← Quay lại trang sách

Chương 9 MÙA ĐÔNG NĂM 2010

Hồi tôi còn bé, cha và tôi có một nghi thức hằng đêm. Sau khi tôi nói hai mốt lần từ Bismillah* và ông đã bế tôi vào giường, ông sẽ ngồi bên cạnh tôi và kéo những giấc mơ xấu khỏi đầu tôi bằng ngón cái và ngón trỏ. Ngón tay ông sẽ nhảy từ trán xuống thái dương tôi, kiên nhẫn tìm kiếm sau tai, sau gáy, và ông sẽ tạo ra một tiếng bốp - như tiếng mở nút chai - với mỗi cơn ác mộng ông xóa bỏ khỏi đầu tôi. Ông cất các giấc mơ, từng giấc một, vào một bao tải vô hình trong lòng và buộc dây thật chặt. Rồi ông gột sạch không khí, tìm kiếm những giấc mơ hạnh phúc thay thế những giấc mơ mà ông đã cách ly. Tôi nhìn ông khẽ nghênh đầu nhíu mày, mắt đảo từ bên này sang bên kia, như thể đang căng tai nghe tiếng nhạc từ xa vọng lại. Tôi nín thở, đợi chờ khoảnh khắc khuôn mặt cha tôi dãn ra thành nụ cười, khi ông reo lên, A, đây rồi, khi ông khum tay, để giấc mơ đậu xuống lòng bàn tay như một cánh hoa rời cành chầm chậm xoay vòng. Rồi nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng - cha nói tất cả những điều tốt đẹp trong đời đều mong manh và dễ mất - cha giơ tay lên mặt tôi, xoa lòng bàn tay lên lông mày và để hạnh phúc thấm vào đầu tôi.

Chu Thich: Nhân danh Allah.

Đêm nay con sẽ mơ gì hả Baba? tôi hỏi.

À, đêm nay. Ừm, đêm nay là đêm đặc biệt, ông luôn nói thế trước khi bắt đầu kể chuyện. Ông sẽ sáng tác ra một câu chuyện ngay tại chỗ. Trong một giấc mơ ông kể, tôi trở thành họa sĩ nổi tiếng nhất thế giới. Trong một giấc mơ khác, tôi là nữ hoàng của một hòn đảo bị phù phép, và tôi có một chiếc ngai vàng bay. Ông thậm chí còn cho tôi một giấc mơ về món tráng miệng yêu thích nhất trần đời của tôi, thạch Jell-O. Tôi có quyền năng, bằng cách vẩy cây đũa thần, biến mọi thứ thành Jell-O - xe buýt trường học, tòa nhà Empire State, toàn bộ Thái Bình Dương, nếu tôi thích. Hơn một lần, tôi cứu hành tinh này khỏi sự hủy diệt bằng cách vẩy đũa thần vào một ngôi sao băng. Cha tôi, người không bao giờ nói nhiều về cha mình, bảo rằng ông được thừa kế khả năng kể chuyện từ cụ thân sinh. Ông kể hồi ông còn nhỏ, thi thoảng cha ông sẽ bảo ông ngồi xuống - nếu cha ông đang vui, mà điều này thì hiếm khi - và kể những câu chuyện đầy ắp jinn, các nàng tiên, và p.

Có những đêm, tôi đổi vai cho Baba. Ông nhắm mắt lại còn tôi trượt lòng bàn tay xuống khuôn mặt ông, bắt đầu từ lông mày, qua gò má ram ráp chân râu, mớ ria mép xù xì.

Thế giấc mơ đêm nay của cha là gì? ông thì thầm hỏi, nắm tay tôi. Và nở nụ cười thật tươi. Vì ông biết thừa tôi định kể cho ông giấc mơ nào. Lần nào cũng vậy. Giấc mơ ông và em gái nằm dưới một cây táo nở hoa, thiêm thiếp vào giấc ngủ chiều. Mặt trời tỏa hơi ấm lên má họ, nắng trải lên cỏ, lá và tán hoa trên đầu.

Tôi là con một, và thường là đứa trẻ cô đơn. Sau khi sinh tôi, cha mẹ tôi, những người gặp nhau ở Pakistan khi cả hai đều ở tuổi tứ tuần, đã quyết định không thử vận may lần thứ hai. Tôi nhớ mình đã nhìn lũ trẻ hàng xóm, các bạn ở trường, những đứa có em trai hay em gái với ánh mắt ghen tị như thế nào. Tôi đã ngơ ngác ra sao trước cách chúng đối xử với nhau, không đếm xỉa tới sự may mắn của mình. Chúng cư xử như chó hoang vậy. Cấu véo, đánh đấm, phản bội nhau bằng bất cứ cách nào chúng nghĩ ra. Lại còn cười cợt về chuyện đó nữa. Chúng không nói chuyện với nhau. Tôi không hiểu nổi. Tôi ấy, tôi đã dành phần lớn những năm đầu đời của mình để khao khát có một đứa em. Cái tôi thực sự ao ước là một đứa em sinh đôi, đứa khóc bên tôi trong cũi, ngủ bên tôi, uống cùng một bầu sữa mẹ với tôi. Một đứa để yêu thương không ngừng và trọn vẹn, một đứa mà tôi luôn có thể nhận ra chính mình trên khuôn mặt nó.

Và thế là em gái của Baba, Pari, trở thành bạn đồng hành bí mật của tôi, chỉ mình tôi nhìn thấy. Cô là em gái của tôi, người mà tôi luôn ao ước được cha mẹ ban cho. Tôi thấy cô trong chiếc gương buồng tắm khi chúng tôi đánh răng bên nhau mỗi sáng. Chúng tôi thay đồ cùng nhau. Cô theo tôi tới trường và ngồi bên tôi trong lớp - nhìn thẳng lên bảng, lúc nào tôi cũng thấy màu đen mái tóc cô và sắc trắng của khuôn mặt nhìn nghiêng qua khóe mắt. Tôi dẫn cô tới sân chơi cùng tôi vào giờ giải lao, cảm thấy sự hiện diện của cô đằng sau mình khi tôi chơi cầu trượt hay chuyền từ thanh xà này sang thanh xà khác. Sau giờ học, khi tôi ngồi bên bàn bếp vẽ vời, cô kiên nhẫn ngồi gần đó nguệch ngoạc hay đứng nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi tôi xong và chúng tôi chạy ra ngoài nhảy dây, hai cái bóng đôi nhảy lên nhảy xuống trên nền xi măng.

Không ai biết về những trò chơi của tôi với Pari. Kể cả cha tôi. Cô là bí mật của tôi.

Lúc không có ai bên cạnh, chúng tôi ăn nho và trò chuyện liên hồi - về đồ chơi, loại ngũ cốc nào ngon nhất, bộ phim hoạt hình chúng tôi thích, những đứa bạn học mà chúng tôi ghét, thầy cô nào khó tính. Chúng tôi có cùng màu sắc thích nhất (vàng), vị kem thích nhất (anh đào đen), chương trình ti vi thích nhất (Alf), và cả hai lớn lên đều muốn làm họa sĩ. Tất nhiên là tôi tưởng tượng chúng tôi giống hệt nhau bởi, rốt cuộc, chúng tôi sinh đôi mà. Đôi khi tôi gần như nhìn thấy cô - thực sự nhìn thấy ấy, ý tôi là - ngay rìa tầm nhìn của tôi. Tôi cố vẽ cô, và mỗi lần như thế, tôi lại cho cô đôi mắt màu lục nhạt hơi không đều nhau giống tôi, mái tóc xoăn sẫm màu, cùng độ dài, cặp mày sắc gần như chạm nhau. Nếu ai đó hỏi, tôi bảo họ là tôi vẽ chính mình.

Câu chuyện cha tôi mất em gái như thế nào quen thuộc với tôi như những gì mẹ kể tôi nghe về Nhà tiên tri, những câu chuyện sau này tôi sẽ học lại khi ghi danh vào trường Chúa nhật tại một thánh đường ở Hayward. Ấy thế mà, dù quen thuộc đến mấy, đêm nào tôi cũng đòi nghe lại chuyện về Pari, không thể nào cưỡng lại nổi. Có lẽ chỉ vì chúng tôi cùng tên. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi cảm thấy có mối liên hệ giữa chúng tôi, lờ mờ, bọc trong sự bí ẩn, tuy nhiên lại rất chân thực. Nhưng còn nhiều hơn thế. Tôi cảm thấy xúc động vì cô, như thể tôi cũng được định hình bởi những gì đã xảy ra với cô. Chúng tôi được gắn kết với nhau, tôi cảm thấy thế, bằng một trật tự vô hình nào đó theo cách mà tôi không hiểu thấu, nối kết vượt qua cả cái tên, qua quan hệ gia đình, như thể, cùng nhau, chúng tôi hoàn thiện một mảnh ghép.

Tôi đoan chắc rằng nếu tôi nghe câu chuyện của cô đủ kỹ, tôi sẽ phát hiện ra thứ gì đó về bản thân mình.

Cha có nghĩ ông nội buồn không? Vì đã bán cô đi ấy?

Có những người giấu nỗi buồn kỹ lắm, Pari à. Ông nội giống như vậy đấy. Ta không thể nhìn mà biết được đâu. Ông là người cứng rắn. Nhưng cha nghĩ là có, cha nghĩ trong lòng ông buồn lắm.

Còn cha?

Cha tôi sẽ mỉm cười và nói, Sao cha phải buồn khi đã có con? nhưng, kể cả ở độ tuổi ấy, tôi vẫn nhận ra được. Nó giống như một vết bớt trên khuôn mặt ông vậy.

Trong lúc chúng tôi tâm tình như thế này, tôi lại tưởng tượng ra một chuyện trong đầu. Rằng tôi sẽ để dành hết số tiền tôi có, không lấy một xu nào để mua kẹo hay đề can, và khi nào con lợn đất của tôi đầy - dù nó chẳng phải lợn mà là một nàng tiên cá nằm trên đá - tôi sẽ đập ra lấy hết tiền và lên đường tìm em gái của cha, dẫu cho cô ở đâu, và khi tìm được rồi, tôi sẽ chuộc cô và đưa cô về nhà với Baba. Tôi sẽ làm cha hạnh phúc. Không gì trên đời này khiến tôi khao khát hơn là được làm người xua tan nỗi buồn của ông.

Vậy giấc mơ đêm nay của cha là gì? Baba hỏi.

Cha biết rồi mà.

Một nụ cười khác. Ừ, cha biết.

Baba à?

Hở?

Cô có phải em gái ngoan không ạ?

Cô con rất hoàn hảo.

Ông sẽ thơm lên má tôi và kéo chăn lên cổ tôi. Ra đến cửa, ngay khi tắt đèn, ông ngừng lại.

Cô con rất hoàn hảo, ông nói. Như con vậy.

Tôi luôn đợi đến khi ông đóng cửa rồi mới trượt khỏi giường, lấy thêm một cái gối, đặt kế gối của tôi. Tôi chìm vào giấc ngủ mỗi đêm với cảm giác có trái tim đôi đập trong ngực mình.

❆❆❆

Tôi xem đồng hồ khi chuyển hướng sang đường cao tốc từ lối vào đường Old Oakland. Đã mười hai rưỡi. Tôi sẽ mất ít nhất bốn lăm phút để tới sân bay quốc tế San Francisco, nếu không có tai nạn hay công trình làm đường nào trên đường 101.

Với cả, đây là chuyến bay quốc tế, bà sẽ phải làm thủ tục hải quan, có lẽ nhờ thế tôi sẽ có thêm chút thời gian. Tôi lướt xe về bên làn trái và nhấn ga chiếc Lexus tăng tốc gần 80 km/h.

Tôi nhớ đến một phép mầu nho nhỏ trong cuộc trò chuyện với Baba, khoảng tháng trước. Cuộc trao đổi là một cái bong bóng bình thường chóng tan, tựa một túi khí nhỏ xíu chìm sâu dưới đáy đại dương thăm thẳm, u tối, lạnh lẽo. Tôi mang bữa trưa đến muộn cho ông, và từ trên chiếc ghế bành ngả lưng ông quay đầu sang bảo tôi, với giọng chỉ trích nhẹ nhàng nhất, rằng tôi được lập trình sẵn trong gien là chuyên giờ cao su. Giống mẹ con vậy, Chúa ban phước lành cho linh hồn bà ấy.

Nhưng mà, ông nói tiếp, mỉm cười như để an ủi tôi, ai mà chả có khuyết điểm này nọ chứ.

Vậy đây chính là khuyết điểm mà Chúa đã cho con ạ? tôi hỏi, đặt đĩa cơm đậu vào lòng ông. Chuyên đi muộn?

Phải nói thêm là, Người đã lưỡng lự lắm khi làm thế. Baba nắm tay tôi. Chỉ chút xíu, một chút nữa thôi là Người tạo ra con hoàn hảo rồi.

Ừm, nếu cha muốn, con sẽ vui lòng tiết lộ cho cha thêm vài điều.

Con đã giấu tiệt chúng đi phỏng?

Ôi, có cả đống ấy chứ ạ. Sẵn sàng xuất đầu lộ diện. Vì giờ cha đã già yếu rồi.

Cha đúng là đã già yếu rồi.

Giờ cha muốn con thông cảm với cha cơ đấy.

Tôi nghịch radio, chuyển từ chương trình đối thoại sang nhạc đồng quê đến nhạc jazz rồi lại thêm nhiều cuộc đối thoại nữa. Tôi tắt đi. Lòng tôi bồn chồn không yên. Tôi vươn tay lấy điện thoại di động trên ghế phụ. Tôi gọi về nhà, để điện thoại mở trong lòng.

“A lô?”

“Salaam, Baba. Con đây.”

“Pari à?”

“Vâng, Baba. Cha với Hector ở nhà có ổn không?”

“Có. Cậu ta là một chàng trai trẻ tuyệt vời. Cậu ta làm món trứng cho chúng ta. Hai chú cháu ăn với bánh mì. Con đang ở đâu đấy?”

“Con đang lái xe,” tôi đáp.

“Đến quán à? Hôm nay con không có ca làm mà, phải không?”

“Không ạ, con đang trên đường ra sân bay, Baba à. Con đi đón một người.”

“Được rồi. Cha sẽ bảo mẹ con nấu cơm,” ông nói. “Bà ấy có thể mang mấy thứ từ quán về.”

“Vâng, Baba.”

Nhẹ nhõm thay, ông không nhắc thêm đến bà nữa. Nhưng, có những ngày, ông chẳng chịu thôi. Tại sao không ai nói cho cha biết bà ấy ở đâu hả Pari? Bà ấy đang phẫu thuật à? Đừng nói dối cha? Tại sao ai cũng nói dối cha? Bà ấy đi rồi à? Bà ấy ở Afghanistan à? Thế thì cha cũng đến đó! Cha sẽ tới Kabul, con không ngăn được đâu. Chúng tôi cứ lặp đi lặp lại như thế, Baba bứt rứt đi lại; tôi thì nói dối ông, rồi thì lại cố làm ông sao nhãng bằng mấy cuốn ca ta lô sửa chữa nhà cửa hay thứ gì đó trên ti vi. Đôi khi cách đó có hiệu quả, nhưng những lần khác thì chẳng ăn thua gì với ông. Ông lo lắng cho đến khi bật khóc, trong cơn kích động. Ông đập tay vào đầu, lắc ghế tới lui, nức nở, chân run rẩy, và rồi tôi phải cho ông một liều Ativan*. Tôi đợi mắt ông lờ đờ, và đến lúc đó, tôi buông mình xuống ghế, kiệt sức, không thở nổi, gần như bật khóc. Khao khát, tôi nhìn ra ngoài cửa và khoảng không đằng sau nó, những muốn bước qua và cứ thế đi mãi. Và rồi Baba rên rỉ trong giấc ngủ, tôi liền giật mình, lòng đầy day dứt.

Chu Thich: Thuốc điều trị rối loạn lo âu.

“Con nói chuyện với Hector được không Baba?”

Tôi nghe thấy tiếng chuyền ống nghe. Trong điện thoại có tiếng khán giả của một trò chơi truyền hình ồ lên than thở, rồi tiếng vỗ tay.

“Đây, cô gái.”

Hector Juarez sống bên kia đường. Chúng tôi là hàng xóm đã nhiều năm và mấy năm qua đã trở thành bạn. Anh ghé qua vài lần một tuần và cùng tôi ăn đồ ăn nhanh, xem những chương trình tạp nham tới tận khuya, chủ yếu là truyền hình thực tế. Chúng tôi nhai pizza nguội ngắt và lắc đầu với vẻ thích thú quái đản trước những trò lố và cơn thịnh nộ trên màn hình. Hector từng là lính thủy đánh bộ, đóng quân tại miền Nam Afghanistan. Mấy năm trước, anh bị thương nặng trong một cuộc tấn công bằng thiết bị nổ tự chế. Tất cả mọi người cùng khu nhà đều có mặt khi cuối cùng anh cũng trở về từ Bộ Cựu chiến binh Mỹ. Cha mẹ anh đã treo biển Chào mừng con về nhà, Hector trước sân, với bóng bay và rất nhiều hoa. Ai nấy đều vỗ tay khi cha mẹ anh đỗ xe trước nhà. Mấy người hàng xóm còn mang theo bánh nướng. Mọi người cảm ơn sự phục vụ của anh. Họ nói, Giờ hãy mạnh mẽ nhé. Chúa phù hộ. Vài ngày sau, cha Hector, Cesar, ghé qua nhà tôi, và ông cùng tôi làm một đoạn dốc dành cho xe lăn đi, giống với cái mà Cesar đã xây bên ngoài nhà ông dẫn tới cửa chính, lá cờ Mỹ rủ phía trên. Tôi nhớ khi hai chú cháu làm con dốc, tôi cảm thấy cần phải xin lỗi Cesar vì những gì đã xảy ra với Hector tại quê hương của cha tôi.

“Chào anh,” tôi nói. “Em cứ nghĩ nên gọi về hỏi thăm.”

“Ở đây ổn cả mà,” Hector đáp. “Bọn anh ăn rồi. Bọn anh đã xem Hãy chọn giá đúng. Giờ thì đang thư giãn với Chiếc nón kỳ diệu. Tiếp đến là Chung sức.”

“Ối. Xin lỗi.”

“Vì sao chứ, mija*?Hai chú cháu đang vui mà. Phải không, Abe?”

Chu Thich: Em gái (tiếng Tây Ban Nha, không nhất thiết chỉ em gái ruột mà còn có thể gọi thân mật những cô gái khác).

“Cảm ơn anh đã làm món trứng cho ông ấy,” tôi nói.

Hector hạ thấp giọng xuống một tông. “Thực ra là bánh rán đấy. Mà em đoán xem? Ông ấy thích lắm. Ăn một chồng bốn cái liền.”

“Em thực sự nợ anh.”

“Này, anh thích bức tranh mới lắm, em gái. Bức mà có đứa trẻ đội cái mũ buồn cười ấy? Abe đã cho anh xem. Ông ấy cũng tự hào lắm. Anh như kiểu, chết tiệt! Chú nên tự hào thật ấy chứ.”

Tôi mỉm cười khi chuyển làn cho một chiếc xe áp sát vượt qua. “Có lẽ em biết Giáng sinh tặng quà gì cho anh rồi.”

“Nhắc anh nhớ lại là tại sao chúng ta không thể kết hôn nào?” Hector nói. Tôi nghe tiếng Baba cự lại và tiếng cười của Hector, cách xa ống nghe. “Cháu đùa đấy mà, Abe. Thoải mái chút đi. Cháu què quặt thế này.” Rồi nói với tôi, “Anh nghĩ cha em vừa cho anh thấy bản chất Pashtun của ông ấy.”

Tôi nhắc anh cho Baba uống thuốc buổi trưa rồi cúp máy.

❆❆❆

Giống như nhìn bức ảnh của một người dẫn chương trình trên sóng radio, rằng trông họ chẳng hề giống như bạn hình dung trong đầu khi lắng nghe tiếng họ trong ô tô. Vì một lẽ, bà đã già. Hoặc hơi già. Tất nhiên là tôi biết điều này. Tôi đã tính toán và ước chừng bà ngót sáu mươi. Chỉ có điều thật khó dung hòa hình ảnh người phụ nữ gầy gò tóc muối tiêu này với cô bé mà tôi vẫn luôn tưởng tượng, cô bé ba tuổi với mái tóc xoăn đen và cặp mày dài gần như chạm nhau, giống tôi. Bà còn cao hơn tôi hình dung. Tôi biết thế, kể cả khi bà ngồi, trên băng ghế gần quầy bánh sandwich, rụt rè nhìn quanh như bị lạc. Bà có bờ vai hẹp và vóc dáng mảnh mai, khuôn mặt dễ mến, tóc búi chặt và được cố định bằng dải băng đô đan móc. Bà đeo khuyên tai ngọc bích, vận quần bò bạc màu, áo len dài màu cá hồi, và quấn chiếc khăn vàng quanh cổ với vẻ thanh nhã đơn giản kiểu châu Âu. Bà đã bảo tôi trong e-mail trước rằng bà sẽ quàng khăn để tôi chóng nhận ra.

Bà chưa nhìn thấy tôi, còn tôi thì nấn ná một lát giữa các du khách đẩy xe chở hành lý qua nhà ga, những tài xế đón khách giơ tấm biển đề tên khách hàng. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, tôi thầm nghĩ, Đây là bà. Đây là bà. Đây thực sự là bà. Rồi chứng tôi chạm mắt nhau, và vẻ nhận ra thoáng hiện trên khuôn mặt bà. Bà vẫy tay.

Chúng tôi gặp nhau ở băng ghế. Bà cười tươi, khiến đầu gối tôi loạng choạng. Bà có nụ cười giống hệt Baba - ngoại trừ khe hở bé bằng hạt gạo giữa hai răng cửa - chiếc bên trái hơi lệch, cách nó làm mặt bà nhăn lại và gần như khiến mắt bà nhắm tịt thế nào, cái dáng chỉ hơi nghiêng nghiêng đầu ra sao. Bà đứng lên, và tôi để ý đến tay bà, khớp tay sưng u, các ngón tay cong gập ở đốt đầu tiên nghiêng hẳn khỏi ngón cái, cổ tay nổi đầy cục to bằng hạt đậu gà. Tôi cảm thấy bụng mình thắt lại, trông đau đớn quá.

Chúng tôi ôm nhau, và bà thơm lên má tôi. Da bà mềm như nỉ. Khi chúng tôi buông nhau ra, bà vẫn giữ tôi, bàn tay khum khum trên vai tôi, và nhìn thẳng vào mặt tôi như đang định giá một bức tranh. Có một làn sương ướt đẫm trong đôi mắt bà. Đôi mắt rạng rỡ vì hạnh phúc.

“Con xin lỗi vì đến muộn ạ.”

“Không sao,” bà nói. “Cuối cùng cũng được ở bên con! Cô mừng lắm.” Giọng Pháp của bà nghe trực tiếp còn nặng hơn cả trên điện thoại.

“Con cũng mừng lắm,” tôi đáp. “Chuyến bay của cô thế nào ạ?”

“Cô phải uống thuốc, nếu không thì không ngủ nổi. Cô sẽ thức suốt ấy. Vì cô quá hạnh phúc và hồi hộp.” Bà nhìn tôi không rời, nở nụ cười rạng rỡ với tôi - như thể sợ rằng phép mầu sẽ tan biến nếu bà quay đi - cho đến khi tiếng loa trên đầu khuyến cáo hành khách thông báo bất cứ trường hợp hành lý vô chủ nào, thì mặt bà mới dãn ra đôi chút.

“Abdullah có biết cô đang đến không?”

“Con đã thưa cha là con sắp đưa một vị khách về nhà,” tôi nói.

Lát sau, khi chúng tôi đã yên vị trong xe, tôi lén nhìn bà. Đây là điều kỳ lạ nhất trần đời. Có gì đó phi thực một cách kỳ quặc về Pari Wahdati, ngồi trong xe tôi, chỉ cách tôi có vài phân. Vừa nãy thôi, tôi còn nhìn thấy bà rõ rành - chiếc khăn vàng quấn quanh cổ, những sợi tóc ngắn mỏng ở đường chân tóc, nốt ruồi màu cà phê bên dưới tai trái - thế mà chỉ lát sau, đường nét của bà đã nhạt nhòa sau làn sương, như thể tôi đang hé mắt nhìn bà qua chiếc kính mờ. Tôi cảm thấy, một cách ngẫu nhiên, như kiểu hoa mắt vậy.

“Con không sao chứ?” bà hỏi, nhìn tôi trong khi thắt dây an toàn.

“Con cứ nghĩ là cô sẽ biến mất.”

“Gì cơ?”

“Chỉ là… hơi khó tin một chút,” tôi nói, cười lo lắng. “Rằng cô thực sự tồn tại. Rằng cô thực sự ở đây.”

Bà gật đầu, mỉm cười. “À, cô cũng vậy. Cô cũng thấy lạ lắm. Con biết đấy, cả đời cô chưa từng gặp ai trùng tên mình cả.”

“Con cũng thế.” Tôi khởi động xe. “À mà cô kể con nghe về các con cô đi.”

Khi tôi lái xe ra khỏi bãi đỗ, bà kể hết cho tôi nghe về họ, dùng tên thân mật như thể tôi đã biết họ cả đời này, như thể các con bà và tôi đã lớn lên cùng nhau, cùng đi những chuyến dã ngoại gia đình, cắm trại và nghỉ hè ở khu nghỉ dưỡng ven biển, nơi chúng tôi làm những chuỗi vòng cổ bằng vỏ sò và vùi nhau dưới cát.

Giá mà được như vậy.

Bà kể rằng con trai mình, Alain - “em họ con”, bà nói thêm, và vợ cậu ấy, Ana, đã có đứa con thứ năm, một bé gái, và họ đã chuyển tới Valencia, mua nhà ở đó. “Finalement*, chúng nó đã rời khỏi cái căn hộ dở tệ ở Madrid!” Con gái đầu lòng của bà, Isabelle, người soạn nhạc cho các chương trình truyền hình, đã được giao viết nhạc cho bộ phim lớn đầu tiên. Còn chồng của Isabelle, Albert, giờ là bếp trưởng một nhà hàng danh tiếng ở Paris.

Chu Thich: Cuối cùng (tiếng Pháp).

“Con cũng có một quán ăn nhỉ?” bà hỏi. “Hình như con đã kể cho cô nghe trong e-mail?”

“Ừm, là cha mẹ con ạ. Cha con luôn mơ được làm chủ một quán ăn riêng. Con giúp họ quản lý. Nhưng mấy năm sau con phải bán đi. Sau khi mẹ con mất còn Baba thì… suy nhược.”

“À, cô rất tiếc.”

“Ôi đừng ạ. Con có giỏi việc quán xá đâu.”

“Con không nên nghĩ vậy. Con là nghệ sĩ mà.”

Tôi đã kể cho bà nghe, vô tình thôi, trong lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện và bà hỏi tôi làm gì, tôi đã kể rằng tôi mơ ước một ngày nào đó được học mỹ thuật.

“Thật ra thì, con làm nghề mà như cô gọi là viết văn bản đấy ạ.”

Bà chăm chú lắng nghe khi tôi giải thích rằng tôi làm việc cho một công ty chuyên xử lý dữ liệu cho bảng xếp hạng Fortune 500*. “Con viết mẫu cho họ. Tờ quảng cáo, hóa đơn, danh sách khách hàng, danh sách e-mail, kiểu vậy. Cơ bản chỉ cần biết đánh máy. Mà lương lại khá nữa.”

Chu Thich: Danh sách 500 công ty lớn nhất nước Mỹ.

“Ra vậy,” bà nói. Bà cân nhắc, rồi nói thêm, “Con có thấy thú vị không, làm công việc đó ấy?”

Chúng tôi đi qua thành phố Redwood trên đường về hướng Nam. Tôi vươn qua đùi bà và chỉ ra ngoài cửa sổ. “Cô có thấy tòa nhà kia không? Tòa cao cao có biển xanh ấy?”

“Có.”

“Con được sinh ra ở đó đấy.”

“Ah, bon?*” Bà ngoái đầu nhìn theo khi tôi lái xe qua. “Con may mắn thật đấy.”

Chu Thich: À, hay nhỉ (tiếng Pháp).

“Là sao ạ?”

“Khi biết nơi mình sinh ra.”

“Có lẽ con chưa bao giờ nghĩ nhiều đến điều đó.”

“Ầy, tất nhiên là không rồi. Nhưng biết được là việc quan trọng đấy, biết gốc gác của mình. Biết nơi con được làm người. Nếu không, con sẽ thấy cuộc đời mình có vẻ không thật. Như một câu đố. Vous comprenez?* Như thể con đã bỏ lỡ phần đầu của câu chuyện và giờ con đang ở giữa, cố hiểu đầu cua tai nheo.”

Chu Thich: Con có hiểu không? (tiếng Pháp).

Tôi hình dung đó là những gì Baba cảm thấy dạo này. Cuộc đời ông lỗ chỗ những khoảng trống. Mỗi ngày là một câu chuyện bí ẩn, một câu đố phải tìm cách giải.

Chúng tôi lái xe trong im lặng trong vài cây số.

“Con có thấy công việc của mình thú vị không ư?” tôi nói. “Một hôm con về nhà thì thấy nước chảy trong bồn rửa bát. Có một chiếc cốc vỡ dưới sàn, còn bếp ga thì vẫn bật. Đó là khi con biết rằng mình không thể để ông ấy một mình thêm nữa. Và vì con không đủ tiền thuê một người chăm sóc sống cùng, nên con tìm kiếm một công việc có thể làm tại nhà. ‘Thú vị’ không phải là yếu tố con tính đến.”

“Và trường mỹ thuật có thể đợi.”

“Phải vậy thôi.”

Tôi lo rằng tiếp theo bà sẽ nói Baba thật may mắn vì có một đứa con gái như tôi, nhưng trước sự nhẹ nhõm và biết ơn của tôi, bà chỉ gật đầu, mắt lướt qua những tấm biển trên đường cao tốc. Tuy nhiên những người khác - nhất là người Afghanistan - lúc nào cũng bảo Baba may mắn làm sao, rằng tôi quả là phước lành. Họ nói về tôi với vẻ ngưỡng mộ. Họ biến tôi thành một vị thánh, một cô con gái đã dũng cảm từ bỏ cuộc sống rực rỡ đầy thoải mái và đặc quyền đặc lợi để ở nhà chăm sóc cha. Nhưng, đầu tiên là người mẹ, họ nói, giọng run run, tôi tưởng tượng thế, với vẻ cảm thông lấp lánh. Ngần ấy năm chăm sóc mẹ. Bao nhiêu xáo trộn. Giờ thì đến cha. Con bé không hề xinh, nhưng cũng có người theo đuổi. Một người Mỹ, anh ta ấy, là một tay rất được. Con bé đã có thể lấy anh ta. Nhưng nó không làm thế. Vì họ. Những gì mà nó đã hy sinh. Ôi, mỗi một người cha người mẹ đều nên có một đứa con gái như thế. Họ khen khiếu hài hước của tôi. Họ trầm trồ trước sự dũng cảm và cao thượng của tôi theo cái cách người ta vẫn thường làm với những người vượt qua sự dị dạng hay có lẽ là rối loạn chức năng nói.

Nhưng tôi không nhận ra chính mình trong phiên bản đó của câu chuyện. Chẳng hạn như, có những buổi sáng tôi thấy Baba ngồi trên mép giường, nhìn tôi với đôi mắt kèm nhèm, sốt ruột đợi tôi xỏ tất vào đôi chân khô ráp lốm đốm đồi mồi, gọi tên tôi và làm bộ mặt ngơ ngác. Ông nhăn mũi theo cái kiểu khiến ông giống một con vật gặm nhấm ướt nhẹp sợ hãi, và tôi ghét ông mỗi khi ông trưng vẻ mặt đó. Tôi ghét ông vì ông thành ra như vậy. Tôi ghét ông vì những đường biên giới chật hẹp trong sự tồn tại của tôi, vì là lý do khiến những năm tháng đẹp nhất bị rút cạn khỏi tôi. Có những ngày tôi chỉ muốn thoát khỏi ông, khỏi sự cáu kỉnh và đòi hỏi của ông. Tôi chẳng hề giống một vị thánh.

Đến phố 13 tôi rẽ lối. Đi thêm vài cây số nữa, tôi đã đỗ xe trên lối vào nhà, khu Beaver Creek, và tắt máy.

Pari ngó ra ngoài cửa kính nhìn ngôi nhà một tầng của chúng tôi, cánh cửa ga ra tróc sơn nham nhở, viền cửa sổ màu ô liu, cặp sư tử đá nom rẻ tiền đứng canh hai bên cửa - tôi chưa có can đảm vứt chúng đi vì Baba yêu chúng, tuy nhiên tôi không nghĩ ông sẽ để ý. Chúng tôi sống trong ngôi nhà này từ 1989, năm tôi bảy tuổi, ban đầu là thuê, trước khi Baba mua hẳn từ người chủ vào năm 93. Mẹ tôi qua đời trong ngôi nhà này, vào một buổi sáng đầy nắng trước đêm Giáng sinh, trên chiếc giường bệnh mà tôi đã sắp xếp cho bà trong phòng ngủ của khách, cũng là nơi bà trải qua ba tháng cuối đời. Bà bảo tôi chuyển bà tới căn phòng đó vì muốn ngắm cảnh. Bà nói điều đó làm tinh thần bà khá lên. Bà nằm trên giường, đôi chân sưng tấy xám ngoét, cả ngày nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm con phố cụt, khoảnh sân trước với những cây phong Nhật Bản bao quanh mà bà đã trồng nhiều năm trước, luống hoa hình sao, vạt cỏ bị chia tách bởi hàng sỏi hẹp, chân đồi xa xa ngả sắc vàng xuộm óng ánh lúc ban trưa khi nắng rực rỡ nhất.

“Cô lo quá,” Pari khẽ nói.

“Dễ hiểu mà cô,” tôi đồng tình. “Đã năm tám năm rồi.”

Bà nhìn xuống đôi bàn tay đan trong lòng. “Cô hầu như không nhớ gì về ông ấy cả. Cái cô nhớ, không phải là khuôn mặt hay giọng nói. Chỉ là đời cô luôn có gì đó thiếu vắng. Một điều gì đó đáng quý. Một điều gì đó… A, cô không biết phải nói sao. Vậy thôi.”

Tôi gật đầu. Tôi nghĩ tốt hơn là không nên nói với bà tôi hiểu rõ cảm giác ấy đến thế nào. Tôi suýt nữa đã hỏi liệu bà đã từng có dự cảm về sự tồn tại của tôi.

Bà vân vê đầu tua rua của chiếc khăn. “Con nghĩ có thể nào ông ấy nhớ ra cô không?”

“Cô muốn nghe sự thật ạ?”

Bà dò xét khuôn mặt tôi. “Tất nhiên là có rồi.”

“Nhiều khả năng là không.” Tôi nghĩ đến lời bác sĩ Bashiri nói, bác sĩ lâu năm của cha mẹ tôi. Anh nói Baba cần một chế độ điều dưỡng nghiêm ngặt, ổn định. Giảm thiểu những cú sốc. Hoàn toàn có thể đoán biết được.

Tôi mở cửa. “Cô có ngại ngồi trong xe một tẹo không? Con đưa bạn con về nhà trước, rồi chúng ta sẽ gặp Baba.”

Bà đưa một tay lên che mắt, và tôi không ở lại để xem bà có khóc hay không.

❆❆❆

Năm tôi mười một tuổi, tất cả các lớp sáu ở trường tiểu học của tôi tham gia một chuyến cắm trại qua đêm ở Công viên Hải dương Vịnh Monterey. Cả tuần trước ngày thứ Sáu đó, bạn cùng lớp tôi ai ai cũng nói về chuyện đó, trong thư viện hay lúc chơi bóng bốn người vào giờ giải lao, rằng chúng sẽ vui thế nào, khi công viên hải dương đóng cửa, chúng được tự do chạy quanh các khu triển lãm, trong bộ đồ ngủ, giữa lũ cá voi đầu búa, cá đuối dơi, hải long và mực. Giáo viên của chúng tôi, cô Gillespie, bảo rằng các quầy đồ ăn sẽ được bố trí quanh viện hải dương, và học sinh được tùy ý chọn bánh mì bơ lạc với mứt, hay mì nui xốt phô mai. Các con có thể ăn bánh sô cô la tráng miệng hay kem va ni, cô nói. Đêm đó, học sinh sẽ chui vào túi ngủ nghe thầy cô đọc truyện, và chúng sẽ chìm vào giấc ngủ giữa đám cá ngựa, cá sác đin và cá mập báo lướt qua mớ lá tảo bẹ cao đung đưa. Đến thứ Năm, niềm háo hức trong lớp càng trở nên rõ nét hơn. Ngay cả những đứa chuyên gây rối cũng tỏ ra ngoan hết mực vì sợ lỡ nghịch dại thì không được cho đi viện hải dương nữa.

Với tôi, việc này cũng giống như xem một bộ phim sôi nổi mà tắt tiếng đi. Tôi cảm thấy bị tách rời khỏi tất cả những háo hức đó, lạc điệu với tâm trạng tiệc tùng đó - như cảm giác của tôi mỗi tháng Mười hai khi lũ bạn học về nhà để thấy những cây thông, những chiếc tất treo lủng lẳng trên lò sưởi và đám quà xếp theo hình kim tự tháp. Tôi bảo với cô Gillespie rằng tôi sẽ không đi cùng. Khi cô hỏi tại sao, tôi đáp là chuyến cắm trại rơi đúng vào một ngày lễ Hồi giáo. Tôi không chắc cô có tin không nữa.

Cái đêm cắm trại, tôi ở nhà cùng cha mẹ, và xem Murder, She Wrote. Tôi cố tập trung vào chương trình và không nghĩ về chuyến cắm trại, nhưng tâm trí cứ vẩn vơ đâu đâu. Tôi tưởng tượng ra lũ bạn học, cùng thời điểm đó, mặc đồ ngủ, đèn pin trong tay, trán áp vào kính một bể lươn khổng lồ. Tôi cảm thấy có gì đó thắt lại trong ngực mình, và tôi nhúc nhắc mình trên ghế. Baba, ngả lưng trên chiếc ghế bên kia, ném một hột lạc rang vào miệng và khùng khục cười trước lời Angela Lansbury vừa nói. Kế bên ông, tôi bắt gặp mẹ đăm chiêu nhìn tôi, khuôn mặt xầm xì, nhưng khi mắt chúng tôi chạm nhau, vẻ mặt đó liền nhanh chóng biến mất và mẹ mỉm cười - một nụ cười lén lút, dành riêng cho tôi - tôi bèn thu mình và cố nặn ra một nụ cười đáp lại. Đêm đó, tôi nằm mơ mình đang ở biển, đứng ở nơi nước ngập tới thắt lưng, những con sóng màu xanh lục xanh dương, ngọc bích, xa phia, ngọc lục bảo, ngọc lam, nhẹ nhàng vỗ vào hông tôi. Dưới chân tôi là hằng hà sa số cá bơi lượn, như thể đại dương là viện hải dương học của riêng tôi vậy. Chúng lướt qua ngón chân tôi và cù vào bụng chân tôi, hàng nghìn con lao đi vun vút, phản chiếu những màu sắc lấp lóa lên cát trắng.

Chủ nhật đó, Baba dành cho tôi một sự ngạc nhiên. Ông đóng cửa hàng - việc mà ông hầu như chưa bao giờ làm - và lái xe đưa chúng tôi tới viện hải dương ở Monterey. Baba sôi nổi nói khắp dọc đường. Rằng chúng tôi sẽ vui đến thế nào. Rằng ông đang đặc biệt trông chờ được ngắm nhìn tất cả đám cá mập. Rồi trưa chúng tôi nên ăn gì? Trong lúc ông nói, tôi nhớ lại hồi nhỏ, cha đưa tôi tới sở thú ở Công viên Kelly và vườn Nhật Bản ngay bên cạnh để xem cá chép Nhật, và chúng tôi đã đặt tên cho tất thảy lũ cá, tôi đã nắm chặt tay ông và tự nhủ mình sẽ không bao giờ cần ai khác nữa chừng nào còn sống.

Ở viện hải dương, tôi xông xáo đi khắp các khu triển lãm và cố hết sức trả lời câu hỏi của Baba về những loài cá khác nhau mà tôi nhận ra được. Nhưng nơi đó quá sáng và ồn ào, những khu triển lãm thú vị thì đông như nêm. Chẳng giống chút nào với tưởng tượng của tôi về chuyến cắm trại. Đó là cả một sự đấu tranh. Tôi thấy kiệt sức, cố tỏ ra mình đang vui lắm. Tôi cảm thấy cơn đau dạ dày trào lên, và sau khoảng một tiếng đồng hồ lượn lờ, chúng tôi cũng rời đi. Trên đường về nhà, Baba cứ liếc nhìn tôi vẻ u ám như thể định nói gì đó. Tôi cảm thấy ánh mắt ông cứ dán chặt vào mình. Tôi bèn giả vờ ngủ.

Năm sau đó, lên trung học, lũ con gái ở tuổi tôi đều đánh phấn mắt và son bóng. Chúng tới những buổi biểu diễn của Boyz II Men, những cuộc khiêu vũ trường học, và hẹn hò theo nhóm ở công viên Great America, nơi chúng rú lên theo những vòng xoáy của trò tàu lượn trên không. Đám bạn cùng lớp cố sống cố chết tham gia đội bóng rổ hay cổ vũ. Đứa con gái ngồi sau tôi ở lớp tiếng Tây Ban Nha, làn da tái lấm tấm tàn nhang, thì tìm cách góp mặt vào đội tuyển bơi, và một hôm nó tình cờ nhắc đến chuyện đó, trong lúc chúng tôi thu dọn sách vở sau giờ học, rằng tôi cũng nên thử xem. Nó không hiểu. Cha mẹ tôi sẽ xấu hổ lắm nếu tôi mặc đồ bơi ở nơi công cộng. Đó cũng không phải điều tôi muốn. Tôi ý thức rất rõ về cơ thể mình. Tôi mảnh mai ở phần trên hông, nhưng phần dưới lại thô một cách không cân xứng, như thể trọng lực đã dồn hết cân nặng xuống thân dưới của tôi vậy. Nom tôi như bị một đứa trẻ lắp ghép lại trong trò chơi lắp ghép các bộ phận cơ thể, hay còn hơn thế nữa, là ghép sai để mọi người được trận cười no bụng. Mẹ bảo là tôi có “khung xương to”. Bà nói bà ngoại cũng có vóc dáng ấy. Cuối cùng, bà ngừng lại, chắc đã đoán ra, rằng xương to không phải là cách mà một đứa con gái muốn bị miêu tả.

Tôi đã từng xin Baba cho tham gia đội bóng chuyền, nhưng ông chỉ ôm tôi và nhẹ nhàng khum tay trên đầu tôi. Ai sẽ đưa con đi tập chứ? ông lý luận. Ai sẽ đưa con đến các buổi thi đấu? Ôi, cha ước gì nhà mình có cái điều kiện xa xỉ ấy, Pari à, như cha mẹ các bạn con, nhưng chúng ta phải kiếm sống, mẹ con và cha. Cha sẽ không để nhà mình sống dựa vào tiền trợ cấp. Con hiểu mà, con gái rượu. Cha biết là con hiểu.

Thế nhưng dù phải kiếm sống, Baba vẫn tìm ra thời gian đưa tôi tới lớp học tiếng Farsi ở Campbell. Mỗi chiều thứ Ba, sau giờ học chính khóa, tôi lại ngồi ở lớp tiếng Farsi, như một con cá bơi ngược dòng, cố điều khiển cây bút, đi ngược lại bản năng tự nhiên của tay tôi, từ phải qua trái. Tôi năn nỉ Baba cho tôi nghỉ lớp tiếng Farsi, nhưng ông không đồng ý. Ông nói sau này tôi sẽ biết trân trọng món quà mà ông trao cho tôi. Ông nói nếu văn hóa là một ngôi nhà, thì ngôn ngữ là chìa khóa mở cánh cửa chính, tới tất thảy các căn phòng bên trong. Không có nó, ông tiếp, con sẽ rơi vào kết cục mất phương hướng, không có một ngôi nhà thích hợp hay một bản sắc chính thống.

Thế rồi cả những ngày Chủ nhật, khi tôi choàng chiếc khăn bằng vải bông trắng, ông lại chở tôi đến nhà thờ Hồi giáo ở Hayward để học kinh Koran. Căn phòng mà chúng tôi học - gồm một tá đứa con gái Afghanistan khác và tôi - bé xíu, không có điều hòa, và có mùi vải lanh không giặt. Cửa sổ thì hẹp và cao tít, giống cửa sổ trong mấy nhà tù thường thấy trong phim. Cô dạy chúng tôi là vợ một người bán tạp hóa ở Fremont. Tôi thích nhất khi cô kể cho chúng tôi nghe chuyện về cuộc đời Nhà tiên tri, phần này tôi thấy thú vị - ông đã trải qua tuổi thơ ở sa mạc như thế nào, thiên thần Gabriel đã xuất hiện trước mặt ông trong một cái động và lệnh cho ông trích dẫn các đoạn thơ ra sao, tất cả những ai gặp ông đều ấn tượng với khuôn mặt nhân từ và tỏa sáng của ông. Nhưng phần lớn thời gian cô dành để nói về một danh sách dài dằng dặc, cảnh báo chúng tôi những việc mà chúng tôi phải tránh bằng mọi giá như những cô gái Hồi giáo ngoan đạo vì e ngại bị văn hóa phương Tây xâm chiếm: con trai - đầu tiên và trước nhất, hẳn nhiên rồi - nhưng còn có cả nhạc rap, Madonna, Melrose Place*, quần soóc, khiêu vũ, bơi ở nơi công cộng, cổ vũ, đồ uống có cồn, thịt muối, xúc xích Italia, burger không phù hợp tiêu chuẩn halal*, và cả đống những thứ khác. Tôi ngồi trên sàn nhà, vã mồ hôi vì nóng, chân tê dại, ước gì có thể bỏ khăn ra khỏi đầu, nhưng tất nhiên rồi, người ta đâu thể làm thế trong một nhà thờ Hồi giáo. Tôi ngước nhìn cửa sổ, nhưng chỉ thấy một khe trời hẹp. Tôi mong mỏi khoảnh khắc được rời khỏi thánh đường, khi không khí trong lành sẽ ùa vào mặt tôi đầu tiên và tôi luôn cảm thấy ngực mình thả lỏng ra, sự nhẹ nhõm của một nút thắt khó chịu dần được cởi bỏ.

Chu Thich: Một bộ phim truyền hình dài tập của Mỹ.

Chu Thich: Sản phẩm không chứa những thành phần bị cấm như thịt lợn và việc giết mổ theo quy tắc đạo Hồi (Caruri).

Nhưng cho đến lúc đó, lối thoát duy nhất là nới lỏng dây cương trong tâm trí tôi. Thi thoảng, tôi thấy mình nghĩ đến Jeremy Warwick ở lớp Toán. Jeremy có đôi mắt xanh lam và là một cậu nhóc da trắng tóc xù. Cậu kín đáo và e dè. Cậu chơi ghita trong một ban nhạc ga ra - ở chương trình tài năng thường niên của trường, họ chơi một phiên bản khàn khàn của “House of the Rising Sun”. Trong lớp, tôi ngồi sau Jeremy bốn ghế, bên tay trái cậu. Đôi khi tôi tưởng tượng ra cảnh chúng tôi hôn nhau, tay cậu ôm lấy gáy tôi, khuôn mặt kề sát tôi đến nỗi như che khuất cả thế giới. Cảm giác đó sẽ lan tỏa trong tôi như một sợi lông vũ ấm áp khẽ cù vào bụng, vào tứ chi tôi. Tất nhiên điều đó chẳng bao giờ xảy ra. Chúng tôi có thể chẳng bao giờ nên chuyện, Jeremy và tôi. Nếu có một chút ý niệm mơ hồ nào về sự tồn tại của tôi, cậu cũng chẳng để lộ ra một tí gì. Thế cũng tốt thôi, thật đấy. Như vậy, tôi có thể vờ như lý do duy nhất chúng tôi không thể ở bên nhau là vì cậu không thích tôi.

Tôi dành mùa hè làm việc ở quán ăn của cha mẹ tôi. Khi nhỏ hơn, tôi thích lau bàn, giúp sắp xếp bát đĩa và đồ bạc, gấp khăn giấy, cắm một bông hoa đồng tiền đỏ vào cái lọ tròn nhỏ ở giữa mỗi bàn. Tôi vờ như mình là người không thể thiếu với việc kinh doanh của gia đình, rằng quán ăn sẽ không làm ăn gì được nếu không có tôi quán xuyến sao cho muối và tiêu lúc nào cũng đầy đủ.

Đến khi lên trung học, những ngày ở quán Kabob Nhà Abe trở nên dài lê thê và nóng bức. Phần lớn vẻ lấp lánh của những thứ bên trong quán từng thu hút tôi thuở bé đã phai nhạt. Chiếc máy bán soda kêu rù rì trong góc, những tấm khăn trải bàn bằng vải vinyl, đống cốc nhựa lem nhem, tên những món ăn dân dã trên quyển thực đơn ép nhựa - Kabob Du mục, Cơm Pilaf đèo Khyber, Gà con đường tơ lụa - tấm áp phích lồng khung cẩu thả hình cô gái Afghanistan trên tạp chí Địa lý Quốc gia, cô gái với đôi mắt ám ảnh - như một quy định rằng mỗi một quán ăn Afghanistan phải có đôi mắt ấy nhìn chằm chằm từ tường. Bên cạnh, Baba treo bức tranh sơn dầu những ngọn tháp lớn ở Herat tôi vẽ hồi lớp bảy. Tôi nhớ cái giá của niềm tự hào và vinh quang mà tôi cảm thấy khi ông lần đầu treo nó lên, là khi tôi nhìn khách hàng ăn kabob thịt cừu bên dưới tác phẩm nghệ thuật của tôi.

Vào giờ ăn trưa, trong khi mẹ và tôi thoăn thoắt chạy tới lui từ làn khói cay nồng trong bếp ra các bàn ăn nơi chúng tôi phục vụ cánh nhân viên văn phòng, công nhân và cảnh sát thành phố, thì Baba bận rộn làm ở quầy thu ngân - Baba và chiếc áo trắng dính mỡ, mớ lông ngực xám thò ra khỏi chiếc cúc trên để mở, cánh tay to bản lông lá. Baba tươi cười, vui vẻ vẫy tay với từng người khách vào quán. Chào ngài! Chào bà! Chào mừng tới Kabob Nhà Abe. Tôi là Abe. Ông bà gọi món gì ạ? Tôi cảm thấy rùng mình vì ông không nhận ra mình nói nghe như tay bạn Trung Đông ngớ ngẩn trong một bộ phim hài dở tệ. Rồi, với mỗi suất ăn tôi phục vụ, lại có thêm màn rung chiếc chuông đồng cũ kỹ của Baba. Nó bắt đầu như kiểu chuyện cười, tôi nghĩ thế, chuyện cái chuông mà Baba treo vào tường đằng sau quầy tính tiền ấy. Giờ thì mỗi bàn được phục vụ đều được chào đón bởi tiếng chuông đồng rổn rảng. Khách quen thì đã quen với chuyện đó - họ hầu như không để tâm nghe nó nữa - còn khách mới hầu như chỉ cho đó là nét hấp dẫn độc đáo của quán, dù thi thoảng họ cũng có phàn nàn.

Con không muốn rung chuông nữa, một tối Baba nói. Đó là vào học kỳ mùa xuân năm cuối trung học của tôi. Chúng tôi đang ngồi trong xe bên ngoài quán, sau khi đóng cửa, đợi mẹ chạy vào lấy mấy viên thuốc dạ dày để quên. Baba đeo vẻ mặt nặng trĩu. Ông đã mang tâm trạng u ám cả ngày. Mưa phùn nhè nhẹ rơi xuống trung tâm thương mại. Đã muộn rồi, bãi đỗ xe trống hoác, chỉ còn vài chiếc xe trước quầy KFC mua mang đi và một chiếc bán tải đỗ bên ngoài tiệm giặt khô, hai gã ngồi trong xe, khói thuốc ngoằn ngoèo bay lên từ cửa kính.

Khi không bị bắt buộc thì vui hơn ạ, tôi đáp.

Cha cho là việc nào chả vậy. Ông thở dài não nề.

Tôi nhớ mình đã từng phấn khích thế nào, hồi nhỏ, khi Baba bế tôi trên tay và để tôi rung chuông. Khi ông đặt tôi xuống, khuôn mặt tôi sáng bừng hạnh phúc và tự hào.

Baba bật hệ thống sưởi trên xe lên, khoanh tay lại.

Đường tới Baltimore xa lắm.

Tôi vui vẻ nói, Cha có thể bay tới thăm con lúc nào cũng được mà.

Bay lúc nào cũng được, ông nhắc lại vẻ giễu cợt. Cha làm kabob để kiếm sống đấy, Pari à.

Thế thì con sẽ về thăm.

Baba đảo mắt về phía tôi và nhìn tôi vẻ thiểu não. Sự rầu rĩ của ông tựa bóng tối ngoài kia đang đè vào cửa kính ô tô.

Ngày nào trong suốt một tháng vừa qua tôi cũng kiểm tra hòm thư, tim tôi tràn trề hy vọng mỗi lần xe bưu chính đỗ lại bên vỉa hè. Tôi mang thư vào trong, nhắm mắt lại, nhủ thầm. Đây có thể là nó. Rồi tôi mở mắt và bói ra toàn hóa đơn với phiếu giảm giá và rút thăm trúng thưởng. Thế rồi vào thứ Ba tuần trước, tôi xé một chiếc phong bì và thấy những từ mình mong đợi bấy lâu nay: Chúng tôi hân hạnh thông báo…

Tôi nhảy cẫng lên. Tôi rú rít - một tiếng hét xé họng thực sự khiến mắt tôi rưng rưng. Gần như ngay tức thì, một hình ảnh lướt qua đầu tôi: đêm khai trương ở phòng tranh, tôi mặc gì đó đơn giản, màu đen, thanh lịch, vây xung quanh là các nhà tài trợ và giới phê bình đăm chiêu, mỉm cười trả lời các câu hỏi, trong khi đám đông người hâm mộ quyến luyến trước những bức toan vẽ của tôi còn những người phục vụ đeo găng tay trắng nhẹ nhàng lướt quanh phòng tranh rót rượu, mời những miếng cá hồi cắt vuông nho nhỏ ăn kèm thì là, hoặc mầm măng tây quấn trong bánh ngàn lớp. Tôi tận hưởng cảm giác lâng lâng vui sướng bất ngờ ấy, cái cảm giác khiến ta muốn nhào tới ôm và nhảy với người lạ nữa kìa.

Mẹ con mới là người làm cha lo đấy, Baba nói.

Tối nào con cũng sẽ gọi điện mà. Con hứa đấy. Cha biết là con sẽ làm mà.

Baba gật đầu. Những chiếc lá của cây phong gần lối vào bãi đỗ xe rơi lả tả trong cơn gió thốc đột ngột.

Con đã nghĩ thêm chưa, ông nói, về những gì chúng ta đã bàn ấy?

Ý cha là, trường đại học cộng đồng ạ?

Chỉ một hoặc hai năm thôi. Cho mẹ con thời gian quen với ý tưởng đó. Rồi con có thể nộp đơn lại mà.

Tôi rùng mình với cơn giận bất ngờ trào lên. Baba, những người này đã xem xét điểm và học bạ của con, họ đã xem hồ sơ và suy nghĩ về tác phẩm nghệ thuật của con, đủ để không chỉ nhận con mà còn cho học bổng nữa. Đó là một trong những học viện nghệ thuật tốt nhất nước. Không phải trường mà ta có thể từ chối đâu. Ta làm gì có cơ hội thứ hai như thế trong đời.

Đúng, ông ngồi thẳng lưng lên. Ông khum tay và hà hơi cho ấm. Tất nhiên là cha hiểu. Tất nhiên là cha mừng cho con. Tôi có thể thấy sự đấu tranh trên khuôn mặt ông. Và cả nỗi sợ hãi nữa. Không chỉ là sợ hãi cho tôi và những gì có thể xảy đến với tôi ở nơi cách nhà gần năm nghìn cây số. Mà là sợ chính tôi, sợ mất tôi. Sợ cái quyền lực tôi nắm giữ, mà thông qua sự vắng mặt của tôi, sẽ khiến ông buồn, sẽ bổ vào trái tim mong manh rộng mở của ông, nếu tôi chọn làm vậy, như hành động mà một con chó Doberman làm với một chú mèo con.

Tôi thấy mình nghĩ đến em gái ông. Khi đó, mối liên kết của tôi với Pari - người từng một thời hiện diện rõ nét trong tôi - đã phai nhạt. Tôi hiếm khi nghĩ về cô nữa. Năm tháng trôi đi, tôi đã lớn lên khỏi cô, như cách tôi lớn lên khỏi bộ đồ ngủ yêu thích và đám thú bông mình từng giữ khư khư. Nhưng giờ tôi lại nghĩ đến cô và sợi dây liên kết chúng tôi. Nếu những gì xảy đến với cô giống như một con sóng vỡ tan xa bờ, thì giờ con sóng ấy lại cuộn trào quanh mắt cá chân tôi, rồi rút xa khỏi chân tôi.

Baba hắng giọng và ngước ra ngoài cửa sổ nhìn bầu trời tối đen và mặt trăng bị mây mờ che phủ, mắt long lanh cảm xúc.

Tất cả mọi thứ đều sẽ khiến cha nhớ đến con.

Chính trong giọng nói run run, nhuốm vẻ sợ hãi ấy, tôi biết rằng cha tôi là một người bị tổn thương, rằng tình yêu ông dành cho tôi cũng thật, bao la và vĩnh hằng như bầu trời kia, và rằng nó cũng luôn đè nặng xuống tôi. Đó là kiểu tình yêu mà sớm hay muộn cũng sẽ dồn ta vào một lựa chọn: thoát ra hay ở lại chịu đựng sự mãnh liệt của nó dẫu cho nó có siết chặt ta thành một thứ nhỏ bé hơn cả bản thân mình.

Tôi vươn tay từ chỗ ghế sau mờ tối, chạm vào mặt ông. Ông tựa má vào lòng bàn tay tôi.

Sao mà lâu thế nhỉ? ông lẩm bẩm.

Mẹ đang khóa cửa rồi kìa, tôi nói. Tôi cảm thấy kiệt sức. Tôi nhìn mẹ vội vã chạy ra xe. Mưa phùn đã biến thành mưa nặng hạt.

Một tháng sau, hai tuần trước chuyến bay của tôi về miền Đông để tham quan trường, mẹ tới chỗ bác sĩ Bashiri để bảo rằng những viên thuốc dạ dày chẳng ích gì với cơn đau bụng của bà. Anh cho bà siêu âm. Họ phát hiện một khối u to bằng quả óc chó ở buồng trứng trái của bà.

❆❆❆

“Baba?”

Ông đang ngồi trên ghế bành, bất động, chúi về phía trước. Ông vận quần nỉ, phần chân dưới được phủ khăn len kẻ ô. Ông khoác chiếc áo len màu nâu mà tôi mua cho ông hồi năm ngoái bên ngoài áo sơ mi flannel được cài cúc kín tận cổ. Giờ ông cứ đòi mặc sơ mi theo kiểu này, cổ áo cài kín mít, khiến ông trông vừa trẻ con lại vừa yếu ớt, với vẻ khuất phục trước tuổi già. Hôm nay mặt ông nom hơi phù, những sợi tóc bạc chưa chải rủ xuống lông mày. Ông đang xem Ai là triệu phú? với vẻ ủ rũ xen lẫn bối rối. Khi tôi gọi tên ông, ông vẫn nấn ná nhìn màn hình như thể không nghe thấy tôi rồi mới từ từ rời mắt và ngước lên vẻ không vui. Ông có một cái lẹo nhỏ mọc bên dưới mí mắt trái. Ông cần cạo râu.

“Baba à, con tắt tiếng ti vi một lát nhé?”

“Cha đang xem mà,” ông nói.

“Con biết. Nhưng cha có khách đấy.” Hôm qua và cả sáng nay, tôi đã nói với ông là Pari Wahdati sẽ đến thăm. Nhưng tôi không hỏi là ông có nhớ không. Đó là điều mà tôi đã biết từ trước, đừng làm ông khó xử, vì ông sẽ thấy xấu hổ và xù lông nhím, có khi còn cáu nữa.

Tôi giật lấy điều khiển trên tay ghế và tắt tiếng đi, gồng mình chịu trận. Lần đầu ông nổi xung, tôi đã tin rằng đó chỉ là trò giả vờ, một màn diễn của ông mà thôi. Nhẹ nhõm thay, Baba không cự lại mà chỉ thở dài qua mũi.

Tôi khoát tay với Pari, vẫn chần chừ trên lối vào phòng khách. Chầm chậm, bà đi về phía chúng tôi, tôi liền kéo ghế cho bà ngồi gần chỗ Baba. Trông bà hồi hộp và lo lắng vô cùng. Bà ngồi thẳng đơ, tái nhợt, ngả về trước từ trên mép ghế, đầu gối khép sát, tay đan siết lại, còn nụ cười thì mím chặt đến nỗi môi trắng bệch. Bà đăm đăm nhìn Baba, như thể chỉ còn có vài giây phút bên ông và đang cố nhớ lại khuôn mặt ông.

“Baba, đây là người bạn mà con đã nói với Baba đấy ạ.”

Ông nhìn người phụ nữ tóc bạc đối diện. Dạo này ông hay có kiểu nhìn khiến người khác bất an như thế, ngay cả khi ông nhìn thẳng vào họ, thì cái nhìn đó cũng chẳng để lộ điều gì. Trông ông lơ đễnh, kín bưng, như thể định nhìn đi chỗ khác và chỉ tình cờ lướt ánh mắt qua họ mà thôi.

Pari hắng giọng. Kể cả vậy, giọng bà vẫn run run khi cất tiếng. “Chào anh Abdullah. Em là Pari. Rất mừng được gặp anh.”

Ông chậm rãi gật đầu. Tôi gần như thấy được vẻ hoang mang bối rối lăn tăn trên mặt ông như những làn sóng của một cơn co cơ. Ông rời mắt khỏi khuôn mặt tôi sang khuôn mặt Pari. Ông há miệng cười nhệch vẻ căng cứng, theo cái kiểu ông vẫn làm khi nghĩ rằng có ai đó đang chơi khăm mình.

“Nghe giọng cô không phải người ở đây,” cuối cùng ông cũng lên tiếng.

“Cô ấy sống ở Pháp ạ,” tôi đỡ lời. “Mà Baba ơi, cha phải nói tiếng Anh chứ ạ. Cô ấy không hiểu tiếng Farsi đâu.”

Baba gật đầu. “Vậy là cô sống ở London?” ông hỏi Pari.

“Baba!”

“Gì?” Ông quay ngoắt sang tôi. Rồi ông hiểu ra và khẽ bật cười bối rối trước khi chuyển từ tiếng Farsi sang tiếng Anh. “Cô sống ở London à?”

“Thực ra là Paris,” Pari đáp. “Em sống trong một căn hộ nhỏ ở Paris.” Bà không rời mắt khỏi ông.

“Tôi luôn có dự định đưa vợ tôi tới Paris. Sultana - tên bà ấy đấy, cầu trời cho bà ấy được an nghỉ. Lúc nào cô ấy cũng nói, Abdullah à, đưa tôi tới Paris đi. Khi nào mình đưa tôi tới Paris?”

Kỳ thực, mẹ không thích đi du lịch lắm. Với bà, cớ gì phải từ bỏ sự thoải mái và quen thuộc nơi ngôi nhà mình ở để hành xác trên chuyến bay cùng đống hành lý lỉnh kỉnh. Bà không có khái niệm gì về du lịch ẩm thực - khái niệm đồ ăn nước ngoài với bà là món gà xốt cam ở quán Tàu mua mang đi trên phố Taylor. Không hiểu sao Baba, thi thoảng lại nhớ đến bà với sự chính xác lạ lùng - nhớ đến kiểu như là, bà rắc muối vào đồ ăn bằng lòng bàn tay hay thói quen ngắt lời người khác trên điện thoại trong khi bên ngoài bà chưa bao giờ làm thế - còn những lần khác, ông lại có thể nhầm lẫn kinh khủng. Tôi tưởng tượng mẹ đang phai nhạt khỏi tâm trí ông, khuôn mặt bà nhòa mờ vào bóng tối, ký ức về bà nhạt dần theo từng ngày trôi qua, mất từng chút một như cát rơi khỏi nắm tay. Bà đang dần trở thành một bóng hình mờ ảo, một cái vỏ rỗng, mà ông cảm thấy cần phải lấp đầy bằng những chi tiết hư huyễn và những nét tính cách giả, như thể thà nhớ nhầm còn hơn là không nhớ gì cả.

“Ừm, đó là một thành phố đẹp,” Pari nói.

“Chắc là tôi sẽ vẫn đưa nhà tôi tới đó. Nhưng bà ấy đang bị ung thư. Loại ung thư của phụ nữ - người ta gọi là gì nhỉ? - liên quan đến…”

“Buồng trứng,” tôi đáp.

Pari gật đầu, bà liếc nhanh sang tôi rồi quay trở lại nhìn Baba.

“Điều nhà tôi muốn nhất là leo lên tháp Eiffel đấy. Cô đã nhìn thấy nó chưa?” Baba hỏi.

“Tháp Eiffel?” Pari Wahdati bật cười. “Rồi anh. Ngày nào cũng thấy. Thực ra là không tránh được ấy chứ.”

“Cô đã leo lên chưa? Lên đến tận đỉnh ấy?”

“Rồi ạ. Trên đó đẹp lắm. Nhưng em vốn sợ độ cao, nên không thoải mái lắm. Nhưng ở trên đỉnh, trong một ngày nắng đẹp, ta có thể trông xa tới hơn sáu mươi cây số. Tất nhiên là ở Paris không phải ngày nào cũng nắng đẹp đâu.”

Baba ậm ừ. Pari, được khích lệ, tiếp tục nói về ngọn tháp, nó được xây trong bao nhiêu năm, rằng vốn không hề có kế hoạch để nó ở lại Paris sau Hội chợ Thế giới năm 1889, nhưng bà không đọc được ánh mắt Baba như tôi. Nét mặt ông trở nên thờ ơ. Bà không nhận ra đã để mất ông, rằng tâm trí ông đã trôi dạt như những chiếc lá bị gió cuốn bay. Pari nhích lại gần hơn trên ghế. “Anh có biết không, Abdullah,” bà nói, “rằng cứ bảy năm một lần, người ta phải sơn lại tháp?”

“Cô nói tên cô là gì ấy nhỉ?” Baba hỏi.

“Pari.”

“Đó là tên con gái tôi.”

“Vâng, em biết.”

“Cô có cùng tên,” Baba nói. “Hai người cùng tên. Vậy đấy.” Ông húng hắng ho, lơ đãng giật một sợi xơ nhỏ trên tay ghế da.

“Abdullah à, em hỏi anh một câu được không?”

Baba nhún vai.

Pari ngước lên nhìn tôi như thể xin phép. Tôi gật đầu ý bảo bà cứ tiếp đi. Bà ngả về phía trước trên ghế. “Tại sao anh lại quyết định chọn cái tên này cho con gái anh?”

Baba hướng mắt ra ngoài cửa sổ, móng tay vẫn cào sợi xơ trên tay ghế.

“Anh có nhớ không, Abdullah? Tại sao lại là cái tên này?”

Ông lắc đầu. Ông nắm một tay lại, túm chặt hai vạt áo khoác len phía trước cổ. Môi ông hầu như không mấp máy khi khẽ ngâm nga, một giai điệu thì thầm mà ông luôn viện đến khi bất ngờ bị nỗi lo lắng bủa vây và không biết phải trả lời sao, khi mọi thứ nhòa dần thành mơ hồ và ?