← Quay lại trang sách

Chương 2

Những buổi sáng - Thách thức của Benny - Joe Pope là ai? - Carl Garbedlan - Sự gián đoạn đầu tiên - Karen Woo nhảy vào - Đưa anh về nhà - Sự gián đoạn thứ hai - Búp bê Joe Pope - Một câu chuyện hay hơn câu chuyện này - Benny tải lên mạng - Của thừa kế Brizz để lại cho Benny - Lướt qua Brizz - Quà của Tom cho Carl - Lời thú tội của Carl - Cơn “giận dữ” của Tom - Chúa ở chỗ làm - Chàng Lở Miệng - Chữ viết trên tường

Quãng thời gian tuyệt vời nhất bao giờ cũng là đầu giờ sáng.

Những buổi sáng nhẩn nha bắt đầu với vẻ tĩnh lặng trong các hành lang, những bóng điện chưa bật sáng hết công suất, và không khí bận rộn còn bị kìm nén. Nó cũng là quãng thời gian tồi tệ nhất, do cảm giác phấp phỏng về sự chấm dứt của tất cả những điều này.

Chúng tôi thích tụ tập trong phòng của Benny. Anh ta quay lại với một cốc đầy và nói, “Thế là hôm qua...”

Chúng tôi không sao nhìn anh ta mà nín được cười. “Gì vậy?” anh ta hỏi. Chúng tôi nói anh ta có gì đó - “Ở đâu?” Nó nằm trên mép anh ta. Anh ta vội tìm kiếm. Nó ở phía bên kia. Chúng tôi cầu Chúa là anh ta sớm tìm ra nó. Cuối cùng anh ta chùi nó xuống và nhìn kỹ. “Pho mát kem ấy mà,” anh ta nói. Có bánh vòng à? “Ở trong bếp,” anh ta trả lời. Câu chuyện của Benny sẽ phải chờ những người trong chúng tôi muốn ăn bánh vòng. Những người quan tâm tới câu chuyện của anh ta hơn thì vẫn bám lại. “Được rồi, thế là hôm qua,” anh ta kể tiếp. “Tớ muốn thử xem liệu tớ có qua được trọn vẹn một ngày mà không động đến chuột hoặc bàn phím không.” Anh ta thả người xuống ghế với vẻ khoái trá một cách gượng nhẹ, thận trọng không để sánh cốc cà phê. “Cả ngày liền không động đến con chuột và bàn phím - không thể, đúng không? Ý tớ là, mỗi ngày chúng ta sử dụng những thứ này bao nhiêu lần? Nếu các cậu cũng giống tớ, đang phải lắp ghép một mẩu quảng cáo, có lẽ các cậu phải nhắp chuột rồi gõ bàn phím đến cả mười nghìn lần mỗi ngày. Hai mươi nghìn. Thậm chí tớ cũng chẳng biết nữa, tớ không bao giờ đếm cả. Vấn đề là rất nhiều lần. Đến mức các cậu bắt đầu nghĩ rằng cuộc đời mình cũng đang từ từ nhắp dần đi. Thế là hôm qua tớ quyết định, giả sử tớ có thể cứ thế cả ngày thì sao nhỉ? Tớ phải làm gì? Tớ phải nhắp và mở, nhắp và kéo, nhắp và tô màu, nhắp và căn lề, nhắp và chỉnh lại kích thước, nhắp và tô đậm...”

Anh ta cứ thế thao thao kể lể, sử dụng những ngón tay chuối mắn của mình để liệt kê.

“Rồi lại còn những phím chức năng trên bàn phím nữa chứ, đúng không? Control-x, control-c, control-v, control-f...”

Chúng tôi bảo anh ta nói nhanh cho xong đi. Chúng tôi thích lãng phí thời gian, nhưng gần như không có gì khó chịu hơn là phải lãng phí khoảng thời gian lãng phí của chúng tôi vào một việc không đáng phải lãng phí thời gian.

“Thế thì hãy nghe xem tớ đã làm như thế nào nhé,” Benny nói, bộ mặt phì phị của anh ta nở nụ cười gian trá.

“Cả ngày anh không làm gì hết,” Marcia nói.

“Không đúng,” Benny phản đối, đột nhiên anh ta trở nên trịnh trọng một cách khác thường. “Tớ có việc phải nộp cho Joe mà, tớ cũng có những deadline chứ. Hôm qua tớ đã phải dùng đến chuột và bàn phím. Vậy thì hãy nghe xem tớ đã làm như thế nào nhé.”

Thế là Benny kể cho chúng tôi nghe câu chuyện anh ta đã qua được cả ngày mà không phải nhắp chuột bằng cách dạy Roland cách sử dụng Photoshop. Roland không nghĩ rằng bác ta cũng có thể học được Photoshop, thậm chí bác ta còn chưa bao giờ học đại học. Nhưng Benny bảo bác ta rằng nói như thế thật là điên rồ. Chỉ cần có người hướng dẫn đúng đắn, sẽ không mất quá hai tiếng đồng hồ. Roland làm ở bộ phận bảo vệ. Bác ta đứng gác ở bàn bảo vệ phía trước trong sảnh tầng trệt, hoặc không thì bác ta lại đi lòng vòng quanh tòa nhà trong chiếc áo vest xanh hải quân loại may đồng loạt cho nhân viên bảo vệ. Cả ngày dài bác ta ngồi ở vị trí cô độc của mình dưới sảnh hoặc bác ta đi đi lại lại quanh tòa nhà trên đôi chân nhức mỏi của mình. Được ngồi trong một văn phòng cùng với Benny có mà sướng quá. Điều kiện duy nhất mà bác ta đưa ra với Benny là nếu bác ta bị Mike Boroshansky, trưởng bộ phận bảo vệ, gọi qua chiếc bộ đàm Motorola, có lẽ bác ta sẽ phải đi. Thời buổi này ai mà biết được an ninh thế nào chứ.

“Vậy thì điều tôi muốn biết,” Benny đã bảo với bác ta, “là bác nghĩ bức ảnh nào trong số này trông thích hợp nhất cho mẫu quảng cáo này?” Roland nhìn vào màn hình của Benny và nói, “Tôi không biết. Bức này à?” và Benny nói, “Thôi nào, Roland, ông bạn - bác có đến hơn nghìn bức ảnh để lựa chọn cơ mà, và bác mới chỉ xem qua có sáu bức. Kéo xuống, ông bạn! Nhắp qua.” Và thế là cuối cùng Roland ngồi lọc qua số ảnh tương đương với khoảng một tiếng đồng hồ nhắp chuột trong khi Benny ngồi vểnh râu bên cạnh không phải sờ gì đến con chuột. Đó là cả một nỗi sướng rơn đối với Roland - có người để bầu bạn và một chỗ ngồi êm ái. “Không, không phải bức đó,” Benny liên tục nói. “Bác không có nhiều thiên bẩm nghệ thuật cho lắm, Roland, không định xúc phạm đâu.” “Ê, Benny,” Roland nói như thanh minh, “tôi đâu có đến trường để học cái này hay bất kỳ thứ gì khác, nếu cậu không phiền nhớ hộ cho.” Thế nhưng bác ta vẫn tiếp tục kích sang trang tiếp theo, và lại kéo xuống, rồi kích sang trang tiếp theo và kéo xuống. Cứ khi nào Roland lướt qua một bức ảnh mà Benny thích, Benny lại ghi số thứ tự của bức ảnh ra một mảnh giấy. Khi anh ta đã có đủ số ảnh, anh ta đá đít Roland ra khỏi văn phòng của mình và gọi cho bộ phận lễ tân của nhà cung cấp dịch vụ ảnh để họ gửi qua cho anh ta lựa chọn. Đó là lúc anh ta đi ăn trưa. Và rồi, khi anh ta quay trở về từ quán ăn Potbelly, đó là lúc bắt đầu lắp ráp mẩu quảng cáo lại với nhau, anh ta nhấc điện thoại lên gọi xuống bộ phận bảo vệ đề nghị cho gặp Roland.

Khi Roland quay trở lại văn phòng của Benny, bác ta sung sướng không để đâu cho hết khi được quay lại và cho đôi chân của mình nghỉ ngơi một lúc. “Cậu có biết mỗi ngày tôi đi bộ vòng quanh tòa nhà này bao nhiêu dặm không?” bác ta hỏi Benny. “Bao nhiêu?” Benny nói. “Tôi không biết,” bác ta nói. “Tôi không bao giờ đếm cả.” “Bác nên dùng một cái máy đếm bước,” Benny nói. Hai tiếng đồng hồ sau họ đã hoàn thành phác thảo của một mẩu quảng cáo mà Joe Pope yêu cầu ngay từ buổi sáng. Đến sáng mai thì cái trò trì hoãn nhắp chuột của Benny cũng kết thúc rồi và khi đó anh ta có thể hoàn thành nốt những công đoạn cuối cùng cho mẩu quảng cáo. Anh ta đã làm như thế đấy. Cả một ngày liền không một cái nhắp chuột nào đối với Benny. Chỉ có điều anh ta đã phá hỏng nó lúc năm giờ kém mười lăm khi tự cho phép mình kiểm tra tỉ số của trò bóng chày ảo trên mạng.

“Các anh biết không,” Amber Ludwig nói, “tôi thấy câu chuyện này chẳng có gì là hay ho cả. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Tom Mota quay lại đây và một trong những nhân viên bảo vệ của chúng ta lại đang ở trong phòng làm việc của anh dựng quảng cáo?” cô ta hỏi. “Tôi dám chắc là điều đó khiến tôi cảm thấy thực sự an toàn, Benny.”

“Ôi, Amber,” Benny nói. “Tom Mota không quay lại đây đâu.”

Bất thình lình Joe Pope hiện ra trên ngưỡng cửa phòng Benny. “Xin chào,” anh ta nói.

“Ối!” Amber ré lên theo bản năng, ôm chặt lấy cái bụng bầu của cô ta. Bụng cô ta chưa hề lộ gì cả, lẽ ra chúng tôi cũng đã chẳng biết gì về chuyện đó, nhưng chúng tôi vẫn biết vì chúng tôi cái gì cũng biết. “Ôi, Joe,” cô ta gào lên. “Anh làm tôi sợ chết khiếp!”

“Xin lỗi,” Joe nói. Anh ta đứng trên ngưỡng cửa với ống quần bên phải vẫn còn xắn lên vì sợ dính dầu mỡ. Ngày nào Joe cũng đạp xe đạp đi làm trừ những hôm thời tiết khắc nghiệt nhất. Hầu hết các buổi sáng anh ta bước lên thang máy như một người đưa thư với cái mũ bảo hiểm phát quang bóng lộn, quần xắn móng lợn và chiếc ba lô. Anh ta dắt xe tới phòng làm việc của mình và dựng nó vào tường. Saú đó anh ta khóa bánh trước vào với khung xe. Bên trong văn phòng mà anh ta còn làm thế, khóa xe đạp của mình lại, như thể vây tứ bề xung quanh anh ta toàn là dân đầu trộm đuôi cướp vậy. Cái xe đạp đó là đồ cá nhân duy nhất trong văn phòng của Joe Pope. Anh ta chẳng có áp phích, bưu ảnh, đồ trang trí lặt vặt, quả cầu tuyết, đồ lưu niệm, ảnh lồng khung, tác phẩm nghệ thuật nhái, vật kỷ niệm nào hết, cũng không có những cuốn sách hài hước trên giá và chẳng có gì để xếp bày bừa trên bàn làm việc. Anh ta đã ở cái phòng đó ba năm nay, vậy mà trông nó vẫn như chỗ tạm bợ. Ngày nào chúng tôi cũng phải thắc mắc - mà cái thằng cha Joe Pope này là thế quái nào nhỉ? Cũng chẳng phải là chúng tôi có gì không ưa anh ta. Có chăng chỉ là anh ta có lẽ hơi thấp hơn khoảng vài phân so với lẽ ra phải thế. Anh ta nghe thứ âm nhạc quái đản. Chúng tôi không biết anh ta làm gì vào các cuối tuần. Loại người gì mà lại ló mặt đến hôm thứ Hai và chẳng thèm quan tâm đến việc chia sẻ những gì đã diễn ra trong suốt hai ngày cuối tuần khi cuộc sống thực sự của con người ta diễn ra chứ? Những ngày cuối tuần của anh ta là bóng tối bí ẩn dài dằng dặc. Rất có khả năng anh ta dành những ngày nghỉ trong văn phòng, ấp ủ kế hoạch vĩ đại của mình. Những ngày thứ Hai chúng tôi đến nơi trong tâm trạng tươi phơi phới và không nghi ngờ gì, vậy mà kiểu gì anh ta cũng đã ở có mặt ở đó, sẵn sàng tung ra cái gì đó đối với chúng tôi. Có thể anh ta còn không bao giờ về nhà . Tất nhiên là anh ta không bao giờ cầm cốc cà phê lượn lờ tán phét với chúng tôi vào một buổi sáng thứ Hai. Chúng tôi không phán xét anh ta về điều đó, chỉ cần anh ta đừng có phán xét thói quen của chúng tôi trong việc từ từ bắt nhịp vào một tuần làm việc mới.

Mỗi khi anh ta có lượn qua thì cũng chỉ là để nói những câu như “Xin lỗi vì làm gián đoạn, Benny, nhưng hôm qua anh đã ráp xong cái quảng cáo đó cho tôi chưa vậy?”

“Có ngay đây, Joe,” Benny vênh váo, nháy mắt tinh quái về phía chúng tôi khi anh ta chuyển lại tác phẩm của Roland.

Sự có mặt bất ngờ của Joe là nhân tố giải tán, chúng tôi nhấc mông lên quay trở lại bàn làm việc, nặng nề và ngán ngẩm. Buổi sáng đã chính thức bắt đầu với chúng tôi.

Tại sao nó lại kinh hoàng đến thế, gần như chết đến nơi, một buổi sáng trong hàng trăm buổi, khi ta về phòng làm việc của mình và trơ trọi bước qua ngưỡng cửa? Tại sao nỗi khiếp sợ lại nghẹt thở đến thế? Hầu hết các ngày, không vấn đề gì. Công việc phải làm. Một cái bánh nướng. Những đám mây dông bên ngoài cửa sổ, đầy vẻ đe dọa, hùng vĩ. Nhưng trong một trăm buổi sáng ấy có một buổi thật không thể nào thở nổi. Cà phê của chúng tôi có vị như thuốc độc. Hình ảnh những chiếc ghế quen thuộc ám ảnh chúng tôi. Thứ ánh sáng bất di bất dịch đó khiến con người ta mụ mị.

Chúng tôi đấu tranh với cảm giác suy sụp. Chuyện này chuyện kia trong cuộc sống của chúng tôi chẳng ra đâu vào đâu, và trong suốt một khoảng thời gian dài chúng tôi vật lộn để vượt qua nó. Chúng tôi ngồi bệt xuống tắm dưới vòi hoa sen và không thể ra khỏi giường vào những ngày cuối tuần. Cuối cùng chúng tôi tham khảo ý kiến của bộ phận nhân sự về những chi tiết của việc đi gặp một chuyên gia, và đơn thuốc được kê đặc biệt. Marcia Dwyer dùng Prozac. Jim Jackers dùng Zoloft và mấy thứ nữa. Hàng tá người khác dùng thuốc suốt cả ngày, chúng tôi kỳ công gọi tên các loại thuốc, thôi thì có cơ man nào là thuốc, đủ các loại màu sắc và kích cỡ. Janine Gorjanc dùng một loại cocktail tả pí lù nhiều đơn thuốc cùng một lúc, trong đó có cả lithium. Sau cái chết của Jessica, Janine và chồng chị, Frank, đã ly hôn. Chúng tôi hiểu rằng ly hôn là một hậu quả phổ biến sau cái chết của một đứa con. Không có gì là cay nghiệt giữa họ, chỉ là đường ai người nấy đi. Giờ thì họ sống cô đơn với những ký ức của mình. Những bức ảnh chụp Frank cùng với Jessica vẫn còn được treo trong phòng làm việc của Janine, và, thực lòng mà nói, nhìn thấy những bức ảnh của anh ta cũng khiến người ta xúc động gần như chẳng kém gì bức ảnh của cô bé xấu số. Chụp Frank với Jessica ngồi trên đầu gối, chụp Frank đeo tạp dề và găng tay lót nồi trong một dịp nghỉ lễ nào đó - người đàn ông đó cũng đã rời khỏi thế giới này giống như Jessica. Những mớ tóc mai xoăn tít không còn nữa, cặp kính đen dày cộp không còn nữa và anh ta cũng chẳng còn vợ con gì hết. Cứ dành hai phút trong phòng của Janine ngắm nhìn những bức ảnh này và suy ngẫm về số phận của những con người hạnh phúc trong đó mà xem, hẳn bạn cũng sẽ phải với tay cầm lấy một trong những loại thuốc được kê đơn vứt lăn lóc khắp phòng.

Ấy vậy mà bất chấp cảm giác sầu muộn, chưa có ai từng bỏ việc. Khi có ai đó bỏ việc, chúng tôi không thể nào tin nổi. “Tớ sẽ trở thành một huấn luyện viên bơi bè trên sông Colorado,” họ nói. “Tớ sẽ đi lưu diễn quanh các thành phố đại học cùng với ban nhạc của mình.” Chúng tôi sững sờ không nói được câu nào. Cứ như thể họ sống trên một hành tinh khác. Họ lấy cái gan ấy ở đâu ra nhỉ? Họ sẽ làm gì để thanh toán tiền mua xe trả góp? Chúng tôi tụ tập bù khú một chầu vào cái ngày cuối cùng của họ và cố gắng che giấu nỗi ghen tị trong khi tự nhủ rằng chúng tôi vẫn có tự do và sự xa xỉ để mua sắm vô tội vạ. Lần nào cũng thế Tom sẽ say khướt và rỉa rói người sắp ra đi bằng những lời nâng cốc chúc mừng không phù hợp chút nào. Lần nào cũng thế Marcia sẽ tìm thấy những ban nhạc tóc xù [13] của cô ta ở máy nghe nhạc trả tiền và đày đọa chúng tôi bằng những bản ballad ngọt lịm của họ trong khi hồi tưởng lại những ngày thanh bình ở trường trung học George Washington. Lần nào cũng thế Janine sẽ lặng lẽ nhấm nháp ly nước nam việt quất của mình, trông thật đau khổ và hiền từ, còn Jim Jackers thì buông ra những câu chuyện tiếu lâm nhạt thếch, vô duyên, trong khi Joe vẫn ở văn phòng, làm việc. “ ‘Mọi con tàu đều là một vật thể lãng mạn’,” Tom ba hoa, “ ‘chỉ trừ con tàu đang chở chúng ta’.” Để hạ màn, bao giờ anh ta cũng đứng lên và nâng cốc. “Vậy thì xin chúc các cậu may mắn,” anh ta chúc, và nốc nốt chỗ martini của mình, “và quỷ tha ma bắt các cậu vì đã ra đi, đồ khốn kiếp.”

Chúng tôi có những hành lang rộng thênh thang. Một số hành lang có văn phòng chạy dọc cả hai bên, trong khi những hành lang khác có văn phòng ở một bên và bên còn lại là những ngăn chia ô. Ngăn của Jim Jackers độc đáo ở chỗ nó được bố trí lọt thỏm trong góc. Vì ở vị trí đó nên anh ta có thể chiêm ngưỡng một quang cảnh tuyệt vời và chúng tôi thắc mắc liệu anh ta có xứng đáng với nó không nữa. Để tới đó bạn phải bước qua những vết mực in lấm lem trên thảm ở tầng sáu mươi. Anh ta chia sẻ không gian đó với một người khác, một người phụ nữ tên là Tanya gì gì đó làm việc ở nhóm của một thành viên quản trị khác. Một bức vách có thể kéo vào được chia tách họ, làm bằng kính mờ dày, loại vẫn dùng cho cửa sổ phòng tắm. Đằng sau bức vách, một người đi đi lại lại, thì đối với người kia, trông như đang kì cọ và lăn nách, trong khi thực ra họ chỉ đang sắp xếp hồ sơ hoặc nhập dữ liệu.

Chúng tôi đang ở trong vài tuần đầu tiên của giai đoạn giảm biên chế khi Benny kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về việc Carl Garbedian tạm biệt vợ anh ta. Chúng tôi túm tụm lại ở ngăn của Jim vì một lý do trời ơi đất hỡi nào đó - bằng cách nào và tại sao một số người trong chúng tôi chợt nhận ra mình đang tụ tập tại cùng một nơi ở cùng một thời điểm đúng là điều bí ẩn. Những câu chuyện của Benny vốn được kể thường xuyên hơn trong những ngày trước giai đoạn suy thoái, khi chúng tôi cảm thấy phơi phới và an toàn. Chúng tôi ít bận tâm hơn đến việc bị bắt gặp tụ tập. Khi cơn suy thoái ập tới, khối lượng công việc của chúng tôi biến mất, và mặc dù có nhiều thời gian hơn bao giờ hết để nghe những câu chuyện của Benny, chúng tôi lại cảnh giác hơn với việc bị bắt quả tang tụ tập, đó là một dấu hiệu cho thấy khối lượng công việc của chúng tôi đã biến mất và việc giảm biên chế là cần thiết. Chúng tôi ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan - phải làm gì với những câu chuyện của Benny đây? Chúng tôi thỏa hiệp bằng cách vẫn tiếp tục nghe, nhưng không còn háo hức tận hưởng chúng nữa vì quá lo lắng có người đi qua và bắt gặp chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn nghe bằng một tai, và một mắt lúc nào liếc ra sau lưng, phòng trường hợp cần vọt lẹ về bàn của mình và bắt đầu màn kịch rằng công việc vẫn ngập đầu như trước kia, bởi vì chỉ có như thế chúng tôi mới không bị cho nghỉ việc.

Carl Garbedian khoảng ngoài ba mươi tuổi. Anh ta có cái bụng tương đương với bụng bầu ở giai đoạn ba tháng thứ hai. Anh ta mặc loại quần jean không tên tuổi bó quá sát, và đi giày thể thao loại bình dân, điều đó, đối với chúng tôi, cho thấy anh ta đã buông xuôi đến mức độ nào. Một sáng nọ vợ anh ta thả anh ta ở góc đường nhưng anh ta nhất định không chịu rời khỏi xe. Benny cũng đã tận mắt chứng kiến hầu hết cảnh này rồi, nhưng những gì không được trực tiếp thấy thì sau đó anh ta lại moi từ Carl, khi anh ta khích bác để gã kia nói ra trong giờ ăn trưa. Gần như tất cả mọi người đều chia sẻ những suy nghĩ của họ với Benny bởi vì mọi người đều yêu quý Benny, đó là lý do tại sao một số người trong chúng tôi ghét cay ghét đắng anh ta.

Ngay trước khi bước ra khỏi xe, đúng lúc lẽ ra cô ta phải hôn tạm biệt Carl, thì điện thoại di động của Marilynn lại đổ chuông. Cô ta là một bác sĩ chuyên khoa ung thư và luôn cảm thấy có trách nhiệm trả lời điện thoại phòng trường hợp có cấp cứu. “A lô?” cô nói. “Cứ nói đi, Susan, tôi nghe cô nói rõ lắm.”

Ngay lập tức Carl cảm thấy khó chịu. Benny kể với chúng tôi rằng Carl ghét cái kiểu lúc nào vợ anh ta cũng trấn an mọi người rằng cô ta có thể nghe họ nói rõ lắm. Anh ta căm ghét cái kiểu cô ta nhét ngón tay vào tai đối diện, để nút một cách hiệu quả tất cả những tiếng ồn khác. Và anh ta căm ghét việc những trách nhiệm khác của vợ lúc nào cũng được ưu tiên hơn mình. Họ đang sắp sửa chào tạm biệt, vì Chúa. Chẳng lẽ lại không phải chuyện lớn, chẳng lẽ lại không quan trọng, nụ hôn tạm biệt của họ ấy? Điều anh ta thực sự căm ghét, mà anh ta không bao giờ thú nhận với vợ mình, là anh ta cảm thấy mình là người kém cỏi hơn trong hai người vì không có trách nhiệm nào có thể so sánh với những trách nhiệm của vợ mình, thứ mà anh ta có thể dùng để ưu tiên hơn cô ta . Cô ta được mọi người gọi đến về chuyện những bệnh nhân sắp chết. Hãy đối mặt với sự thật đi, chẳng đời nào một trong chúng tôi lại đi gọi cho Carl với một câu hỏi có tính cấp bách sống còn. Bất kỳ câu hỏi nào chúng tôi có thể có cho Carl đều có thể chờ cho đến khi chúng tôi đụng phải anh ta ở hành lang ngày hôm sau. Điều đó khiến Carl cảm thấy rằng công việc của vợ anh ta có ý nghĩa hơn công việc của chính anh ta; và, xuất phát từ lối suy nghĩ quái gở của Carl lúc đó, rằng như thế cô ta trở nên có ý nghĩa hơn. Những ý nghĩa của Carl thật tăm tối , trời ạ. Điều đó không giúp mang lại một cuộc hôn nhân dễ dàng. Giá kể chỉ cần bạn nghe thấy những đoạn nói chuyện rời rạc qua điện thoại mà thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe lỏm được khi đi ngang qua phòng của Carl.

Benny kể với chúng tôi rằng khi Marilynn nghe điện thoại di động, Carl đã tính đến việc bước ra khỏi xe và đùng đùng bỏ đi, nhưng thay vào đó anh ta vẫn ngồi lại và đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh ta thoáng thấy bóng dáng người ăn xin bên ngoài tòa nhà của chúng tôi. Ông ta luôn ở đó, cái thằng cha ấy, ngồi gần một trong những cánh cửa xoay, nhấc lên lắc lắc một cái cốc nhựa Dunkin Donuts khi chúng tôi đi vào, trong khi chân ông ta vẫn duỗi thẳng ra và bắt chéo lại ở chỗ mắt cá. Bóng dáng ông ta, chỉ riêng bóng dáng ông ta thôi - mà chỉ năm năm trước có lẽ đã khiến Carl mủi lòng dốc hết cả túi tìm tiền lẻ - là một công cụ tra tấn dai dẳng giờ đây trút xuống với nỗi thống khổ cùng cực toàn bộ gánh nặng ký ức của không biết bao nhiêu ngày tháng lên vai của Carl. Chúng đã vơi nhẹ đi đêm hôm trước, trong khoảng một hai tiếng đồng hồ. Nhưng giờ đây, thậm chí trước cả khi vào trong tòa nhà - có Chúa chứng giám, thậm chí trước cả khi anh ta có cơ hội vừa chạy vừa rú ầm lên khỏi một màn buôn chuyện khác của Karen Woo, hoặc nhìn thấy ánh nắng bám vắt vẻo trên trán Chris Yop - chúng đã quay trở lại, tất cả những ngày tháng dồn nén nỗi chất chứa của Carl, cùng với gánh nặng đến gãy sụm lưng của thêm một ngày khác.

Hãy làm gì đó đi! anh ta chực muốn gào lên với tay ăn mày. Anh ta đang sắp sửa hạ kính cửa xe xuống và làm như thế. Anh ta thấy bị xúc phạm trước việc gã đàn ông kia cứ ngồi ở đó mà chờ tiền của anh ta. Những tay ăn mày khác đều xác định vị thế cho chính mình. Họ có thương hiệu riêng. “Cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam bị AIDS”. “Bà mẹ thất nghiệp nuôi ba con nhỏ”. “Đang cố quay trở về Cleveland”. Thằng cha này chẳng có gì - không có những dòng chữ trên một tấm bìa các tông, thậm chí một con chó hoặc cái trống lúc lắc nhỏ cũng không nốt. Vì lý do nào đó điều này khiến Carl nổi điên. Đúng thế, từng có thời gian anh ta hẳn đã dốc sạch để cho đi bất kể trong túi có bao nhiêu; giờ thì anh ta sẵn sàng cho thằng cha kia nửa khoản dành dụm cả đời của mình, nếu như chỉ cần hắn chọn một tòa nhà khác !

Benny nhìn thấy vợ chồng nhà Garbedian đỗ xe ì ra ở góc đường nên đã từ phía sau đi lên đập vào cửa xe phía Carl. Carl cáu kỉnh xua anh ta đi chỗ khác. Benny đoán là hai vợ chồng đang cãi nhau nên anh ta để cho họ được yên. Nhưng Benny vẫn là Benny, anh ta lượn lờ quanh cửa trước nơi anh ta không dễ bị phát hiện, nhờ được che khuất bởi một thùng thư của bưu điện. Từ chỗ này anh ta có thể quan sát rất rõ chiếc xe.

Bên trong Marilynn vẫn đang nói chuyện điện thoại. Cô ta đang bàn bạc một vấn đề nghề nghiệp quan trọng bằng thứ ngôn ngữ mà Carl ghen tị. Anh ta quyết định mình cũng gọi điện thoại. Anh ta lấy điện thoại di động ra khỏi túi quần jean, ấn phím gọi tắt, và đưa điện thoại lên tai. Vợ anh ta nói vào điện thoại của mình, “Cậu chờ một phút được không, Susan? Tớ đang có cuộc gọi khác.” Cô ta nhìn xuống màn hình và rồi ngoảnh sang nhìn Carl, người đang nhìn thẳng ra ngoài cửa sổ.

“Anh đang làm gì vậy?” cô ta hỏi chồng.

Anh ta quay sang vợ. “Thì đang gọi điện,” anh ta trả lời.

“Tại sao anh lại gọi cho em, Carl?” Marilynn hỏi với vẻ ngỡ ngàng và cảnh giác.

Dạo gần đây những buổi sáng đã trở nên thật khó chịu với vợ chồng nhà Garbedian, nhiều khi còn phản phúc. “Chờ một giây nhé,” Carl nói với Marilynn, rồi giơ một ngón tay lên không khí. “Anh chỉ đang để lại một tin nhắn thoại thôi. Chào em, Marilynn, là anh, Carl đây. Anh đang gọi cho em về việc” - anh ta giơ tay lên xem đồng hồ, một cử chỉ đầy trang trọng - “bây giờ là khoảng tám rưỡi rồi,” anh ta nói. “Và anh biết là em rất bận, em yêu, nhưng nếu em có thể làm ơn gọi cho anh, anh chỉ muốn... hỏi thăm tình hình thế nào. Nói chuyện linh tinh. Em có số của anh rồi, nhưng phòng trường hợp em chưa có, bây giờ anh sẽ đọc lại cho em, là...”

Marilynn lại đưa điện thoại lên tai và nói, “Susan, tớ sẽ gọi lại cho cậu sau nhé.”

“Thế thôi, tạm biệt em yêu,” Carl nói.

Cả hai cùng ấn phím ngắt trên điện thoại di động của mình. Đến một lúc, đèn báo tin nhắn mới trên điện thoại của Marilynn bắt đầu nhấp nháy.

Joe Pope thò cái đầu của anh ta vào ô làm việc của Jim Jackers đúng lúc Benny đang đến kể đến đoạn hấp dẫn. Một số vách ngăn ô làm việc của chúng tôi được làm bằng ván ghép rời bọc vải rẻ tiền màu cam hoặc màu be và mỏng mảnh đến nỗi chỉ cần luồng gió hút trong nhà cũng đủ khiến chúng rung rinh. Những vách ngăn khác, như của Jim, được mua ngay trước thời kỳ suy thoái và có thể chịu được cả gió của những trận siêu bão. Câu chuyện của Benny dừng lại đột ngột. Vài người trong chúng tôi rời khỏi ngăn của Jim ngay lập tức, trong khi những người còn lại bồn chồn liếc nhìn Joe. Joe hỏi Jim là liệu những bản ma két mà anh ta đang làm có sẵn sàng để trình lên lúc năm giờ chiều không.

Joe có khuynh hướng hay ngắt lời người khác. Đôi khi điều đó lại tốt. Chúng tôi có thể quá sa đà vào một trong những câu chuyện của Benny trong khi thời gian cứ thế vùn vụt trôi và rồi ai đó quan trọng hơn Joe có thể xuất hiện và nhìn thấy chúng tôi mà như thế thì còn tệ hơn nhiều. Chúng tôi có thích anh ta hồi đầu, hồi mới đầu thôi. Rồi một hôm Karen Woo nói, “Tôi không ưa Joe Pope,” và cô ta cho chúng tôi biết những lý do của mình. Cô ta cứ thế tuôn liền một tràng dài, trong suýt soát cả nửa tiếng đồng hồ, một bản cáo trạng sôi sục, cho đến khi cuối cùng chúng tôi phải viện cớ để có thể quay trở lại làm việc. Sau đó thì không ai còn chút mảy may nghi ngờ gì về chuyện Karen Woo cảm thấy như thế nào về Joe Pope, và không ít người đồng ý rằng cô ta kêu ca thế cũng là chính đáng - rằng nếu như tình hình quả thực như lời Karen, thì Joe hoàn toàn không phải là một người dễ mến. Bây giờ thì khó mà nói được là lời kêu ca dạo đó thực sự là như thế nào. Để xem nào, đây rồi… cố nhớ thử xem... không, không ăn thua rồi. Phải đến nửa thời gian chúng tôi không thể nhớ nổi chuyện xảy ra trước đó ba tiếng đồng hồ. Trí nhớ của chúng tôi ở chỗ đó cũng chẳng khác gì trí nhớ của cá vàng. Những con cá vàng tối nào cũng thực hiện một hành trình trong cái túi ni lông nhỏ đựng nước và rồi đến sáng được đưa trở lại chiếc bình của chúng. Điều chúng tôi nhớ được là Karen không chịu cho qua câu chuyện, hết ngày này sang ngày khác trong cả tuần liền, và khi tuần đó kết thúc, chúng tôi đều có một ý nghĩ rõ ràng hơn về Joe so với những gì chúng tôi cảm nhận về anh ta trong ba hay bốn tháng đầu tiên.

Jim Jackers ngẩng lên khỏi máy tính. “Được rồi, Joe, sẽ xong ngay,” anh ta trả lời. “Tôi đang chỉnh sửa nốt những khâu cuối cùng đây.”

Câu nói của Jim là cái cớ để Joe lượn đi, nhưng thay vào đó anh ta cứ lởn vởn bên vách ngăn ô. Đó là khoảng thời gian giữa lần thăng chức thứ nhất và thứ hai của anh ta. “Cảm ơn, Jim,” anh ta nói. Anh ta nhìn chúng tôi. Chúng tôi đứng yên tại chỗ. Chúng tôi không muốn bị Joe Pope hăm he bắt quay trở lại bàn làm việc đúng lúc Benny đang kể đến phần giữa của một câu chuyện hấp dẫn. “Mọi người thế nào?” Joe hỏi. Chúng tôi nhìn nhau. Chúng tôi nhún vai. Khá tốt, chúng tôi bảo anh ta. “Tốt,” anh ta nói. Cuối cùng anh ta bỏ đi và chúng tôi nhướng mày nhìn nhau.

“Đúng là trò khoe khoang quyền lực phát tởm,” Karen Woo nói.

Chúng tôi bảo Jim là anh ta phải đi nếu như anh ta là người thu hút sự chú ý của Joe Pope. Nếu như anh ta là lý do khiến Joe lởn vởn về phía chúng tôi, Jim phải đi.

“Nhưng đây là ô của tôi cơ mà,” Jim nói.

“Có thể anh ta chỉ đang cố gắng tỏ ra thân thiện,” Genevieve Latko-Devine gợi ý. Genevieve có mái tóc vàng, đôi mắt xanh, và một vẻ quyến rũ kiêu kỳ, cao giá. Ngay cả cánh phụ nữ cũng phải thừa nhận sắc đẹp vượt trội của cô. Một năm nọ nhân dịp Giáng sinh, cô được tặng một món quà nghịch ngợm là một hàm răng giả xiên xẹo, mà cô được hướng dẫn là mang vào quanh năm như một nỗ lực nhằm hạ mình xuống ngang với chúng tôi. Nhưng khi cô đeo bộ hàm vào, chúng tôi phát hiện ra - ấy là nói cánh đàn ông trong chúng tôi - một khát khao có răng sâu mà chúng tôi không bao giờ biết là mình có. Chúng tôi bảo Benny tiếp tục câu chuyện của anh ta.

Anh ta bắt đầu lại ở chỗ anh ta đã bỏ dở. Carl và vợ ngồi trong im lặng lúc lâu sau khi đã lần lượt tắt điện thoại di động của mình. Cuối cùng Marilynn, với vẻ kiên quyết dịu dàng nhưng dứt khoát, quay sang anh ta nói, “Anh cần được giúp đỡ, Carl.”

Lắc đầu rất cương quyết, Carl trả lời, “Anh không cần giúp đỡ gì hết.”

“Anh cần được chăm sóc y tế,” vợ anh ta nói, “và anh sẽ không chịu thừa nhận điều đó, và anh đang làm tổn thương cuộc hôn nhân của chúng ta vì chuyện này.”

“Anh không bị trầm cảm,” Carl nói.

“Anh là một ca bệnh trầm cảm điển hình như trong sách giáo khoa ,” Marilynn khăng khăng, “và anh rất cần được chữa trị...”

“Làm sao em biết?” anh ta hỏi, cắt ngang lời vợ. Cuối cùng anh ta đã quay sang trừng trừng nhìn vợ với vẻ mặt cô đơn và oán hận. “Em đâu phải là bác sĩ tâm thần, Marilynn, đúng không? Em không thể biết mọi khía cạnh của ngành y được - đúng không, lẽ nào em có thể?”

“Những bệnh nhân ung thư, Carl,” cô ta nói, vẻ cáu giận dâng lên trong giọng nói, “không phải là những người hạnh phúc nhất, dù anh có tin hay không. Em kê đơn thuốc chống trầm cảm cho rất, rất nhiều bệnh nhân của mình. Khi nhìn thấy người bị trầm cảm là em nhận ra ngay, em biết rõ các triệu chứng, em biết những tổn thương mà căn bệnh đó gây ra cho các gia đình, cho...”

Anh ta để mặc cho Marilynn nói. Đúng lúc đó, băng qua phố trên đường chị đi làm, là Janine Gorjanc.

Đối với Carl thì Janine mang hình ảnh một bà mẹ điển hình. Không đẹp cũng không xấu. Mũm mĩm nhưng không béo. Gương mặt phì phị nhưng với một vẻ kháu khỉnh ẩn giấu đâu đó có thể khiến người ta muốn đưa chị đến buổi khiêu vũ ở trường trung học phát điên lên được. Một đứa trẻ, Carl nghĩ, không phải là kết quả duy nhất của việc sinh nở. Một người mẹ cũng được sinh ra. Bạn nhìn thấy họ mỗi ngày - những người phụ nữ không có gì đặc biệt với một ngấn phình lên ngay phía trên bụng dưới, hơi có hai cằm một chút. Luôn là tuổi bốn mươi. Mẹ của ai đó, bạn thầm nghĩ. Có một đứa trẻ ở đâu đó đã biến người phụ nữ này thành một bà mẹ, và vì đứa con chị đã thay đổi vẻ bề ngoài để đảm nhiệm tốt hơn vai trò của mình. Vì ngồi trên xe tách biệt hẳn với chị, anh ta có thể nhìn mà không bị thôi thúc phải quay người và bỏ trốn, và đó là lần đầu tiên anh ta nhìn thấy chị trong suốt mấy tháng nay, có khi là mấy năm cũng nên. “Carl?” Marilynn đang nói. “Carl?”

“Marilynn,” anh ta nói. “Em có nhìn thấy người phụ nữ kia không? Người phụ nữ ở đằng kia, mặc cái áo nhàu nhĩ ấy. Trông chị ấy giống một người mẹ, đúng không?” Marilynn nhìn theo ánh mắt của anh ta. “Đó là Janine Gorjanc,” anh ta nói. “Đó là người phụ nữ mà anh đã kể với em,” anh ta nói. “Con gái chị ấy bị giết. Em nhớ chứ? Cô bé bị bắt cóc. Anh đã kể cho em chuyện cô bé. Anh tới dự đám tang ấy?”

“Em nhớ,” cô ta nói.

“Chị ấy hôi rình,” anh ta nói.

“Chị ấy hôi rình?”

“Chị ấy bốc ra thứ mùi gì đó, anh không biết là mùi gì. Không phải ngày nào cũng thế. Nhưng có những ngày anh nghĩ chị ấy cứ để buông xuôi như thế. Chị ấy không tắm rửa hay gì hết.” Anh ta nhìn chị vào tòa nhà. Marilynn đang nhìn chồng, không nhìn Janine. Cô ta đang lắng nghe, cố gắng hiểu. “Marilynn,” anh ta nói, “anh ghét người phụ nữ đó vì cái mùi của chị ấy.”

“Anh đã bao giờ thử nói chuyện với chị ấy về chuyện đó chưa?” cô ta hỏi.

“Nhưng anh thậm chí còn căm ghét bản thân mình hơn,” anh ta vừa nói tiếp, vừa cởi cúc áo khoác của mình, “vì đã ghét chị ấy. Thậm chí em có thể hình dung nổi những gì chị ấy đã trải qua không?”

“Carl,” Marilynn nói, “anh đang làm gì vậy?”

“Vụ bắt cóc,” anh ta vẫn tiếp tục như không nghe thấy gì, “rồi đến quãng thời gian chờ đợi, quãng thời gian chờ đợi khủng khiếp.”

“Anh đang làm gì vậy?” cô ta kêu lên.

“Rồi tìm thấy cái xác. Thử hình dung đến cảnh tìm thấy cái xác, Marilynn.”

Đến lúc này anh ta đã cởi trần đến ngang thắt lưng. Anh ta đã cởi áo khoác và lột chiếc áo phông qua đầu. “Hôm nay anh không muốn đi làm,” anh ta tuyên bố, và quay sang nhìn vợ mình. Anh ta đang thở hổn hển với cái bụng phơi ra, một cái bụng phồng to nhợt nhạt rậm rì lông lá. Khi Benny kể lại toàn bộ chuyện này cho chúng tôi, anh ta nói về sau Carl đã tâm sự là anh ta chỉ mong Lynn Mason đi qua ngay lúc ấy và nhìn thấy cái cảnh không hay ho đó và sẽ cho anh ta đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha vì lý do mỹ học. “Mặc quần áo của anh vào!” Marilynn gào lên.

“Anh không muốn là người căm ghét Janine Gorjanc,” anh ta nói. “Nếu anh đi vào trong anh sẽ là người đó vì anh sẽ ngửi thấy mùi của chị ấy. Anh không muốn phải ngửi mùi của chị ấy. Nếu anh ngửi thấy chị ấy anh sẽ căm ghét chị ấy và anh không muốn là người như thế. Em phải đưa anh về nhà.”

“Anh hoàn toàn mất trí rồi phải không?” cô ta vừa hỏi vừa nhìn anh ta giật phắt đôi giày thể thao, cởi khóa quần jean và kéo tụt nó xuống mắt cá chân.

Anh ta ngồi thẳng lên trên ghế trước, không mặc gì hết ngoài chiếc quần lót. “Anh mệt mỏi lắm rồi,” anh ta nói, và quay sang vợ. “Vấn đề là thế đấy, Marilynn. Anh thực sự rất mệt mỏi. Nếu em bắt anh vào trong kia, anh sẽ đi vào trong như thế này đấy.”

“Cái đó,” cô ta gầm lên, “không…” Cô ta lắc đầu và bật cười. “Cái đó không dọa được em đâu, Carl.”

“Anh mệt mỏi lắm rồi,” anh ta nhắc lại.

“Carl, mặc quần áo vào,” cô ta nói, “rồi vào trong kia, và đến chiều nay, kiểu gì em cũng sắp xếp cho anh hẹn khám với một bác sĩ tâm thần rất giỏi.”

“Anh sẽ không mặc quần áo trừ phi em chịu đưa anh về nhà,” anh ta nói.

“Carl,” cô ta gào lên, “mười phút nữa em phải có mặt trong phòng mổ! Em không thể đưa anh về nhà được!”

“Đừng có bắt anh phải ra ngoài,” anh ta nói. “Xin em đừng có bắt anh phải ra ngoài, Marilynn.”

“À, Jim, chỉ một chuyện này nữa thôi...”

Chúng tôi ngẩng lên và thấy Joe Pope đúng lúc anh ta đang thò đầu qua vách ngăn ô của Jim Jackers lần thứ hai. Benny câm bặt còn Jim quay ngoắt đi và Amber Ludwig thì giật bắn mình sợ hãi trong khi Marcia Dwyer tranh thủ dịp cầm lon Coca cho người ăn kiêng của mình lên và chuồn thẳng, còn một vài người trong chúng tôi nấn ná ở lại nghe thấy Joe thông báo với Jim rằng anh ta vừa mới từ văn phòng của Lynn Mason quay ra. Họ đã bàn bạc về những bản ma két phải xong cuối ngày hôm đó, và họ đã nảy ra một số ý tưởng về việc thay đổi cái này và thay đổi cái kia, và khi nghe đến đó, từng người một chúng tôi đứng lên và lỉnh đi vì chúng tôi biết những thay đổi của Joe Pope có nghĩa là gì - thêm việc. Bao giờ cũng là thêm việc để làm với thằng cha này. Người cuối cùng trong chúng tôi nghe thấy Joe nói, “Tôi xin lỗi đã cắt ngang, Jim - bây giờ có tiện không vậy?” và Jim trả lời, “Chắc chắn rồi, chắc chắn rồi, Joe, tiện chứ. Xin mời vào và ngồi đi.”

Đến cuối ngày hôm đó tin tức lan đi như cháy rừng. Joe Pope đã nhận được quyết định thăng chức lần thứ hai.

Anh ta là Roger Highnote mới của chúng tôi. Anh ta có cái gu thời trang độc nhất vô nhị không hoàn toàn phù hợp với xu hướng mùa và chúng tôi băn khoăn không hiểu anh ta kiếm ở đâu ra. Anh ta đang đọc những tạp chí gì nhỉ? Đến năm sau thì tất cả chúng tôi đều mặc đồ bò mài tương tự, nhưng đến lúc ấy thì còn quan trọng gì nữa. Suốt cả năm trời anh ta trông như một tên dở người. “Trông được không?” chúng tôi nói với Genevieve. “Joe Pope ấy à?” Không, anh ta thực sự quá lùn mất hai phân. Anh ta biến cuộc sống của chúng tôi thành địa ngục trần gian. Và anh ta khiến chúng tôi cực kỳ khó xử. Nhưng phải giải thích thế nào bây giờ? Vì đó không phải là cảm giác khó xử chúng tôi cảm thấy với Jim Jackers. Ở hành lang Jim chào tất cả mọi người với câu nói, “Khỏe không, bồ?” một câu mà anh ta to gan dám mang ra hỏi cả Lynn Mason khi đi qua chị. Đó là kiểu hành vi gượng gạo. Có lần tất cả chúng tôi tới một bữa tiệc, và Jim mang theo hộp rượu vang của anh ta. Anh ta cũng công khai gọi ruột của mình là “Ngài R”. “Xin lỗi,” anh ta thường nói, trước khi đi vào nhà vệ sinh. “Nhưng ngài R lại đang gây chuyện rồi.”

Jim khiến chúng tôi phải nhăn mặt vì khó xử, nhưng chúng tôi nhăn mặt vì chính anh ta. Sự khó xử từ Joe Pope lại tạo ra một kiểu nhăn mặt hoàn toàn khác rất khó gọi tên. “ ‘Anh ta không chỉ là sự khó xử ở chính bản thân mình,’ nhà thơ nửa mùa của chúng tôi Hank Neary tuyên bố, ‘mà còn là nguyên nhân sự khó xử ở những người khác’.” Và giống như tất cả những lần khác, chúng tôi hoàn toàn không thể hiểu nổi Hank đang nói cái gì nữa. Trừ phi anh ta định nói rằng sự có mặt của Joe Pope làm chúng tôi cảm thấy khó xử. Đúng là như vậy. Joe không cảm thấy nghĩa vụ phải mở miệng gì cả. Anh ta chào hỏi và được chào hỏi như một con người bình thường, nhưng ngoài đó ra thì anh ta im lặng một cách trâng tráo và khắc kỷ. Ngay cả trong một cuộc họp hay thảo luận chung từ xa, thằng cha này vẫn để những khoảng im lặng kéo dài lấp kín căn phòng trong lúc anh ta nghĩ về những gì anh ta muốn nói, mà không hề đằng hắng hay ậm ừ một cách hồi hộp nhằm mục đích lấp đầy sự im lặng ngột ngạt đang đè nặng lên tất cả chúng tôi. Có lẽ điều đó có thể được gọi là sự điềm tĩnh, nhưng nó khiến những người còn lại trong chúng tôi cảm thấy không thoải mái, đến nỗi mà Hank, quyết tâm nói cho ra ngô ra khoai, đã quay lại với câu trích dẫn thứ hai lấy ra từ nguồn mạch vô tận sự uyên bác vô tích sự của anh ta - “ ‘Anh ta gợi lên cảm giác không thoải mái. Chính là điều đó! Cảm giác không thoải mái! Không phải là sự nghi kỵ rõ ràng - chỉ là cảm giác không thoải mái - chỉ thế thôi’.” - và khi câu trích dẫn đó được chúng tôi chuyền tay nhau từ người này sang người khác qua email, chúng tôi chúc mừng Hank vì cuối cùng cũng nói được điều gì đó có thể hiểu được. Cảm giác không thoải mái. Chính xác là như thế.

Anh ta có cái kiểu đột kích bạn một cách bất thình lình. Chuyện này xảy ra rất nhiều ở chỗ đặt máy in. Một lần, Tom Mota đang đứng ở một chỗ máy in thì Joe len lén lại gần gã và nói, “Xin chào.” Đúng lúc ấy, Tom có thứ gì đó khó nói trôi ra từ trong máy in màu. Đại loại đó là thứ không hoàn toàn liên quan đến công việc. Chuyện này xảy ra trước khi chính sách quy định in ấn được ban hành như một phần của các biện pháp thắt lưng buộc bụng, điều này cũng ngăn cản Hank Neary photocopy những cuốn sách thư viện vào buổi sáng và đọc các trang giấy photo bằng máy Xerox suốt cả ngày bên bàn làm việc. Rõ ràng mười mươi công việc của Joe là thứ gì đó chính thức, và nó lại xếp hàng ngay sau bản in của Tom. Đen đủi thay cho Tom. Thế là Tom bảo anh ta, “Anh định cứ chờ thế này à? Anh định cứ chờ đến khi bản in của anh ra à?” Phản ứng của Joe là cứ thế lặng thinh như không có gì. Thế là Tom nói huỵch toẹt. “Tôi đang chờ một thứ được in ra,” gã nói, “và nói thực lòng với anh, Joe, tôi không thích anh nhìn thấy nó. Trong đó có tí vú vê, và tôi biết anh nói chuyện với ai,” gã nói. “Mà tại sao bao giờ anh cũng cảm thấy phải chạy vội chạy vàng tới máy in trong khi bản in của anh xếp hàng sau tất cả các bản in khác vậy?” gã tiếp tục. “Tại sao anh cứ phải hăm hở thế? Anh biết thừa là phải mất một lúc những bản in này mới thò ra nếu tất cả được sắp hàng in lần lượt, đúng không?”

Ai mà biết được Joe phản ứng như thế nào với câu đó. Anh ta đứng trên Tom nhiều bậc trong hệ thống tôn ti trật tự nhưng có lẽ anh ta chịu đựng gã này một cách im lặng hơn, kiên nhẫn chờ bản in của mình trôi ra. Có thể anh ta có tìm cách liếc xem Tom đang in ra cái gì, như lời Tom khẳng định, hoặc có thể anh ta vẫn nghiêm trang nhìn thẳng về phía trước và nghĩ bụng, “Cứ như là mình thèm quan tâm đến việc thằng cha này đang in cái chết tiệt gì không bằng.” Bất kể thế nào anh ta cũng thật bí hiểm.

Đó là từ dành cho anh ta - bí hiểm. Sự bí hiểm của anh ta tạo ra cảm giác không thoải mái bao trùm. Tại sao anh ta phải là một kẻ bí ẩn tẻ ngắt như thế làm gì nhỉ? Chẳng có gì trên những bức tường của anh ta, chẳng có gì trong văn phòng của anh ta ngoài một chiếc xe đạp. Thứ mà anh ta khóa . Sáng nào chúng tôi cũng nghe thấy nó kêu đánh tách và cố không lấy thế làm tự ái. Quan điểm của chúng tôi về Joe, anh ta còn quá trẻ để được bí hiểm. Nếu như anh ba mươi tuổi, anh có những mối quan tâm . Anh can dự với cả thế giới. Tại sao thằng cha này lúc nào cũng ở bàn làm việc, vây xung quanh là những bức tường trống trơn? “Chúng tôi phải cho anh xem cái này, đây là búp bê Joe Pope của chúng tôi.” Đó có lẽ là cách chúng tôi sẽ giải thích về Joe Pope với một người mới. Nói thế không có nghĩa là chúng tôi sẽ lại thuê người mới nữa. Nhưng giả sử có như vậy, có lẽ chúng tôi sẽ nói, “Chúng tôi giữ nó trong phòng làm việc của Karen Woo. Cô ta ghét Joe Pope. Đến mà xem. Còn bây giờ nhìn nhé, nó sắp biểu diễn một trò bắt chước hoàn hảo. Nhìn nhé. Anh có thấy không?” “Nhưng nó chỉ ngồi yên ở đó mà?” tay nhân viên mới sẽ thốt lên. “ Chính xác! ” chúng tôi sẽ ồ lên. “Joe lúc nào cũng ngồi ở bàn làm việc của nó. Giờ hãy xem nó gập đầu gối xuống và kéo ghế vào! Hãy nhìn Joe Pope ngắt lời chúng tôi qua vách ngăn ô làm việc! Hãy giật dây và nghe Joe Pope không nói gì hết! Đó là búp bê Joe Pope Hành động - Bí hiểm mới toanh do Hasbro chế tạo!”

Chúng tôi có một khách hàng đồ chơi, một khách hàng ô tô, một hãng vận tải đường dài và một chuỗi cửa hàng thú nuôi. Chúng tôi quảng cáo qua ti vi, báo chí, thư chào hàng trực tiếp, và Internet. Chúng tôi có bộ phận từ-doanh nghiệp-tới-doanh nghiệp. Chúng tôi bù khú quá nhiều vào các cuối tuần. Chúng tôi có vận may to lớn và những khiếm khuyết về tính cách đặc trưng cho mọi thế hệ chưa bao giờ trải qua chiến tranh. Giá kể mà chúng tôi đang hồi phục từ những hậu quả của một chiến dịch tầm cỡ, có lẽ chúng tôi đã biết trân trọng vị trí mình đang có. Thậm chí có khi còn háo hức. Nhưng kỳ thực thì chỉ có chúng tôi và những cuộc tranh giành nhằm tiến thêm một nấc trên bậc thang danh vọng. Nó là cái trò đếm ô lót trần trong văn phòng của mọi người để xác định xem ai có số ô lót trần cao hơn. Sean Smith có tham gia Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất nhưng điều đó hầu như chẳng gây được ấn tượng gì với chúng tôi bởi vì tất cả những gì anh ta làm là lái một chiếc xe tăng quanh một đụn cát hoàn toàn vắng bóng đến tang thương các máy bay địch và chỉ khi bị bắt buộc, tất cả những gì anh ta có thể hồi tưởng chỉ vẻn vẹn có thế. Frank Brizzolera có thể đã chứng kiến Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhưng lão đã chết trước khi chúng tôi kịp hỏi lão. Chúng tôi có một tay cựu chiến binh thời Chiến tranh Việt Nam nhưng ông ta chẳng bao giờ nói về những trải nghiệm của mình và bỏ việc sau một năm. Có thể ông đã được trực tiếp trải qua trò chiến tranh rừng rậm mù mịt mà chúng tôi đã được học đến hồi ở trường, có âm thanh của những trận hỗn chiến trong đầu mình, và khi ông ta nhìn ra ngoài cửa sổ phòng mình ngắm màn diễu hành hoành tráng với những lá cờ tung bay trên cây cầu bắc ngang sông Chicago, ông ta đã nghĩ về những sự hy sinh cụ thể, những người có tên tuổi đã chết, và nói to những cái tên đó lên thành tiếng, và lòng cảm thấy biết ơn cái sự giản dị mà xa xỉ của việc được quay trở lại một chiếc ghế trong một tòa nhà thật an toàn. Cứ hình dung những câu chuyện mà có thể ông ta đã kể xem! Giữa những ngôi làng đang rừng rực cháy trong đêm đen kịt - ánh lửa loang loáng trên các lòng sông - những chiếc trực thăng hạ xuống cánh đồng lúa. Chúng tôi luôn tìm kiếm những câu chuyện hay ho hơn về những cuộc đời thú vị hơn diễn ra ở bất kỳ đâu chỉ trừ trong những trang catalogue văn phòng phẩm Office Depot. Nhưng ông ta không bao giờ nói về những trải nghiệm của mình, và hai tháng sau khi ông ta nghỉ việc, không ai còn nhớ nổi tên ông ta.

Một câu chuyện hay ho hơn chuyện của chúng tôi có thể là câu chuyện về hai đối thủ trong công việc, một nam, một nữ, tìm thấy tình yêu đích thực thông qua sự cạnh tranh ở chỗ làm, được viết ra chính bởi Don Blattner của chúng tôi. Blattner cứ gọi là cực Hollywood dù anh ta ở Schaumburg, Illinois. Anh ta còn có một kịch bản khác về một copywriter bất mãn và yếm thế phải chịu đựng sự nhạt nhẽo trong khung cảnh văn phòng trong khi mơ về việc trở thành một nhà viết kịch bản nổi tiếng, mà anh ta quả quyết không phải là tự truyện. Lúc nào anh ta cũng nói về những nhà đầu tư tiềm năng và nhất định không cho chúng tôi đọc bất kỳ kịch bản của anh ta trừ phi chúng tôi ký những thỏa thuận giữ bí mật, cứ như thể chúng tôi đã lén lút tự nhét mình vào những cuộc đời bị dồn vào chân tường này nhằm mục đích đánh cắp các kịch bản của Blattner tuồn cho Hollywood. Giống Jim, anh ta khiến chúng tôi phải nhăn mặt, đặc biệt là trong những lần anh ta gọi Robert De Niro là “Bobby”. Anh ta xem bảng đánh giá phòng vé cuối tuần rất kỹ càng. Nếu như một bộ phim không được như ngành công nghiệp phim ảnh kỳ vọng, sáng thứ Hai Blattner sẽ đến phòng làm việc của ta mang theo tờ Variety và nói, “Mấy cậu nhóc ở Miramax sẽ thất vọng kinh khủng vì chuyện này cho mà xem.” Thật đúng là trò nhảm nhí, ấy thế mà chúng tôi vẫn cảm thấy có gì đó mất mát vào cái ngày anh ta tuyên bố rằng anh ta sẽ bỏ cuộc. “Tớ phải đối mặt với nó thôi,” anh ta tuyên bố với giọng nhẫn nhục và ủ dột. “Mấy khóa hội thảo cũng chẳng ăn thua gì, mấy cuốn cẩm nang cũng chẳng ăn thua gì, và chẳng có ai ngó ngàng gì đến bất kỳ thứ linh tinh nào của tớ cả.” Chúng tôi rút lại tất cả những lời nhạo báng của mình và vật nài anh ta tiếp tục, nhưng anh ta vẫn khăng khăng kiên quyết trung thành với kết luận sáng mắt của mình, rằng anh ta sẽ không bao giờ là ai khác khác ngoài một copywriter. Phải mất nhiều tháng sau một trong chúng tôi mới trải nghiệm cảm giác nhẹ nhõm khi lại làm anh ta giật nẩy mình ở bàn làm việc khi anh ta lén lút tìm cách thoát ra khỏi phần mềm viết kịch bản của mình. Hy vọng lại trỗi dậy như một loài cây lưu niên.

Chắc hẳn phải có một câu chuyện hay ho hơn câu chuyện này, đó là lý do tại sao nhiều người trong chúng tôi mất ngần ấy thời gian chìm đắm trong những thế giới nhỏ bé của riêng mình. Don Blattner không phải là người duy nhất. Hank Neary, tay writer da đen của chúng tôi, người vẫn mặc chiếc áo vest nhung tăm màu nâu hết ngày này sang ngày khác, đến nỗi hoặc là anh ta không bao giờ giặt chiếc áo, hoặc là có cả một tủ đầy những chiếc áo giống hệt nhau, cũng đang bận bịu với một cuốn tiểu thuyết thất bại. Anh ta miêu tả nó là “nhỏ và giận dữ”. Chúng tôi băn khoăn làm quái gì có ai lại đi mua thứ nhỏ và giận dữ? Chúng tôi hỏi anh ta xem cuốn tiểu thuyết viết về cái gì. “Công việc,” anh ta trả lời. Một cuốn sách nhỏ, giận dữ về công việc. Giờ thì chắc chắn có một cuốn best-seller rồi nhé. Có thứ hay ho mà đọc trên bãi biển. Chúng tôi góp ý những chủ đề thay thế liên quan đến các lĩnh vực quan trọng đối với chúng tôi. “Nhưng chúng không khiến tôi quan tâm,” anh ta nói. “Việc chúng ta dành phần lớn đời mình cho công việc, điều đó mới khiến tôi quan tâm.” Đúng là cao cả nhỉ, chúng tôi bảo anh ta. Chẳng thà ngày nào trong tuần cũng ấn cho chúng tôi một kịch bản của Don Blattner còn hơn.

Dan Wisdom đã nhận được sự khích lệ ở trường đại học từ Miles Buford, tay họa sĩ đã tuyên bố rằng trong sự nghiệp giảng dạy hai mươi năm của mình chưa bao giờ thấy ai có tài năng như Dan. Sau đó Dan tốt nghiệp và đi làm, ngồi sau một chiếc máy tính Mac thao tác các điểm ảnh cho một khách hàng chuyên về sản phẩm thay thế đường và tự hỏi hay là lời tán tụng của giáo sư Buford chẳng qua cũng chỉ là một ý đồ để được lên giường. Mặc dù vậy, Dan tiếp tục vẽ, vào ban đêm và vào cuối tuần, và nếu như những bức chân dung anh ta vẽ có hơi kệch cỡm, dù sao chúng tôi vẫn có thể nhận thấy một góc nhìn độc đáo và một phong cách ổn định. Có thể thành công sẽ đến với anh ta. Anh ta bảo không. Anh ta nói kiểu chân dung trừu tượng đã chết rồi. Nhưng chúng tôi thích những gì anh ta có thể làm với cá.

Hãy giải thoát chúng tôi! Bạn có thể thực sự nghe thấy lời khẩn cầu đó từ sâu thẳm linh hồn chúng tôi, bởi vì không một ai trong chúng tôi muốn kết thúc cuộc đời như Brizz Già.

Trong số những người đầu tiên bị cho nghỉ việc, Brizz đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha dọc hành lang theo một cách vô tiền khoáng hậu. Điệp khúc giảm biên chế không bao giờ kết thúc, và để gọi lên cảm nhận về điều đó, kết cục của Brizz Già diễn ra tròn một năm trước khi Tom lên thớt. Brizz Già đối mặt với chuyện này khá khẩm hơn Tom nhiều. Lão ghé qua tất cả các phòng làm việc để nói lời chia tay. Bình thường thì mọi người vội vàng phi nhanh ra để trốn khỏi ánh mắt của chúng tôi. Brizz nói lão không muốn đi mà chưa nói lời tạm biệt. Đúng là trong lửa đạn vẫn sáng ngời phẩm cách. Lão không hề lấy làm phiền khi chúng tôi biết rằng họ không trân trọng lão như họ trân trọng chúng tôi. Bởi vì về cơ bản đó là những gì họ nói khi họ cho bạn đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha dọc hành lang. Lão không hề lấy làm phiền nói chuyện với chúng tôi ngay cả sau khi họ nói điều đó với lão bằng cơ man nào là lời lẽ. Hoặc có thể thậm chí lão còn không nghĩ về nó theo kiểu ấy. Có thể lão chẳng thể hiểu nổi những gì chúng tôi nói về giá trị. “Chuyện này chẳng liên quan gì,” có thể lão sẽ nói, “đến việc ai giá trị hơn ai. Đó là điều các cậu nghĩ ư? Các bạn ơi, hãy nhận lấy lời này từ một lão già đã làm trong cái nghề này lâu lắm rồi. Quá trình này chẳng liên quan gì đến việc nhổ bỏ những kẻ tồi tệ nhất trong chúng ta sao cho chỉ còn lại toàn những người tài năng và được việc. Thôi nào, đừng có tự lừa phỉnh mình như thế chứ. Ha ha, đừng có ngốc nghếch thế. Ha ha, đừng có ngây thơ thế!” Chúng tôi có thể nghe thấy những lá phổi sắp chết của lão đang cười nhạo chúng tôi. Việc lão đến chào chia tay chúng tôi, thật bình tĩnh, thật tự chủ - kể cũng hơi ớn. Chỉ vài phút sau khi đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha dọc hành lang mà lão vẫn đủ đàng hoàng đi khích lệ chúng tôi đừng lo lắng cho lão nghĩa là thế nào? Lão đến tận phòng làm việc của từng người, lão ghé qua các ô làm việc và cánh lễ tân. Thậm chí chúng tôi còn thấy lão nói chuyện với một trong những nhân viên của tòa nhà. Họ chẳng mấy khi mở miệng nói bất kỳ chuyện gì với bất kỳ ai, cánh nhân viên tòa nhà ấy. Chỉ đứng trên thang của họ chuyển lên chuyển xuống đồ vật cho nhau, rì rầm trò chuyện. Chẳng lúc nào có dịp gọi là để tìm hiểu họ. Ấy vậy mà Brizz Già đang đứng ở thang máy nói chuyện với một tay nhân viên tòa nhà nào đó suốt cả nửa tiếng đồng hồ trong khi vẫn ôm cái hộp đựng đồ cá nhân của lão. Một người nói, còn người kia gật đầu. Rồi họ cười phá lên. Ai mà biết bạn cười chuyện gì với một tay nhân viên tòa nhà. Vậy mà Brizz tìm ra nó - điều thú vị để chia sẻ, thậm chí trong cái ngày mà lão bị hót đi. Lão đệ đơn xin trợ cấp thất nghiệp ngay lập tức. Một vài tháng sau, lão vẫn chưa tìm được việc. Lão làm vài công việc tự do. Sau đó chúng tôi không nghe ngóng được tin tức gì của lão. Rồi tiếp theo chúng tôi được tin lão đang ở trong bệnh viện. Không có bảo hiểm. Lão yếu đi rất nhanh. Thật không may, chúng tôi đúng là không sai khi nói lão chỉ có sáu tháng nữa, ấy là cùng lắm. Chúng tôi đến thăm lão - có vẻ như ngoài hoa của