← Quay lại trang sách

Bước Vào Thế Kỷ Mới - Chương 1

Giảm biên chế - Giờ cuối cùng của Tom - Bi kịch của Janine Gorjanc - Suy thoái - Những biện pháp quyết liệt - Tranh cãi về Tom - Những bức ảnh sởn gai ốc - Câu chuyện về chiếc ghế của Tom Mota - Đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha - Sanderson - Hai bức email - Câu chuyện về chiếc ghế của Tom Mota, phần II - Quảng cáo gây quỹ từ thiện - Acid lastive - Lynn Mason

Quá trình giảm biên chế bắt đầu ụp xuống chúng tôi. Chuyện này đã được đồn đại mấy tháng nay, nhưng giờ thì chính thức rồi. Nếu may mắn, anh có thể đâm đơn kiện. Nếu anh là người da đen, có tuổi, phụ nữ, người Công giáo, người Do Thái, đồng tính, béo phì, hoặc tàn tật, ít nhất anh cũng có cơ sở. Ở lúc này hay lúc khác tất cả chúng tôi đều được lấy lời khai. Chúng tôi lên kế hoạch cung cấp lời khai cho vụ kiện của Tom - chúng tôi không hề nghi ngờ việc sẽ có một vụ kiện. Mặc dù gã chẳng có cơ sở gì cả, trừ phi việc là một tên khốn kiếp mới được bổ sung vào danh sách. Và không chỉ có chúng tôi mới nói thế. Vợ cũ của thằng cha này cũng căm ghét gã. Lệnh ngăn trở. Gã không được phép gặp hai đứa con nhỏ của mình nếu không có giám sát. Cô ta chuyển đến Phoenix chỉ để thoát khỏi gã. Chúng tôi không bao giờ gọi gã là một tên khốn kiếp mà lại không đạt được sự đồng thuận rất cao. Amber Ludwig phản đối cách gọi này vì cô ta bắt đầu phản đối những lời tục tĩu kể từ khi có bầu, nhưng thực sự thì cũng chẳng còn từ nào khác, và sự phản đối của cô ta thực ra cũng chỉ mang tính gọi là.

Khi Tom biết là mình sắp bị tống khứ, gã muốn ném chiếc máy tính của mình vào cửa sổ phòng làm việc. Benny Shassburger đang ở trong đó cùng với gã. Benny cũng chẳng phải bạn bè thân thiết gì của Tom cho cam nhưng anh ta là người vẫn thỉnh thoảng đi ăn trưa với Tom rồi báo cáo lại cho những người còn lại chúng tôi. Tin tức lan truyền rất nhanh là Tom đã bị cho nghỉ việc và lẽ tự nhiên Benny là người đến đó. Anh ta kể là Tom đang lồng lộn trong phòng làm việc của mình như một gã vừa bị tống vào tù. Anh ta kể là anh ta có thể hình dung trông Tom như thế nào vào cái đêm gã tới ngôi nhà ở Naperville với cây gậy nhôm và phải gọi cả cảnh sát để khống chế gã. Trước đó chúng tôi chưa bao giờ nghe câu chuyện này. Thế là ngay lập tức chúng tôi phải bắt Benny ngừng kể câu chuyện về giờ phút cuối cùng của Tom để kể chuyện chiếc gậy nhôm trước đã. Benny kinh ngạc khi thấy chúng tôi chưa được nghe chuyện đó; anh ta quả quyết là chúng tôi đã nghe rồi. Không, chúng tôi chưa bao giờ nghe cả. “Lượn ra khỏi đây đi,” anh ta nói. “Các cậu nghe chuyện này rồi còn gì.” Không, chúng tôi chưa nghe thật mà. Những cuộc đối thoại kiểu này bao giờ cũng diễn như vậy. Thế là Benny kể chuyện về Tom và cây gậy sau đó anh ta kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về giờ phút cuối cùng của Tom. Cả hai đều là những câu chuyện hấp dẫn và kết hợp lại với nhau chúng giết được tròn một tiếng đồng hồ. Một số người thích giết một tiếng đồng hồ giờ làm việc của công ty còn những người khác thì cảm thấy lương tâm cắn rứt sau đó. Nhưng bất kể cảm xúc cá nhân của anh về chuyện này như thế nào, anh vẫn phải giải trình về tiếng đồng hồ đó, và thế là anh tính nó vào hóa đơn cho một khách hàng. Đến cuối năm tài khóa, khách hàng của chúng tôi đã trả cho chúng tôi một khoản tiền đáng kể cho việc ngồi lê đôi mách, những chi phí mà họ chuyển tiếp sang cho các bạn, người tiêu dùng. Đó là chi phí kinh doanh, nhưng một số người trong chúng tôi sợ rằng đó là dấu hiệu cho thấy dấu chấm hết đang đến gần, cũng giống như sự trụy lạc diễn ra trước khi Đế chế La Mã sụp đổ. Liên quan đến cơ man nào là tiền, và một số trong đó nhỏ giọt xuống chỗ chúng tôi, một khoản nhỏ cho phép chúng tôi sống trong số một phần trăm những kẻ giàu có nhất thế giới. Đó là những ngày vui bất tận, cho đến khi quá trình giảm biên chế bắt đầu.

Tom muốn ném cái máy tính của mình vào cửa sổ, nhưng chỉ khi gã có thể bảo đảm rằng nó sẽ làm vỡ kính và hạ cánh xuống đường phố bên dưới. Gã đang lúi húi dưới gầm bàn rút dây dợ. “Sáu mươi tầng đấy, Tom,” Benny nói. Và Tom đồng ý rằng đó sẽ là một ý tồi nếu gã không thể phá vỡ kính. Nếu kính không vỡ người ta sẽ nói rằng Tom Mota thậm chí còn đếch biết phá phách thế nào cho đúng kiểu - gã không muốn chúng được hả hê như thế , lũ khốn nạn. Chúng tôi là lũ khốn nạn mà gã đang nói đến, một phần nào đó. “Nhưng tớ không nghĩ nó sẽ làm vỡ được kính,” Benny nói. Tom ngừng loay hoay với với chiếc máy tính của mình. “Nhưng tớ phải làm gì đó mới được,” gã vừa nói vừa ngồi thụp xuống.

Chúng tôi thiếu cái kiểu quẫn bách đó. Tòa nhà của chúng tôi nằm trên đường Michigan Mile, ở trung tâm Chicago, trên một góc phố cách hồ Michigan vài khối nhà. Nó mang hơi hướng của phong cách art deco và hai cánh cửa xoay sơn mạ. Chúng tôi nặng nề lê bước lên bậc thềm về phía cánh cửa xoay, e sợ những gì đang chờ đợi bên trong. Lúc đầu, chúng tôi bị cho nghỉ với số lượng lớn. Sau đó, quá trình này được tiến hành một cách chọn lọc hơn, từng người từng người một, mà họ thấy là thích hợp. Chúng tôi sợ kết cục của mình là Lower Wacker Drive [5] . Thất nghiệp, chúng tôi sẽ không được trả lương; không được trả lương chúng tôi sẽ bị tống khứ khỏi nhà mình; bị tống khứ, kết cục của chúng tôi sẽ là ở trên phố Lower Wacker Drive, chung chỗ với những chiếc xe mua hàng và dần sẽ có đôi bàn chân nứt nẻ, đen đúa. Thay vì nguệch ngoạc thêm cụm “Cấp cao” vào chức vụ hiện thời của mình, chúng tôi sẽ lục lọi các con hẻm tìm đầu mẩu thuốc còn rít được. Kể ra thì cũng vui khi hình dung cơn khốn quẫn sau rốt của mình. Nhưng cũng thật tuyệt vọng. Chúng tôi thực lòng không thể nào tin nổi mình sẽ bị bấm còi từ những chiếc Lexus của các đồng nghiệp cũ khi họ lái xe qua Lower Wacker trên đường về nhà ở vùng ngoại ô. Chúng tôi không nghĩ mình sẽ buộc phải vẫy chào họ từ những chiếc thùng phuy đốt lửa của mình. Nhưng việc chúng tôi có thể sẽ phải điền tờ khai thất nghiệp qua mạng Internet cũng không phải là không thể xảy ra. Việc chúng tôi có thể phải vật lộn để trả tiền thuê nhà hoặc tiền vay thế chấp là một viễn cảnh có thật và đáng sợ.

Nhưng dù sao chúng tôi vẫn đang sống, chúng tôi phải ghi nhớ điều đó. Mặt trời vẫn rọi vào khi chúng tôi ngồi ở bàn làm việc của mình. Có những ngày đúng là chỉ vừa đủ để nhìn ra ngoài những đám mây và nóc của các tòa nhà. Chúng tôi vì thế mà phấn chấn hơn, trong giây lát. Nó khiến chúng tôi “hạnh phúc”. Thậm chí chúng tôi còn có thể trở nên tốt bụng khác thường. Ví dụ như cái lần chúng tôi tuồn thuốc lá Old Gold vào phòng bệnh của Frank Brizzolera. Hoặc khi chúng tôi dự đám tang cô con gái nhỏ của Janine Gorjanc, được tìm thấy đã chết ngạt trong một bãi đỗ xe bỏ không. Thật khó mà tin nổi một chuyện như vậy có thể xảy ra với một người chúng tôi quen biết. Nếu anh chưa từng chứng kiến một người mẹ ở đám tang cô con gái bị sát hại thì cũng coi như anh chưa từng thấy một người than khóc. Cô bé mới có chín tuổi đầu. Một đêm cô bé bị bắt đi qua khung cửa sổ để ngỏ. Chuyện này được nhắc đầy trên các báo. Mới đầu chỉ là mất tích. Sau đó người ta tìm thấy thi thể cô bé. Chứng kiến Janine ở đám tang, xung quanh là những bức ảnh của cô bé Jessica, gia đình cố đỡ chị đứng dậy - thậm chí cả Tom Mota cũng tan nát cõi lòng. Sau đó lúc chúng tôi đang ở ngoài nhà tang lễ, trong bãi đỗ xe buồn rầu nói chuyện với nhau, thì Tom bắt đầu đập phá chiếc Miata đời 1994 của mình. Chẳng bao lâu sau tất cả mọi người đều chú ý đến gã. Gã đấm nắm tay vào cửa kính và buông ra những tiếng hét “Mẹ kiếp!”khủng khiếp. Gã đạp vào cánh cửa và lốp xe. Cuối cùng gã đổ sụp xuống cạnh thùng xe, người rung lên nức nở. Đó không phải là hành vi gì quá đáng trong hoàn cảnh như vậy, nhưng chúng tôi hơi ngạc nhiên khi thấy Tom có vẻ là người bị tác động mạnh nhất. Gã nằm vật ra trên bãi đỗ xe của nhà tang lễ trong bộ vest và cà vạt, nức nở như một đứa trẻ. Một vài người bước tới an ủi gã. Chúng tôi cho rằng thái độ của gã như vậy phần nào cũng liên quan đến chuyện vợ cũ của gã đưa các con tới Phoenix. Có một điều chúng tôi biết chắc - bất chấp tất cả những sự đoan chắc của chúng tôi, khó mà đoán được một người nào đó đang nghĩ gì tại một thời điểm nhất định.

Chúng tôi tin rằng những đợt suy thoái đã trở thành lạc hậu bởi công nghệ tinh vi của nền kinh tế mới. Chúng tôi tưởng mình đã miễn nhiễm khỏi những thứ như đóng cửa nhà máy ở Iowa và Nebraska, nơi những người Mỹ vùng sâu vùng xa vật lộn với nơi ăn chốn ở và nợ thẻ tín dụng. Chúng tôi xem những người lao động chân tay đó được phỏng vấn trên ti vi. Do độ dài của đoạn băng, không thể nào không cảm thấy sự buồn bã và lo lắng mà chắc hẳn họ cảm thấy cho bản thân mình và gia đình. Nhưng chúng tôi nhanh chóng chuyển tiếp sang chương trình thời tiết và thể thao rồi đến khi chúng tôi lại nghĩ đến họ, thì đó đã là một nhà máy khác ở một thành phố khác, và chính quyền bang đang cung cấp các chương trình chuyển đổi việc làm cho công nhân, các dịch vụ điều chỉnh và tái đào tạo, rồi lại còn các hội thảo kỹ năng nữa chứ. Họ sẽ ổn cả thôi, ơn Chúa là chúng tôi không phải lo lắng về một điều bất hạnh như vậy. Chúng tôi là những công dân của thế giới văn phòng, được hậu thuẫn bởi bằng cấp hoành tráng và được lót bằng lớp mỡ của doanh nghiệp. Chúng tôi đứng trên những lực lượng thị trường đỏng đảnh do sản xuất thừa và quản lý kém lượng hàng tồn kho.

Chúng tôi đã không tính đến rằng trong một giai đoạn suy thoái, chúng tôi chính là lượng hàng tồn kho bị quản lý kém, và chúng tôi sắp bị tống khứ như một đống bảng vi mạch nhập khẩu thừa thãi. Trên đường lái xe về nhà chúng tôi băn khoăn không hiểu ai là người tiếp theo. Scott McMichael là người tiếp theo. Vợ anh ta vừa mới sinh con. Sharon Turner là người tiếp theo. Vợ chồng cô ta vừa mới mua nhà. Những cái tên - chỉ là những cái tên đối với bất kỳ ai khác, nhưng đối với chúng tôi thì đó là những cá nhân gợi cho chúng tôi niềm thông cảm sâu sắc nhất. Những người cho đồ của mình vào hộp, bắt vài bàn tay, và bỏ đi không một lời kêu ca. Họ chẳng có lựa chọn gì trong chuyện này, và họ có một kiểu buông xuôi lặng lẽ trước số phận hẩm hiu của mình. Khi họ rời đi, chúng tôi cảm tưởng đó hầu như là một sự hy sinh. Họ ra đi, để chúng tôi có thể ở lại. Và chúng tôi ở lại, mặc dù trái tim chúng tôi đi ra cùng với họ. Sau đó đến Tom Mota, kẻ muốn ném máy tính của mình vào cửa sổ.

Gã để râu dê và lực lưỡng như một con chó bun, chắc nịch, chân tay ngắn ngủn và cái cổ nần nẫn thịt. Gã không thuộc về nơi chúng tôi đang ở. Nói như thế không hẳn là hạ mình gì mà chủ yếu để cố diễn tả một sự thật mang tính xây dựng. Chắc hẳn gã sẽ hạnh phúc hơn nếu ở nơi nào khác - đốn cây trong rừng, hoặc quăng lưới cho một ngư trường ở Alaska. Thay vào đó, gã mặc đồ kaki, ngồi trên sofa góc uống cà phê sữa, thảo luận cách tốt nhất để làm cho nhãn hiệu tã giấy của khách hàng của chúng tôi đồng nghĩa với “thấm tốt hơn”. Ấy là nói cái hồi chúng tôi vẫn còn khách hàng sản xuất tã giấy. Sau khi quyết định không ném chiếc máy tính của mình vào cửa sổ, Tom lưu luyến những quyển tạp chí của gã. Gã nói với Benny, “Benny, anh bạn, cậu phải lấy đống tạp chí của tớ ở chỗ Jim về. Thằng chó ấy giữ chúng hai tháng rồi. Tớ sẽ không rời khỏi đây mà không có chúng - nhưng tớ không thể đi ra ngoài kia. Tớ không muốn phải nhìn thấy bất kỳ ai.” Khi Benny kể cho chúng tôi nghe điều đó, chúng tôi cảm thấy thương hại cho Tom. Tất nhiên Tom chẳng đời nào muốn như thế. Gã sẽ nhổ thẳng sự thương hại đó vào mặt chúng tôi. Chẳng ai muốn lòng thương hại cả. Họ chỉ muốn biến thẳng ra khỏi đây, cho khuất mắt, để làm dịu bớt nỗi đau của sự chế giễu, và sau đó họ chỉ muốn quên đi toàn bộ trải nghiệm khốn nạn này. Họ không thể làm cái việc đi ra sảnh lấy lại những cuốn tạp chí. Mười phút sau Benny quay lại phòng làm việc của Tom với những quyển tạp chí Car and Driver , Rolling Stone, Guns and Ammo cũ rích. Tom đang ngồi trên sàn phòng làm việc, lên dây đồng hồ. Benny nói, “Tom.” Tom không trả lời. “Tom?” Benny nói. Tom vẫn mải miết lên dây đồng hồ. Sau đó gã đứng lên, mở một ngăn kéo bàn, và lôi ra một trong những cái áo phông công ty mà gã vẫn mặc nhiều ngày liền. Cái màu xanh lam (áo của Benny) và cái màu xanh lục (của Jim) cũng ở trong ngăn kéo bàn. Tom cởi áo sơ mi của mình ra và mặc chiếc áo phông màu đỏ vào. “Chúng nghĩ tớ là một thằng hề,” gã nói với Benny. Benny trả lời, “Không. Không ai nghĩ cậu là thằng hề cả, Tom. Họ túm được bi của cậu rồi, anh bạn - mọi người đều biết điều đó.” “Đưa cho tớ cái kéo kia,” Tom nói. Benny kể là anh ta ngoái lại sau lưng thì thấy một chiếc kéo trên giá sách của Tom. Benny nói với chúng tôi là anh ta không hề muốn đưa kéo cho Tom. “Chúng nghĩ tớ là một thằng hề,” Tom lặp lại khi anh ta bước tới giá sách tự chộp lấy chiếc kéo rồi bắt đầu cắt vào đầu gối ống quần là thẳng li. “Cậu đang làm gì vậy, Tom?” Benny vừa hỏi vừa cười khùng khục lo lắng. Anh ta vẫn còn đang cầm mấy cuốn tạp chí cũ của Tom. Anh ta đứng nhìn Tom lia kéo một vòng cho đến khi ống quần rơi xuống mắt cá chân gã. Sau đó gã bắt tay vào cắt một bên ống tay chiếc áo phông, ở phía đối diện với ống quần đã bị cắt ngắn. “Tom,” Benny nói. Chẳng mấy chốc đã trông thấy cánh tay rám nắng của Tom hở ra đến tận vai. Một hình xăm dây thép gai quấn quanh bắp tay anh ta. “Tom, nghiêm túc đấy - cậu đang làm gì vậy?”

“Cậu làm ơn hộ tớ một việc được không,” Tom hỏi, “cắt một lỗ ở sau lưng áo cho tớ?”

“Tom, tại sao cậu lại làm thế này?”

Thỉnh thoảng phải dùng đến những biện pháp quyết liệt. Có những lần có người phải mang một gói bưu phẩm lên xe lái một mạch tới chi nhánh của hãng chuyển phát nhanh FedEx ở Palatine nơi có thời gian chuyển hàng nhanh nhất trong toàn bang chỉ để bảo đảm hàng được chuyển đến nơi qua một đêm. Một mẫu quảng cáo mới phải trình bày với khách hàng vào thứ Hai có nghĩa là một tuần liền phải làm việc đến một giờ sáng và tranh thủ ngủ vài tiếng đồng hồ trên những chiếc sofa vạ vật vào Chủ nhật. Nó được gọi là trường hợp chuông báo cháy, và một khi nó xảy ra bạn phải bỏ tất cả lại một bên. Không còn chuyện đến phòng thể dục nữa. Vé xem hát cũng bị hủy. Bạn không được gặp ai hết, từ đứa con năm tuổi, nhà tư vấn hôn nhân, nhà tài trợ, thậm chí đến cả con chó của bạn cũng không nốt. Chúng tôi sợ chuông báo cháy. Đồng thời tất cả chúng tôi đều cùng tham gia vào đó, và sự biến đổi của nhóm có thể khiến chúng tôi sửng sốt, sau năm ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt. Ăn đồ mua về, cười nói quanh một ngăn làm việc, cùng dồn tâm trí giải quyết việc nào đó khó nhằn - năm sáu ngày liền như thế và không cách nào miễn dịch nổi trước sự thân thiết đó. Những người chúng tôi làm việc cùng, với tất cả những khiếm khuyết hạn chế cố tật của họ - chúng tôi phải thú nhận với chính mình, hóa ra cũng không đến nỗi quá tệ. Mà cái đó ở đâu ra nhỉ? Do đâu mà nảy nòi ra sự thân thiết này? “ ‘Tình yêu ngập tràn lòng ta dành cho người anh em của mình’,” Hank Neary nói, trích dẫn này nọ. Lúc nào anh ta cũng trích dẫn này nọ và chúng tôi ghét cái thói đó, trừ phi chúng tôi đang ở trong giai đoạn có chuông báo cháy, trong trường hợp ấy chúng tôi yêu quý anh ta như một người anh em. Thứ tình yêu đó sẽ tiêu tan trong vòng một tuần. Nhưng trong thời gian đó, công việc là một nguồn suối, một nguồn ánh sáng chân chính, nuôi dưỡng một cộng đồng chan chứa yêu thương.

Rồi suy thoái ập đến và thế là chẳng còn chuông báo cháy nào nữa cả. Không còn cảnh hộc tốc chạy đến Palatine, không còn những đêm làm việc đến một giờ sáng, không còn tình yêu ngập tràn lòng ta dành cho người anh em của mình.

Benny đi xuống thang máy cùng với Tom. Với bộ quần áo cắt tả tơi, trông Tom như kẻ bị đánh dạt vào bờ sau một vụ đắm tàu, nát bươm và bấu víu vào đúng một tấm ván. Giày tất của gã đã được cởi ra, để trong phòng làm việc cùng những quyển tạp chí bị bỏ lại, mấy bức ảnh chân dung chụp ở studio Kmart của các con gã, và đống vải vứt đi từ quần áo gã.

“Cậu định làm gì vậy?” Benny hỏi.

“Cậu nghĩ tớ định làm gì?” Tom hỏi một cách cường điệu, đúng lúc họ vừa xuống đến tiền sảnh. “Tớ định đi tìm một công việc mới.”

“Không,” Benny nói. “Ý tớ là ngay bây giờ ấy. Cậu định làm gì ngay bây giờ?”

Họ ra khỏi thang máy. Tom đã dốc hết bút máy và bút chì ra khỏi một chiếc ca gã vẫn để trên bàn và giờ thì chiếc ca rỗng không đó là vật sở hữu duy nhất của gã. Tom dừng lại ở gờ cửa chờ thang máy bằng đá cẩm thạch và chăm chú nhìn những thang máy khác đi xuống. “Cậu có bao giờ đọc Ralph Waldo Emerson không?” Tom hỏi Benny. Benny không biết phải đứng ở chỗ nào. Anh ta kể với chúng tôi là anh ta không biết tại sao họ lại dừng ở chỗ gờ cửa chờ thang máy. “Cậu đang định làm gì vậy, Tom?” “Hãy nghe những gì Emerson nói,” Tom nói. Tom bắt đầu trích dẫn. “ ‘Bất chấp tất cả thói khôn lỏi của chúng ta, bất chấp sự nô lệ vào thói quen đến mức hủy hoại tâm hồn chúng ta, không thể nghi ngờ một điều rằng tất cả mọi người đều có những ý nghĩ cao cả’. Cậu đã nghe thấy chưa, Benny? Cậu đã nghe thấy chưa, hay cậu cần tớ đọc lại cho cậu nghe?” “Tớ nghe thấy rồi,” Benny trả lời. “Chúng chưa bao giờ biết tớ,” Tom vừa nói vừa lắc đầu và giơ tay chỉ vào lũ khốn kiếp đó. “Chúng chưa bao giờ biết.”

Thang máy đầu tiên đến, và những người đi ăn trưa từ hãng luật bước ra. Tom giơ chiếc ca rỗng của gã ra trước mặt họ. “Xin hãy cứu giúp kẻ thất nghiệp được không ạ?” gã vừa hỏi vừa lắc lắc chiếc ca. “Ôi, xin hãy giúp đỡ kẻ không nghề nghiệp này được không?”

“Tom,” Benny nói.

“Benny, có cút đi không thì bảo? Hãy giúp tôi với, anh bạn, xin anh làm ơn? Tôi vừa mới mất việc hôm nay.”

Và đó là giờ phút cuối cùng của Tom.

Chúng tôi nghe chuyện này từ Benny ngay sau khi anh ta kể cho chúng tôi nghe câu chuyện Tom vác một cây gậy nhôm đến ngôi nhà ở Naperville như thế nào khi gã biết là bọn trẻ đang ở nhà bà ngoại, và tất cả những gì về mặt pháp lý được cho là “của Tom” trong phán quyết ly hôn, tất cả những gì “của Tom” và có thể bị đập nát tan tành bằng một cây gậy nhôm, đều phải lãnh đủ cú đập của Tom cho tới khi cảnh sát đến để khống chế gã.

Amber Ludwig, người có thân hình chắc lẳn, núc ních của một con hải cẩu, với hai bàn tay rất nhỏ và cặp mắt đen sát gần nhau, nói rằng cô ta sợ Tom sẽ quay trở lại và xả súng như người ta vẫn nghe thấy trên các bản tin. “Không, nghiêm túc đấy,” cô ta nói. “Tôi nghĩ hắn chưa chịu để yên đâu. Mà tôi không nghĩ hắn có lúc nào chịu để yên .”

Amber chưa lộ bụng bầu nhưng tất cả mọi người đều đã biết. Cô ta đang cân nhắc bỏ cái thai nhưng, trước sự thất vọng vô cùng của Larry Novotny, có vẻ như đang nghiêng về phía chống lại ý định đó. Larry sẽ phải quyết định làm gì với vợ mình, người cũng vừa mới sinh con trước đó chưa lâu. Chúng tôi cảm thấy thương cho Larry, suốt mùa xuân năm đó anh ta cứ ngồi nhai cái lưỡi trai cong queo, bẩn thỉu trên chiếc mũ bóng chày đội Cubs, nhưng chúng tôi nghĩ rõ ràng là lẽ ra anh ta phải giữ súng của mình trong quần mới phải. Chúng tôi cũng cảm thấy thương cho Amber, nhung như tất cả mọi người đều biết, muốn nhảy tango thì cũng phải có hai người. Chúng tôi chỉ hy vọng là họ không làm điều đó trên bàn làm việc của chúng tôi.

Chúng tôi hỏi Amber là cô ta có thực sự, thực sự nghĩ rằng Tom có thể gây ra một vụ tắm máu không.

“Có chứ,” cô ta nói. “Với hắn thì chẳng có gì là không thể cả. Hắn là một thằng điên.”

Chúng tôi cố thuyết phục cô ta rằng những chuyện như vậy chỉ xảy ra tại các nhà máy và kho hàng, và như thế thì chỉ có ở mạn Bờ Nam thôi. Một cuộc tranh luận nổ ra. Liệu Tom có thể làm thật không? Hay gã chỉ là một thằng hề? Cái trò ở đám tang con gái Janine là thế nào nhỉ, khi mà gã cứ khóc mãi không thôi, ngay cả sau khi chúng tôi đã đến quán bar? Chẳng phải đó là bằng chứng cho thấy thằng cha đó cũng có trái tim sao?

“Được rồi,” Amber nói, “được rồi, nhưng các anh gọi cái trò đứng trên lỗ thông hơi khoe mông với những người đi bơi từ cửa sổ phòng hắn là gì? Thế gọi là gì nào?” cô ta hỏi.

Cô ta đang nói đến cái bể bơi trên sân thượng khách sạn Holiday Inn mà phòng làm việc của Tom trông xuống, và cái kiểu Tom vẫn đứng sát vào mặt kính mà áp cả mông vào. Trêu đùa! Chúng tôi kêu ầm lên. Cho vui thôi mà! Thế sao gọi là điên được. Amber hoàn toàn bị áp đảo. Chúng tôi biết Tom. Chúng tôi biết Alan Glew, Linda Blanton, Paul Saunier. Chúng tôi biết Neil Hotchkiss cùng với Cora Lee Brower và Harold Oak. Không có ai trong số họ là người có thể quay lại đây với một cơn ác mộng trong ba lô. Họ đã bị cho nghỉ việc. Họ đã gói ghém đồ của mình. Họ chia tay chúng tôi mãi mãi, không bao giờ quay lại.

Tất cả mọi người đều ngạc nhiên khi Janine quay lại. Tất nhiên ai cũng hiểu là chị có thể quay lại bất kỳ lúc nào chị muốn. Chúng tôi chỉ không nghĩ, xét theo tất cả những gì chị đã phải trải qua, là chị quay trở lại đây, tiếp tục công việc hằng ngày trước kia - làm sao việc đó có thể giúp làm vơi bớt nỗi đau đớn của chị? Nhưng có thể đó chính là những gì chị cần, công việc gì đó để khuây khỏa tâm trí chị. Trông chị như già đi, nhất là trong đôi mắt. Những chiếc áo của chị thật nhàu nhĩ. Mái tóc màu nâu mỏng quẹt và xơ xác trong khi trước kia ngày nào chị cũng chải chuốt kỹ càng, và có những ngày chị hôi rình. Ngày đầu tiên chị quay lại làm việc, chị cảm ơn chúng tôi vì những tờ rơi. Lynn Mason đã nảy ra sáng kiến in tờ rơi khi chúng tôi biết tin cô bé bị mất tích. Genevieve Latko-Devine, vốn được coi là người tốt bụng và tử tế nhất trong chúng tôi, đã lái xe đến tận Bắc Aurora, nơi gia đình Gorjanc sống, để lấy một bức ảnh của Jessica. Cô ta quay trở lại văn phòng với một bức chân dung chụp hồi lớp bốn. Chúng tôi scan bức ảnh, tải nó lên máy chủ, và bắt đầu thực hiện bản quảng cáo.

Genevieve ngồi ở máy tính tiến hành công việc. Jessica là một cô bé bình thường với mái tóc màu sáng và nước da nhợt nhạt cùng nụ cười không may lại méo xẹo. Chúng tôi bảo Genevieve rằng cứ thế này sẽ chẳng ai chú ý đến Jessica cả.

“Vậy các cậu muốn tôi phải làm gì bây giờ?” cô ta hỏi.

“Chúng ta hãy sửa sang lại một chút,” Joe Pope nói. “Cho ảnh cô bé vào Photoshop.”

Chúng tôi làm việc bằng những chiếc máy tính Mac. Một số trong chúng tôi có những chiếc Mac mới, một số có máy tính xách tay cấu hình cao, và một số linh hồn bất hạnh phải đạp điên cuồng dưới gầm bàn để giữ cho tia lửa điện chạy qua những mẫu máy tính đã tuyệt chủng của mình. Chúng tôi tạo những lớp ma két trong QuarkXPress [6] ; tất cả những điều chỉnh hình ảnh đều được chúng tôi làm bằng Photoshop. Genevieve cho bức ảnh cô bé vào Photoshop và bắt đầu chỉnh sửa mái tóc cùng những vết tàn nhang của cô bé. Chúng tôi xem thử và mọi người đều nhất trí rằng cô bé vẫn sẽ bị bỏ qua.

“Thử làm chỗ này tối hơn một chút xem,” Joe vừa nói vừa lấy ngón tay khoanh một vòng quanh khuôn mặt cô bé. “Chúa ơi, màn hình của cô bẩn quá,” anh ta nói thêm. Anh ta lấy ra một tờ khăn giấy từ hộp của cô ta và lau bụi. Anh ta ngắm nghía lại. “Giờ thì trông cô bé còn nhợt nhạt hơn cả lúc trước.”

Genevieve thử một vài thủ thuật khác. Chúng tôi nhìn cô bé. Joe lắc đầu. “Bây giờ trông cô bé như bị cháy nắng,” anh ta nói. “Cho trở lại như cũ một chút.”

“Tôi nghĩ chúng ta đang quên mất mục đích quan trọng nhất ở đây,” Genevieve nói.

Nhưng chúng tôi sợ là nếu trông cô bé nhợt nhạt quá, mọi người sẽ không thèm để mắt đến tờ rơi.

Genevieve không hề thiếu những lời gợi ý mới. “Cho đậm chữ ‘MẤT TÍCH’ lên một chút,” Jim Jackers nói.

“Và cho nổi thêm dòng chữ thưởng 10.000 đô la,” Tom gợi ý. “Tớ không biết bằng cách nào, chỉ là... sử dụng một phông chữ khác chẳng hạn.”

“Và cậu có một số vấn đề về giãn cách,” Benny đứng bên cạnh nhắc nhở.

Tất cả chúng tôi đều muốn giúp. Genevieve vật lộn với bức ảnh thêm một tiếng đồng hồ nữa, thêm chỗ này bớt chỗ kia, cho đến khi ai đó đề xuất cô ta sửa cho nụ cười của cô bé trông đỡ méo xẹo hơn. Như thế trông Jessica sẽ xinh xắn hơn.

“Được rồi,” cô ta kết luận, “đến đây chúng ta chính thức xong việc nhé.”

Chiều hôm đó chúng tôi lôi ra hết bản in màu này đến bản in màu khác và chia chúng trong phòng phát hành. Mấy người trong chúng tôi lái xe ra Bắc Aurora và dành cả buổi tối đi dán chúng - ở thư viện công cộng, trung tâm của Hội Thanh niên Cơ Đốc giáo YMCA, lối vào những cửa hàng tạp phẩm, trong các quán cà phê Starbucks và rạp chiếu phim và cả trong những cửa hàng đồ chơi Toys “R” Us, và trên tất cả các bốt điện thoại quanh vùng. Ba ngày sau người ta tìm thấy cô bé trong giấy bọc ni lông tại một bãi đất bỏ không.

Chúng tôi treo đồ trang trí và chuẩn bị bánh cho ngày trở lại của Janine. Ngày hôm sau Joe Pope tìm thấy chị đang khóc trước gương trong phòng vệ sinh nam. Chị đã rối trí và đi vào nhầm cửa. Họa hoằn lắm mới biết tin tức gì đó từ Joe Pope, vì anh ta không nói chuyện với nhiều người, nên lẽ ra chúng tôi đã không biết là anh ta tìm thấy Janine trong phòng vệ sinh nam. Nhưng anh ta đã nói chuyện với Genevieve Latko-Devine, và Genevieve nói chuyện với Marica Dwyer, và Marcia nói chuyện với Benny Shassburger, và Benny Shassburger nói chuyện với Jim và Amber, hai người này lại nói chuyện với Larry và Dan Wisdom và Karen Woo, mà Karen thì chưa bao giờ gặp ai cô ta lại chưa nói chuyện. Không sớm thì muộn tất cả mọi người sẽ biết tất cả mọi chuyện, đó là lý do tại sao chúng tôi lại biết là Janine vẫn chưa vượt qua được nỗi đau mất mát của chị, hoàn toàn không một chút nào, vì chị đã rối trí mà đi nhầm vào phòng vệ sinh nam. Chúng tôi hình dung ra chị bên bồn rửa, tì vào thành đá cẩm thạch để đứng vững, đầu gục xuống và đôi mắt mệt mỏi nhỏ những giọt nước nặng trĩu, hoàn toàn không nhận ra những bồn tiểu nam trong gương. Sau khi quay lại, chị hầu như không bao giờ mở lời trong bữa trưa.

Chúng tôi nói về chuyện Janine đi nhầm vào phòng vệ sinh nam. Không một ai nghĩ là nên giữ kín chuyện này, nhưng chúng tôi cẩn thận không chế giễu sự kiện đó hoặc biến nó thành một trò đùa. Có vài kẻ làm thế, nhưng không nhiều. Đó rõ ràng là một bi kịch. Chúng tôi biết chuyện, nhưng làm thế nào chúng tôi lại có thể biết một chút nào về nó nhỉ? Một số người thảo luận chuyện này để phá vỡ lề thói cũ, nhưng hầu hết chúng tôi sử dụng thông tin đó để giải thích tại sao chị lại yên lặng trong giờ ăn trưa. Sau đó chúng tôi không đả động đến chuyện toilet nam nữa. Tức là cho đến khi Janine bắt đầu mang ảnh của Jessica vào văn phòng đặt lên kệ tủ và giá sách rồi treo lên tường. Những bức ảnh chen chúc nhau, chen vai thích cánh tìm chỗ. Một trăm bức ảnh cô con gái xấu số của chị trong vẻn vẹn gần bảy mét vuông văn phòng. Ba bức trên mặt tường đối diện với chị là những thứ thê lương nhất chúng tôi từng nhìn thấy. Lại còn làm người ta phải sởn gai ốc thực sự. Đến mức mà chúng tôi cố gắng tránh vào văn phòng của chị. Mỗi khi bắt buộc phải vào, vì công chuyện cấp bách nào đó, chúng tôi không biết phải để ánh mắt vào đâu nữa.

Một buổi chiều thứ Ba trong tháng Năm, Lynn Mason sắp xếp một buổi họp triển khai công việc. Chúng tôi tụ tập trong phòng chị để tham gia cuộc họp. Những cuộc họp triển khai công việc khiến chúng tôi sung sướng vì chúng có nghĩa là chúng tôi có việc để làm. Chúng tôi làm ở bộ phận sáng tạo xây dựng những mẩu quảng cáo và chúng tôi coi công việc quảng cáo của mình là sáng tạo, nhưng nó không sáng tạo bằng một nửa cái việc chúng tôi bỏ công làm dày dặn bảng chấm công của mình mỗi buổi sáng thứ Hai kể từ khi quá trình cắt giảm biên chế bắt đầu. Một cuộc họp triển khai công việc có nghĩa là chúng tôi sẽ có công việc thực sự khiến cho bảng chấm công tuần sau đó trông sẽ đỡ đáng sợ hơn. Nhưng một số người không thích những cuộc họp triển khai công việc khi chúng được bố trí vào lúc mười hai giờ mười lăm. “Đó là lúc hầu hết chúng ta đi ăn trưa, phải không nào?” Karen Woo nói. Bữa trưa đối với Karen là cả một thánh lễ. “Tại sao không bố trí họp vào lúc mười một giờ mười lăm?” cô ta hỏi. “Hoặc thậm chí là một giờ?” Hầu hết những người còn lại trong chúng tôi thì chỉ nghĩ, chẳng sao cả, chỉ cần ăn trưa muộn một tiếng đồng hồ thôi mà. “Nhưng mà tớ đói,” Karen nói. Có vẻ cô ta không có nhiều cảm thông cho lắm với việc Lynn Mason vừa phát hiện ra là chị bị ung thư và có thể có những suy nghĩ khác cô ta. Vả lại, Lynn có thể bố trí lịch họp vào bất kỳ lúc nào chị muốn - chị là bà chủ cơ mà. “Tất nhiên chị ấy có thể xếp lịch họp lúc nào tùy ý,” Karen nói. “Nhưng chị ấy có nên làm thế không? Đó mới là câu hỏi. Chị ấy có nên không?” Nhiều người trong chúng tôi nghĩ Karen nên tự thấy mình may mắn khi còn chưa mất việc.

Trong khi chờ đợi Lynn đến, chúng tôi giết thời gian bằng việc nghe Chris Yop kể chuyện chiếc ghế của Tom Mota. Chúng tôi thích giết thời gian và đã hoàn thiện nhiều cách để làm việc đó. Chúng tôi lê la khắp các hành lang mang theo giấy tờ làm ra vẻ đang bận bịu công việc gì đó trong khi thực ra chúng tôi đang đi tìm kẹo miễn phí. Chúng tôi đi rót thêm cà phê vào cốc ở các tầng không phải của mình. Hank Neary là một con mọt sách. Anh ta đến sớm trong chiếc áo khoác nhung tăm màu nâu với một cuốn sách mượn của thư viện, copy hết các trang trên chiếc máy Xerox, rồi ngồi ở bàn làm việc của mình đọc cái mà những người đi qua cứ tưởng là giấy tờ công việc đoan trang. Cứ hai ba ngày là anh ta lại giải quyết xong một cuốn tiểu thuyết hai trăm trang. Billy Reiser, làm việc ở một nhóm khác và đi lại hơi tập tễnh, thì là một fan nhiệt thành của đội bóng chày Cubs. Cậu ta có một người bạn chuyên lắp đặt chảo vệ tinh. Họ bí mật lên mái nhà, lắp đặt một chảo vệ tinh điều khiển từ xa ở một nơi khuất nẻo, rồi bố trí sao cho tín hiệu dội ngược từ tòa nhà bên cạnh vào phòng làm việc của Billy. Sau đó bạn của Billy bố trí một chiếc ti vi dưới bàn làm việc của cậu ta, nghiêng theo một góc nhất định để nếu như Billy ngồi lùi ghế lại phía sau một chút là cậu ta có thể nhìn xuống xem được hình. Khi tất cả đã xong xuôi, cậu ta có đến hai trăm kênh và có thể theo dõi đội Cubs ngay cả ở những trận đấu sân khách. Chúng tôi tụ tập ở đó với số lượng hạn chế khi Sammy Sosa đang chạy về chốt nhà để ghi điểm. Vấn đề là Billy lo sợ có người sẽ phát hiện ra vụ chảo vệ tinh, nên cứ mỗi lần Sammy cố cú ăn điểm và chúng tôi hò hét như điên là chúng tôi lại bị đá đít ra ngoài.

Tom Mota đã bị cho nghỉ vào cái tuần trước khi Chris Yop kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về chiếc ghế của gã. Yop kể anh ta đang dọn dẹp bàn làm việc của mình thì ngẩng đầu lên và nhìn thấy người quản lý văn phòng đứng ở ngưỡng cửa. Mụ quản lý văn phòng của chúng tôi toát ra mùi cây phỉ và sợi thảm, có một cái mụn ruồi to đùng trên má trái, và không bao giờ mở miệng chào bất kỳ ai. Nghe đồn là, giống như bọn kiến, lưng mụ có thể chịu nổi gánh nặng gấp mấy lần trọng lượng cơ thể. Mụ đứng ở cửa phòng Yop, hai cánh tay khoanh lại, dựa vào khung cửa và chằm chằm nhòm giá sách của Yop. Mụ hỏi đó có phải là giá sách của Tom Mota không. “Thế là tôi bảo mụ ta,” Yop kể với chúng tôi, “ ‘Của Tom Mota? Gì cơ, cái này ấy à?’ ‘Cái giá sách ấy,’ mụ nói. ‘Có phải giá sách của Tom không?’ ‘Giá sách ấy à? Không,’ tôi nói, ‘đây không phải là giá sách của Tom. Đây là giá sách của tôi.’ ‘Hừm, có người lấy giá sách của Tom ra khỏi văn phòng của anh ta,’ mụ ta bảo tôi, ‘và tôi phải lấy lại nó.’ Ở thời điểm đó Tom vừa bị hót đi, bao nhiêu nhỉ, một ngày phải không? Chuyện xảy ra thứ Ba tuần trước - ý tôi là cái xác thậm chí còn chưa lạnh, thế mà mụ ta lại đứng ở ngay ngưỡng cửa và buộc tội tôi ăn cắp? Thế là tôi nhắc lại với mụ ta, tôi nói, ‘Đây không phải giá sách của anh ta, đây là giá sách của tôi.’ Nhưng đến lúc này thì mụ đã bước vào phòng tôi, đúng vậy đấy, phăm phăm vào. Mụ ta bước vào phòng tôi và bảo, ‘Đây có phải là ghế của anh ta không? Có phải anh đang ngồi trên ghế của Tom không?’ Mụ ta chỉ vào nó, đúng thế đấy. Mụ ta nghĩ đó là ghế của anh ta. Đó là ghế của tôi cơ mà. Còn kia là giá sách của anh ta, cái đấy thì chắc chắn rồi. Tôi mang nó ra khỏi phòng làm việc của anh ta khi anh ta bị hốt đi rồi khiêng về phòng mình. Nhưng chắc như đinh đóng cột đó không phải là ghế của anh ta. Đó là ghế của tôi cơ mà! Thế là tôi bảo, ‘Đây á? Đây là ghế của tôi. Cái ghế này là của tôi.’ Và mụ ta bảo, mụ ta bước thẳng vào phòng và đứng rất sát vào tôi, mụ ta bảo, mụ ta chỉ đứng cách tôi có hơn gang tay, có thể là ba gang tay, mụ ta vừa bảo, vừa chỉ vào ghế của tôi, ‘Anh có phiền không nếu tôi kiểm tra qua số series?’ Nào, có ai biết về chuyện đó không?” anh ta hỏi chúng tôi. “Ai đã biết về cái vụ số series này nào?” Không một ai trong chúng tôi từng nghe nói gì về số series cả. “Đúng, số series,” Yop nói tiếp. “Họ gắn số series vào đằng sau tất cả mọi thứ. Bằng cách đó họ có thể theo dõi mọi thứ, ai có cái gì và nó đang ở phòng nào. Các cậu có biết chuyện này không?”

Chúng tôi để anh ta tiếp tục huyên thuyên vụ số series vì cơn phẫn nộ của anh ta là đặc thù của thời điểm đó. Chris là một người dễ bị kích động, và càng nói thì cả khuôn mặt anh ta hình như càng run bắn lên. Hai bàn tay đầy sinh động của anh ta hơi run rẩy một chút, như thể đang vật lộn với một cơn say chất caffeine. Anh ta đã khuyến khích chúng tôi gọi anh ta là Yop vì nó khiến anh ta cảm thấy trẻ trung hơn, sành điệu hơn và dễ được chấp nhận hơn. Anh ta nuôi dài mái tóc đang ngả màu muối tiêu của mình, nên nó quăn lên ở gần tai, nhưng tuổi tác đã làm nó thưa đi trên đỉnh đầu. Anh ta kết hôn với một người phụ nữ tên là Terry và vào cuối tuần anh ta chơi những bản nhạc rock dở ẹc cho một ban nhạc chuyên hát lại những bài của thập niên 1970. Lúc nào anh ta cũng hỏi mọi người là dạo này họ đang nghe gì. Chúng tôi thấy anh ta nửa đáng quý, nửa đáng thương khi đi qua phòng anh ta và nghe thấy album nhạc rap mới toanh nào đó vọng ra từ máy nghe đĩa của anh ta, khi mọi người đều biết thứ anh ta thực sự muốn nghe là Blood on the Tracks . Chúng tôi nghe câu chuyện anh ta kể về chiếc ghế của Tom Mota từ nhiều vị trí khác nhau trong văn phòng bừa bộn của Lynn. Chị có một chiếc bàn mặt kính cùng một chiếc ghế sofa bọc da trắng, và chúng tôi còn ngả ngớn cả ở ngưỡng cửa và dựa vào tường, giết thời gian trong khi chờ đợi chị. Karen Woo liên tục nhìn đồng hồ và thở dài vì Lynn đang đến muộn trong cuộc họp của chính chị.

“Tôi mới bảo chứ, ‘Số series à?’ ” Yop nói tiếp. “Và mụ ta bảo, mụ ta đang đứng ngay đằng sau tôi, đúng thế đấy, mụ ta bảo, ‘Nhìn thử xem.’ Thế là tôi ra khỏi ghế của mình, tôi nhìn thử - số series! Ngay đằng sau ghế của tôi! ‘Những cái này ở đâu ra?’ tôi hỏi mụ ta. Mụ không trả lời tôi. Thay vào đó mụ nói, ‘Cho tôi mượn một cái bút được không?’ Mụ ta muốn mượn bút để ghi lại số series! Tôi nghĩ, cái kiểu tổ chức phát xít gì thế này - ‘Này này!’ tôi nói. ‘Đây là ghế của tôi mà.’ Nhưng mụ ta không thèm đếm xỉa gì đến tôi cả - mụ ta còn đang ghi lại số series cơ! Sau đó mụ ta bước lại chỗ giá sắt và mụ ta bắt đầu ghi lại cả số series ở đó nữa rồi mụ ta bảo, ‘Còn cái giá sắt này thì sao?’ Lúc này tôi đang ở tình thế há miệng mắc quai, vì tôi đã nói dối về vụ cái giá sắt, hẳn rồi, nhưng tôi đang nói thật về chiếc ghế. Tôi quan tâm đến cái giá sắt làm đếch gì. Cứ lấy cái giá sắt đi. Chỉ cần để lại cái ghế cho tôi.”

Chúng tôi nhắc Yop chắc anh ta định nói là giá sách .

“Thế tôi vừa nói là gì?” anh ta hỏi chúng tôi.

Chúng tôi bảo là anh ta cứ nói thành giá sắt .

“Giá sắt à?”

Đúng rồi - ban đầu thì là giá sách , nhưng sau đó anh ta bắt đầu nói thành giá sắt .

“Nghe này, đừng có để ý đến tôi nữa được không,” anh ta nói. “Tôi vẫn thế mà, vẫn toàn nói nhịu chứ có gì đâu. Vấn đề chính là, cứ lấy cái giá sách đi. Chỉ cần để lại cho tôi cái ghế. Nó là ghế của tôi mà. ‘Nhưng có phải giá sách của anh không?’ mụ ta hỏi tôi. Đó là một câu hỏi thuộc phạm trù đạo đức với con mụ này, nó là của ai. Thế là tôi bảo, ‘Đúng, nó là của tôi, nhưng cô cứ lấy đi, không sao cả. Tôi không muốn nó nữa.’ Tôi không muốn nó nữa à? Có ai không muốn cái giá sách đó cơ chứ? Nhưng tôi không muốn mất chiếc ghế của mình - chiếc ghế hợp pháp của mình, thế là tôi bảo, ‘Cứ tự nhiên, cứ lấy đi’.”

Chúng tôi không muốn lại ngắt lời anh ta, nhưng chúng tôi cảm thấy cần thiết phải nhắc cho anh ta nhớ rằng nhiệm vụ của mụ ta, trên cương vị người quản lý văn phòng, là phải theo dõi đồ đạc trong văn phòng và những việc đại loại.

Yop phớt lờ chúng tôi. “Mà mụ ta có cái gì ở trên cổ tay vậy?” anh ta hỏi.

Yop đang hỏi về hình xăm của người quản lý văn phòng. Đó là hình xăm một con bọ cạp với cái đuôi quấn xung quanh cổ tay.

“Mà tại sao một người phụ nữ lại làm thế với chính mình cơ chứ?” anh ta hỏi. “Và tại sao chúng ta lại thuê một người phụ nữ đi làm thế với chính mình?”

Đó là một câu hỏi rất hay. Chúng tôi cứ tưởng anh ta biết câu chuyện đùa rồi.

“Câu chuyện đùa nào?” anh ta hỏi.

Con bọ cạp ở đó để bảo vệ ngón tay đeo nhẫn của mụ ta.

“Để tôi nói cho các cậu biết điều này,” anh ta nói. “Đúng là buồn cười thật, nhưng cái ngón tay đeo nhẫn đó không cần được bảo vệ gì hết. Nhưng được rồi, gì cũng được - mụ ta cũng chỉ làm công việc của mình. Sao chúng ta lại đi thuê một người xăm bọ cạp trên cổ tay nhỉ, đúng là một điều vượt quá khả năng hiểu biết của tôi, nhưng được rồi, mụ ta chỉ đang làm công việc của mình. Nhưng đó là chiếc ghế chính đáng của tôi. Nó là ghế của tôi . Mụ ta lấy ghế của tôi, đó đâu phải là chức trách của mụ ta. Thế là mụ ta bảo tôi, mụ ta bảo, ‘Tại sao anh lại bảo tôi cứ việc lấy cái giá sắt của anh nếu, như lời anh nói, nó thực sự là giá sắt của anh? Tôi không muốn nó nếu như nó là của anh,’ mụ ta nói, ‘tôi chỉ muốn lấy nếu nó là của Tom. Tất cả đồ của Tom đều biến mất và công việc của tôi là lấy lại chúng.’ Thế là tôi bảo, cố tỏ ra hoàn toàn ngây thơ và không biết gì hết, tôi bảo, ‘Họ đã lấy những gì vậy?’ Và mụ ta bảo, ‘Hừm, để xem nào. Bàn của anh ta,’ mụ ta nói. ‘Rồi ghế, giá sắt, và…’ ”

Chúng tôi xin lỗi vì lại ngắt lời, nhưng anh lại như thế nữa.

“Chuyện gì vậy?” anh ta hỏi.

Thì nói giá sắt .

Yop giơ hai tay lên trời. Anh ta đang mặc một chiếc áo sơ mi chim cò nhàu nhĩ - lông trên cánh tay anh ta đang ngả màu muối tiêu. “Các người làm ơn nghe tôi nói được không?” anh ta gào lên. “Các người có làm ơn lặng yên nghe những gì tôi đang cố nói được không? Tôi đang cố gắng nói với các người một điều thực sự quan trọng ở đây. Họ biết tất cả mọi thứ! Họ biết tất cả những gì chúng ta đã lấy! Nên tôi còn lựa chọn nào nữa chứ? ‘Cô có thể lấy cái giá sắt, được không nào?’ tôi bảo mụ ta. Chỉ cần không lấy cái ghế của tôi là được rồi . ‘Nhưng đó có phải là giá sách của Tom không?’ mụ ta hỏi tôi. Đó mới là điều quan trọng đối với mụ ta. Mụ ta muốn biết, ‘Có phải anh lấy cái giá sắt này ở phòng của Tom không?’ Và đúng lúc đó tôi mới chợt vỡ lẽ. Tôi sắp bị hót đi chỉ vì tôi lấy cái giá sắt của Tom.”

Giá sách ! Chúng tôi gào lên.

“Được rồi!” anh ta gào lên đáp lại. “Và chỉ vì một chuyện vặt vãnh như thế mà tôi sắp bị hót đi đấy! Nghe này, tôi có một ngôi nhà mua bằng vay thế chấp. Tôi có một người vợ. Tôi là một kẻ làm công ăn lương khốn kiếp. Tôi bị hót đi muộn đến thế này trong sự nghiệp của mình, đó là cái mà nó dành cho tôi đấy. Đây là trò chơi của bọn thanh niên. Tôi thì quá tuổi rồi. Ai sẽ thuê tôi nếu tôi bị hót đi chứ? Tôi thấy không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải thành thật, thế là tôi bảo mụ ta, ‘Được rồi, nghe này. Cái giá sắt này, đúng không? Tôi sẽ mang nó trở lại phòng Tom. Tôi hứa đấy. Tôi xin lỗi.’ Và mụ ta bảo, ‘Nhưng anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi. Có phải là của anh ta không? Có phải anh đã lấy nó không?’ Vậy là các cậu biết đến lúc này thì tôi nghĩ gì rồi đấy. Tôi đã cố gắng ít nhiều tỏ ra trung thực với mụ ta. Nhưng vẫn không ăn thua gì. Mụ ta chẳng qua cũng chỉ là một kẻ quan liêu. Thế là tôi bảo thế này, tôi mới bảo chứ, ‘Tất cả những gì tôi biết là, nó đã ở đây khi tôi đi ăn trưa về.’ Và mụ ta bảo, mụ ta nhìn đồng hồ, rồi mụ ta bảo, ‘Bây giờ mới là mười giờ mười lăm.’ Và tôi bảo, ‘Sao cơ?’ ‘Mười giờ mười lăm phút sáng,’ mụ ta bảo. ‘Anh đi ăn trưa lúc, mấy giờ nhỉ? Chín rưỡi à?’ Sau đó mụ ta chỉ vào cái giá sắt và mụ ta bảo, ‘Và tôi đoán tất cả những quyển sách này cũng chỉ vừa mới xuất hiện khi anh đi ăn trưa về, đúng không? Bữa trưa lúc chín rưỡi của anh ấy?’ Và tôi không nói gì hết, thế là mụ ta bảo, ‘Vậy còn cái ghế xinh xẻo anh đang ngồi trên thì sao? Nó cũng đột nhiên ở đâu đó hiện ra à?’ Và tôi không nói gì cả, thế là mụ ta bảo, ‘Tôi sẽ quay lại sau khi tôi có cơ hội kiểm tra lại số x của anh. Tôi gợi ý rằng nếu đây là giá sắt của Tom thì anh phải trả nó lại trong phòng của anh ta ngay lập tức. Và tương tự như vậy với bất cứ thứ gì thuộc về Tom.’ Và đó là lúc tôi bảo mụ ta, ‘Ê này, khoan cái đã, thưa quý cô. Ý cô là sao, thuộc về Tom? Không có gì thuộc về Tom hết. Tom chỉ làm việc ở đây thôi. Không có gì từng thuộc về Tom cả. Không có gì thuộc về bất kỳ ai ở đây cả, bởi vì họ có thể lấy nó khỏi các bạn như thế đấy.” Yop búng ngón tay đánh tách một cái. “Nghe con mụ đó trả lời như thế nào nhé,” anh ta nói. “ ‘Ừ, xin lỗi, thì không,’ mụ ta nói. ‘Tôi e là tất cả những thứ này thuộc về tôi’.”

Yop chìa tay ra như van vỉ, mắt anh ta trợn tròn. Anh ta chờ đợi chúng tôi cũng phẫn nộ trước việc mụ quản lý văn phòng dám nói một câu như vậy, nhưng sự thật thì, nó hoàn toàn không làm chúng tôi ngạc nhiên chút nào. Xét ở góc độ nào đó, đúng là mọi thứ thuộc về mụ ta thật. Mụ ta sẽ không bị cho nghỉ việc. Ai mà không cần một người quản lý văn phòng.

“Ôi, tôi uất không để đâu cho hết,” anh ta nói. “ Không có gì khiến tôi điên tiết hơn việc những kẻ đầu óc nhỏ nhen quanh đây lại có nhiều quyền lực đến thế , để rồi chúng cứ nắm lấy nó, nắm lấy nó cho đến khi chúng HOÀN TOÀN kiểm soát chúng ta. Và giờ thì mụ ta sẽ kiểm tra số series và phát hiện ra là tôi lấy cái ghế cũ của Ernie Kessler.”

Khoan đã nào. Đó không phải ghế của anh ta sao?

“Từ khi ông ta nghỉ hưu,” Yop nói, với giọng bình tĩnh hơn. “Năm ngoái.”

Chúng tôi không thể tin nổi hóa ra đó không phải là ghế của anh ta.

“Bây giờ thì là của tôi. Nó từng là ghế của Ernie. Từ khi ông ta nghỉ hưu.”

Chúng tôi cảm thấy bị lừa dối. Anh ta đã tạo cho chúng tôi ấn tượng rằng ít nhất thì đó cũng là ghế của anh ta.

“Nó là ghế của tôi mà,” anh ta nói. “Ông ta đẩy nó xuống cho tôi. Chính Ernie làm thế. Tôi hỏi xin ông ta cái ghế và ông ta đẩy nó xuống cho tôi, rồi ông ta đẩy cái ghế của tôi đi và đặt nó vào phòng mình. Khi ông ta nghỉ hưu. Chúng tôi chỉ đổi ghế thôi mà. Chúng tôi đâu có biết gì về cái vụ số series. Giờ khi đã biết về những số series rồi, tôi mới nghĩ, Kết cục cho mình là thế này đây. Con mụ quản lý văn phòng này, mụ ta sắp tâu với Lynn là tôi lấy cái giá sắt của Tom - và cả việc tôi lấy ghế của Ernie Kessler nữa, mặc dù chính ông ta đã mang nó cho tôi. Nên tôi làm gì có lựa chọn nào nữa? Nếu tôi muốn giữ công việc của mình, tôi phải giả vờ đó là ghế của Tom và đẩy nó xuống phòng anh ta! Đó không phải ghế của anh ta - người nào đó đã lấy ghế của Tom rồi - nhưng tuần trước, đó chính xác là những gì tôi đã làm. Tôi đẩy ghế của Ernie Kessler xuống phòng Tom Mota sau khi tất cả mọi người đã về nhà. Tôi phải giả vờ đó là ghế của tôi, và suốt cả tuần nay tôi vẫn tiếp tục giả vờ trong khi tôi phải ngồi trên cái ghế khác, cái ghế bé tí dở tệ này, chỉ như thế tôi mới có thể tránh bị hót đi. Đó từng là cái ghế hợp pháp của tôi,” anh ta nói, hai nắm tay khổ sở run rẩy trước mặt.

Chúng tôi không trách việc anh ta lấy làm khổ sở đến thế. Chiếc ghế của anh ta đúng là một chiếc ghế tuyệt vời - có thể điều chỉnh được, với bề mặt ghế êm ái, chỉ hơi nhún một chút khi ngồi xuống.

Những biện pháp thắt lưng buộc bụng bắt đầu ở sảnh, những lọ hoa và bát kẹo. Benny thích hít hà những bông hoa. “Tớ nhớ những bông hoa đẹp đẽ,” anh ta nói. Sau đó chúng tôi nhận được một thông báo nội bộ lấy đi những ngày nghỉ hè của chúng tôi. “Tớ còn nhớ những ngày nghỉ hè hơn cả mấy bông hoa,” anh ta nhận xét. Trong một cuộc họp toàn thể công ty vào tháng sau đó, họ thông báo ngừng tuyển người mới. Ngay tiếp sau đó là thông báo không ai được thưởng hết. “Tớ có thể đếch thèm quan tâm đến việc nghỉ hè,” anh ta nói, “nhưng cả khoản tiền thưởng của tớ sao?” Cuối cùng, quá trình giảm biên chế bắt đầu. “Hoa, nghỉ hè, tiền thưởng - với tớ không có cũng không sao,” Benny nói. “Chỉ cần giữ nguyên công việc cho tớ là được.”

Ban đầu chúng tôi gọi việc đó theo những cách các bạn vẫn biết - bị đuổi việc, bị cho nghỉ. Sau đó chúng tôi trở nên sáng tạo. Chúng tôi nói anh ta bị xơi búa rìu, cô ta bị sa thải, tất cả họ đã bị hót đi. Mới đây, một kiểu gọi mới đã xuất hiện và thực sự rất được kết dùng. “Đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha dọc hành lang.” Ai đó đã lấy câu này ra từ một bài hát của Tom Waits, nhưng nó là một cách nói rất, rất cổ, theo như chúng tôi tìm hiểu từ cuốn Từ điển Từ và Ngữ Morris của mình. “Vào thời cướp biển hoành hành ở vùng Spanish Main [7] ,” Morris viết, “một trò ưa thích của bọn cướp biển là thòng dây vào cổ các tù binh và bắt họ bước với đầu ngón chân chỉ vừa chạm đến sàn tàu.” Nghe có vẻ giống với chúng tôi. Trong bài hát, Tom Waits hát về việc bước đến án tử hình, và cả điều đó nghe cũng giống nữa. Chúng tôi chứng kiến kẻ bị điểm tên bước dọc hành lang trải thảm với mụ quản lý văn phòng dẫn đường, và rồi anh ta hoặc cô ta sẽ biến mất sau cánh cửa phòng Lynn Mason, và vài phút sau chúng tôi thấy những bóng đèn tối mờ đi vì sụt điện và nghe thấy tiếng điện nổ xèo xèo và mùi thịt nấu len lỏi vào khắp những căn phòng đóng kín như bưng.

Chúng tôi cắm mặt vào bàn làm việc của mình và nhìn những chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay O’Hare. Chúng tôi trùm headphone vào tai. Chúng tôi ngả đầu ra sau và nhắm nghiền mắt lại. Tất cả chúng tôi đều có cùng một ý nghĩ: ơn Chúa không phải là mình .

Jim gõ vào khung cửa phòng Benny. “Dạo này cậu có trông thấy Sanderson không, Benny?”

“Ai cơ?”

“Sanderson. Will Sanderson.”

Benny vẫn không biết là Jim đang nói đến ai.

“Thôi nào, Benny. Sanderson. Để ria mép ấy.”

“Ồ, đúng rồi,” Benny nói. “Bill Sanderson chứ gì? Tớ cứ tưởng cậu ta tên là Bill.”

“Cậu ta tên là Will,” Jim nói.

“Tớ không hề thấy thằng cha đó ở quanh đây phải đến... mấy tuần rồi.”

“Mấy tuần? Cậu không nghĩ là...”

Cả hai đều im lặng.

“Sanderson,” Benny nói. “Ôi trời đất ơi,” anh ta nói. “Họ xử lý Will Sanderson rồi.”

Một trò đùa để xả stress khi quá trình giảm biên chế bắt đầu là vào phòng làm việc của ai đó và gửi một bức email từ máy tính của họ tới toàn bộ công ty. Bức thư có thể chỉ nói một điều gì đó giản dị như, “Tên tôi là Shaw-NEE! Bạn bị bắt quả tang nhé, Ha! Tôi dấm đài tôi dấm đài tôi dấm đài.” Sáng hôm sau mọi người đến văn phòng đọc câu đó và phản ứng rất khác nhau.

Jim Jackers đọc nó và ngay lập tức gửi đi một bức email có nội dung, “Rõ ràng là ai đó đã vào văn phòng tôi tối qua và viết một bức email mạo danh tôi rồi gửi cho tất cả mọi người. Tôi xin lỗi vì bất kỳ sự bất tiện hay xúc phạm nào, mặc dù đó không phải lỗi của tôi, và tôi sẽ rất cảm kích nếu nhận được từ người làm việc này một lời xin lỗi công khai. Đến giờ tôi đã đọc bức email đó năm lần mà vẫn không thể hiểu nổi nó viết gì.”

Chúng tôi biết ai là thủ phạm. Chẳng bao giờ có lời xin lỗi nào hết. Jim biết ai là thủ phạm vì anh ta là một trong chúng tôi, và Jim đối chất với Tom Mota về chuyện này. Chuyện xảy ra vài tháng trước khi Tom đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha. Các bạn nghĩ Tom đã làm gì? Tom kể với Benny về màn đối đầu trong giờ ăn trưa, rằng cơn phẫn nộ của Jim đúng là chẳng ra làm sao, và Tom đã thách Smalls đánh mình như thế nào. “Smalls [8] ” là biệt danh mà Tom dành cho Jim, mặc dù hai người cao như nhau. “Thử xem nào, Smalls, đồ oắt con khốn kiếp, làm ơn đánh tao đi,” Tom kể với Benny là gã đã nói với Jim như thế, và toàn bộ chuyện này đúng thật là lố bịch. Khi đó chúng tôi mới đang ở tháng thứ ba của giai đoạn giảm biên chế. Từ đó Jim không bao giờ ra khỏi phòng mà không đóng chương trình email của mình.

Những bức email của Tom không phải lúc nào cũng là những lời khiêu khích như trò hề - thỉnh thoảng chúng cũng có nội dung nghiêm chỉnh và được gửi từ chính máy tính của gã. Chúng tôi thấy thích thú với giọng điệu chân thành của gã và cách gã nói về giá trị vô bờ bến của con người. Những dòng tâm tình dài lê thê đầy cảm động này, mang cảm xúc xung đột dữ dội với cung cách đời thực của Tom, kệch cỡm đến nực cười, điên loạn về giọng điệu và nội dung, và bao giờ cũng là những trò giải lao được chào đón cho một ngày lẽ ra thật tẻ nhạt. Gã được tán tụng vì sự tục tĩu của những bức thư và vì đã viết chúng bằng thời gian của công ty, bởi vì gã có gan để không chỉ gửi chúng cho tất cả chúng tôi, bao gồm cả Lynn Mason, mà còn cho cả các thành viên quản trị khác nữa - bao giờ cũng sắp xếp danh sách gửi theo thứ tự chức vụ, một quy tắc bất thành văn. Hắn còn đồng gửi cả cho những người bên bộ phận khách hàng, phụ trách mua dịch vụ truyền thông, dịch vụ dự án, nhân sự, và bộ phận hành chính bảo đảm, rồi cả người nhân viên phục vụ quầy cà phê. “Đêm qua tôi trải qua