa.

“Cậu là đồ con lừa,” cô nói.

Một lúc sau khi cô đứng dậy, tôi vẫn vờ ở lại. Rồi tôi ngoái qua vai, thấy cô ra biển, rồi trở lại đường cái, tôi bèn xỏ giày vào rồi theo cô về nhà.

Khi chúng tôi về, Mamá đang thái đậu bắp trong bếp còn Madaline ngồi gần đó, vừa sơn móng tay vừa hút thuốc, gõ tàn thuốc vào chiếc đĩa lót tách. Tôi co rúm sợ hãi khi thấy chiếc đĩa lót này nằm trong bộ đồ sứ mà Mamá thừa hưởng từ cụ tôi. Đó là đồ vật có giá trị duy nhất mà Mamá sở hữu, bộ đồ sứ, và bà hầu như không bao giờ lấy nó xuống khỏi nơi cất giữ trên cái giá cao gần chạm trần nhà.

Madaline thổi thổi móng tay giữa mỗi lần rít thuốc và thao thao nói về Pattakos, Papadopoulos và Makarezos, ba thượng tướng, những người đã tiến hành cuộc đảo chính quân sự - Cuộc Đảo chính của các vị Tướng, như tên gọi sau này - xảy ra đầu năm ấy tại Athens. Bà nói bà biết một nhà biên kịch - một “người đàn ông rất, rất đáng mến”, như bà miêu tả - người đã bị tống vào tù với tội danh lật đổ chế độ cộng sản.

“Thật vô lý, quả vậy! Rõ là vô lý. Cậu có biết họ làm gì với người ta không, đám cảnh sát quân sự ấy, để họ mở miệng?” Bà hạ thấp giọng như thể có cảnh sát quân sự đang nấp đâu đó trong nhà. “Họ cắm một cái ống vào mông người ta rồi vặn nước to hết cỡ. Thật đấy, Odie. Mình thề với cậu. Họ nhúng giẻ vào những thứ bẩn thỉu nhất - chất thải con người - cậu hiểu chứ - rồi nhét vào mồm người ta.”

“Thật kinh khủng,” Mamá thờ ơ đáp.

Tôi tự hỏi có phải bà đã mệt mỏi vì Madaline. Dòng quan điểm chính trị cường điệu, chuyện về những bữa tiệc mà Madaline tham dự cùng chồng, các nhà thơ, học giả và nhạc sĩ mà bà từng cụng những ly sâm banh chân dài, danh sách những chuyến đi vô ích, vô nghĩa tới các thành phố nước ngoài. Phô trương quan điểm về thảm họa hạt nhân, tình trạng bùng nổ dân số và ô nhiễm. Mamá chiều lòng Madaline, mỉm cười xuyên suốt các câu chuyện với vẻ quan tâm gượng gạo, nhưng tôi biết bà không nghĩ tốt về bạn mình. Có lẽ bà nghĩ Madaline đang khoe khoang. Có lẽ bà cảm thấy ái ngại vì bạn mình.

Đó là những gì giày vò, những gì làm vẩn đục lòng tốt của Mamá, sự cứu giúp, và hành động dũng cảm của bà. Cả nỗi hàm ơn phủ bóng xuống họ. Những yêu cầu, trách nhiệm mà bà dồn lên vai người khác. Cái cách bà sử dụng những hành vi đó giống như một loại tiền tệ, mà bà dùng để đổi lấy lòng trung thành và kiên trinh. Giờ tôi đã hiểu tại sao Madaline lại từ bỏ tất cả nhiều năm về trước. Sợi thừng kéo ta khỏi cơn lũ có thể trở thành thòng lọng thắt quanh cổ ta. Rốt cuộc mọi người luôn làm Mamá thất vọng, kể cả tôi. Họ không thể trả món nợ của mình, không phải theo cách Mamá trông đợi. Giải thưởng an ủi của Mamá là niềm thỏa mãn ác ý trong việc thắng thế, được tự do đưa ra phán quyết từ vị trí chiến lược thuận lợi, vì bà luôn là người thiệt thòi.

Tôi buồn trước những hé lộ về sự thiếu thốn tình cảm của Mamá, niềm lo âu của bà, nỗi sợ cô đơn, sự khiếp hãi bị bỏ rơi, chẳng ai đoái hoài. Và nó nói lên điều gì trong việc tôi biết tâm tư của mẹ, việc tôi biết chính xác bà cần gì nhưng đã cố ý và nhất quyết phủ nhận bà thế nào, chăm chăm giữ một đại dương, một lục địa - hay tốt hơn là, cả hai - giữa chúng tôi trong gần ba thập kỷ?

“Họ chẳng có khiếu châm biếm nhỉ, đám sĩ quan quân đội ấy,” Madaline nói, “cứ thế đàn áp mọi người. Tại Hy Lạp! Cái nôi của nền dân chủ… A, các con đây rồi. Ừm, mọi chuyện thế nào? Các con đã làm gì thế?”

“Bọn con chơi ngoài biển,” Thalia đáp.

“Vui không? Các con chơi có vui không?”

“Vui lắm ạ,” Thalia đáp tiếp.

Mamá vụt liếc ánh mắt nghi ngờ từ tôi sang Thalia rồi ngược lại, nhưng Madaline đã cười tươi và khẽ vỗ tay. “Tốt! Giờ thì mẹ không phải lo về việc hai đứa có chơi được với nhau không, Odie và mẹ có thể dành thời gian cho nhau rồi. Cậu nói gì đây, Odie? Chúng ta còn khối việc phải làm đấy!”

Mamá cười hào hứng đoạn vươn tay lấy một cái bắp cải.

❆❆❆

Kể từ đó, Thalia và tôi được phép làm gì tùy thích. Chúng tôi sẽ khám phá hòn đảo, chơi trò chơi trên bãi biển, trêu chọc nhau theo cách lũ trẻ con thường làm. Mamá sẽ gói cho chúng tôi mỗi đứa một chiếc sandwich, và chúng tôi cùng nhau khởi hành sau bữa sáng.

Một khi đã khuất tầm mắt, chúng tôi thường tách nhau ra. Ra đến biển, tôi bơi một vòng hay cởi áo nằm trên đá trong khi Thalia đi nhặt vỏ sò hay lia đá trên mặt nước, một việc vô ích vì sóng quá to. Chúng tôi men theo những con đường mòn ngoằn ngoèo qua vườn nho và cánh đồng lúa mạch, nhìn xuống bóng của chính mình, mỗi đứa miên man với suy nghĩ riêng. Chúng tôi đi lang thang là chính. Hồi đó, ngành du lịch ở Tinos chẳng có gì nhiều. Đó là một hòn đảo nông nghiệp, thật vậy, người ta sống dựa vào đám bò dê, cây ô liu và lúa mì. Cuối cùng chúng tôi cũng đâm chán, ăn trưa đâu đó, lặng lẽ, dưới bóng râm của một cái cây hay cối xay gió, vừa ăn vừa nhìn những khe suối, những cánh đồng đầy rẫy bụi cây gai góc, những ngọn núi, biển cả.

Một ngày, tôi lang thang ra thị trấn. Chúng tôi sống ở bờ Tây Nam của hòn đảo, còn thị trấn Tinos chỉ cách có vài cây số đi bộ về phía Nam. Ở đó có một cửa hàng nhỏ bán đồ trang trí lặt vặt do một ông góa mặt nặng như chì tên là Roussos quản lý. Vào một ngày bất kỳ, ta có thể tìm thấy trong quầy kính cửa hàng ông bất cứ thứ gì từ một cái máy chữ hồi thập niên bốn mươi đến một đôi ủng lao động bằng da, hay một chiếc chong chóng thời tiết, một giá đỡ chậu hoa cũ, những cây nến sáp khổng lồ, một cây thập giá, hay, tất nhiên, những ấn bản của nhà thờ Panagia Evangelistria, biểu tượng của hòn đảo. Hay thậm chí là cả một con khỉ đột bằng đồng thau. Ông còn là một nhiếp ảnh gia không chuyên và có một phòng tối tạm bợ ở sau cửa hàng. Khi những người hành hương tới Tinos vào mỗi tháng Tám để viếng thăm nhà thờ, ông Roussos lại bán phim cho họ và rửa ảnh thuê trong phòng tối.

Khoảng một tháng trước, tôi phát hiện thấy một cái máy ảnh trong quầy kính cửa hàng ông, nằm trên bao đựng bằng da cũ mèm màu gỉ sét. Cứ vài ngày một lần, tôi lại tha thẩn ra cửa hàng, nhìn chằm chằm vào cái máy ảnh, tưởng tượng mình ở Ấn Độ, chiếc bao da lủng lẳng trên sợi dây vắt qua vai, chụp ảnh những đồng ruộng, đồi chè mà tôi từng thấy trong tạp chí Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ. Tôi sẽ chụp Đường mòn Inca*. Trên lưng lạc đà, trong một chiếc xe tải già cỗi phả đầy khói bụi, hay trên đôi chân mình, tôi sẽ kiên cường chịu đựng cái nóng cho đến khi được đứng ngước nhìn tượng Nhân sư và Kim Tự Tháp, và tôi cũng sẽ chụp lại cảnh tượng ấy và xem ảnh của mình được đăng trên những cuốn tạp chí bìa bóng lộn. Đó là điều thu hút tôi đến bên cửa sổ cửa hàng ông Roussos sáng hôm đó - dù bữa ấy cửa hàng đóng cửa - để đứng bên ngoài, trán áp vào kính, và mơ mộng.

Chu Thich: Đoạn đường nổi tiếng nhất trong hệ thống đường Inca, nơi dẫn đến kỳ quan Machu Picchu của Peru.

“Loại gì thế?”

Tôi hơi lùi lại, bắt gặp hình phản chiếu của Thalia trên cửa kính. Cô chấm chấm khăn tay vào má trái.

“Cái máy ảnh ấy.”

Tôi nhún vai.

“Trông như C3 Argus,” cô nói.

“Sao cậu biết?”

“Đây chính là chiếc máy ảnh ống 35 milimet bán chạy nhất thế giới trong ba mươi năm qua,” cô nói vẻ hơi quở trách. “Nhưng kiểu dáng thì không bắt mắt lắm. Xấu. Trông như cục gạch. Vậy là cậu muốn làm nhiếp ảnh gia hả? Khi cậu lớn hẳn lên ấy? Mẹ cậu nói thế.”

Tôi quay lại. “Mamá nói với cậu à?”

“Thì?”

Tôi nhún vai. Tôi xấu hổ khi Mamá lại kể chuyện đó với Thalia. Tôi tự hỏi bà kể ra sao. Bà có thể lấy từ kho đạn của mình ra một thứ vũ khí là cách nói trầm trầm mỉa mai về thứ mà bà cho là phô trương hoặc phù phiếm. Bà có thể thổi xẹp ước mơ của người khác ngay trước mắt h?