Chương 2
Ở quán cơm ra, nhìn đồng hồ, Tân đã thấy gần bẩy rưỡi. Chàng vội vã đi nhanh đến chỗ dạy học. Đó là một biệt thự xinh xắn nằm giữa một khu phố sang trọng. Ông chủ là một nhà thầu khoán có tiếng tăm. Bà chủ tuy ngoài năm mươi nhưng nom rất trẻ, điệu bộ quí phái, ăn nói khoan hòa và có một tầm hiểu biết khá rộng rãi.
Bà có hai người con cùng học trường công cả: Thành mới đỗ vào đệ thất và Thúy năm nay thi trung học. Phòng học của Thúy ở ngay trong cái vòm bán nguyệt xây ở đầu dẫy hành lang chạy chung quanh biệt thự. Chỗ đó thật thoáng, mát và xa hẳn căn phòng khách mà tối nào ba Thúy không phải đi xa cũng xoa mạt chược cho đến nửa khuya. Bốn bề trống trải. Gió mát từ vườn cây um tùm thổi qua những chiếc cột đá lớn. Những lúc Thành và Thúy làm bài, Tân thường ngồi trên bệ đá hút thuốc và nhìn xuống con đường sỏi nhỏ được soi sáng bằng những bóng đèn vàng úa. Bên cạnh Tân là một cây ngọc lan cao lớn, cành lá um tùm. Về đêm, hương ngọc lan theo gió bay vào khiến bầu không khí trong phòng học trở nên ngây ngất và dễ chịu. Tuy vậy Tân nhận thấy hương lan còn không ngây ngất bằng mùi nước hoa thoang thoảng bay từ mái tóc của Thúy phảng phất trên khắp bàn học. Dưới ánh sáng của ngọn đèn néon dìu dịu, nước da của Thúy như càng thêm mịn màng, cặp mắt của nàng như đen hơn và sâu thẳm. Những ngày tháng dạy học cạnh Thúy, Tân nhận thấy nàng có một thói quen rất đáng yêu là hay túm một lọn tóc mượt ngậm hờ hững ở vành môi.
Hồi mới tới, không bao giờ Tân nhìn Thúy. Bởi vì chàng biết Thúy đẹp. Chàng không muốn cái mặc cảm tự tôn của Thúy nảy nở thêm vì sự chú ý của mình. Vô hình chung, cả hai cùng giữ một thái độ khinh khỉnh với nhau, không hòa hợp chút nào. Tân làm hết bổn phận và ra về ngay khi Thúy và Thành gấp sách lại. Dầu sao thì chàng cũng đã có một thái độ dứt khoát: việc mình mình lo, còn ai sao mặc kệ! Vì thế Tân thấy công việc của mình rất dễ chịu. Chàng thỏa mãn với sự tự do, thoải mái của mình.
Có lần Thúy hỏi Tân một chữ khó, Tân đáp thản nhiên:
– Chữ này tôi không biết. Cô tra tự vị.
Thúy gặng lại:
– Anh không biết hay là anh cố tình nói không biết?
Lần đầu tiên Tân nhìn thẳng vào mắt Thúy để biểu lộ sự khó chịu của mình rồi trả lời sẵng:
– Không biết!
Thái độ của Tân làm Thúy bối rối. Nàng ngập ngừng giây lâu rồi nói:
– Anh đừng hiểu lầm là Thúy thử anh đâu. Chữ này Thúy không biết thật.
Sự nhũn nhặn của Thúy khiến Tân nguôi ngay cơn giận. Chàng thấy Thúy không dễ ghét lắm như mình đã tưởng. Tân sai Thành đi lấy cuốn tự vị để tra nghĩa cho Thúy ngay lúc đó. Cuối cùng Tân nói:
– Tôi nhiều khi mất chỗ dạy học cũng vì cái tính không ưa nói dối như thế đấy. Nhưng cũng có thể là tôi dốt thật nên người ta không dùng.
Thúy vội vàng nói:
– Không phải thế đâu. Ai mà dám tự hào cho mình là một cuốn tự điển sống. Thúy không ưa cái tính huênh hoang.
Sau lần ấy, Thúy trở nên cởi mở hơn. Trong giờ học, đôi lúc đã có tiếng Thúy cười trong trẻo. Buổi học trở nên bớt buồn tẻ và máy móc. Điều đó khiến Tân cũng thấy lòng nhẹ nhàng và thanh thản hơn. Chàng không mong gì hơn là tất cả đều làm tròn bổn phận trong bầu không khi thân hữu. Có lẽ Thúy cũng chỉ mong được như thế. Cả hai đều đã đứng lại ở vị trí thuận lợi nhất cho việc học cũng như giảng dạy. Và cả hai đều không muốn đi xa hơn.
Tối hôm ấy ba Thúy mới đi coi việc thầu ở Trung về nên kéo cả nhà đi ăn hiệu. Thúy lấy cớ mệt để được ở nhà. Buổi học chỉ còn có Tân và Thúy. Thúy nói:
– Bài ngày mai Thúy làm xong xuôi cả rồi không có gì phải nhờ anh giảng cả. Nhưng Thúy muốn nhờ anh một việc khác.
Tân ngạc nhiên hỏi:
– Việc gì vậy? Thúy nên nhớ, ngoài công việc ở trường ra, mọi thứ khác tôi đều rất vụng.
Thúy mỉm cười:
– Không ra ngoài việc ở trường đâu. Anh yên trí.
Tân đáp:
– Vậy Thúy nói đi.
Thúy ngập ngừng một giây rồi tiếp:
– Thúy mới được bầu làm trưởng ban văn nghệ lớp. Thúy phải phụ trách trông nom một tờ bích báo. Anh “gà” Thúy nhé.
Tân nhún vai:
– Việc gì chứ việc ấy lại càng ngoài phạm vi hiểu biết của tôi.
Thúy ngồi thẳng dậy:
– Lần đầu tiên anh nói dối Thúy nhé!
Tân bối rối:
– Đâu có. Tôi dốt về mặt văn nghệ thật mà.
Thúy không đáp, lẳng lặng rút ở trong cặp da ra một tờ tạp chí. Nàng lật vài trang rồi chỉ lên một bài và nói:
– Truyện này có phải của anh không? Tên anh rõ ràng đây mà.
Tân cầm tờ báo lên coi rồi mỉm cười:
– Nếu cô không nói thì tôi cũng không biết người ta đã đăng bài của tôi. Nhưng thật là đáng tiếc.
Thúy hỏi:
– Sao lại tiếc?
– Hồi mới gửi đi, tôi mong mỏi được thấy nó ra mắt thì nó vẫn biệt tăm. Đến lúc mình thấy rõ cái non kém của bài thì nó lại lù lù xuất hiện. Thế chẳng phải là đáng tiếc hay sao?
Thúy nhìn Tân như dò xét. Một lát nàng nói:
– Thúy đọc kỹ rồi. Thúy không thấy nó hỏng ở chỗ nào cả.
Tân nhún vai:
– Cái nhìn cuộc đời của tôi bây giờ khác với cái nhìn hồi ấy.
Thúy reo lên:
– Vậy thì càng đáng mừng chứ sao. Bằng lòng với chính mình mới là dấu hiệu của sự đi xuống.
Tân hơi giật mình vì lời nhận xét ấy của Thúy. Nhưng chàng cũng cố giữ thản nhiên và đáp:
– Nhưng khổ một nỗi là tôi lại chẳng tiến bộ gì hơn ngoài cái sự thấy cần phải phủ nhận những dòng chữ mà mình đã viết ra.
Thúy nói:
– Nhưng tất nhiên anh phải biết là anh muốn gì chứ?
Tân đáp:
– Đó chính là điều tôi đã băn khoăn tìm kiếm trong tất cả cuộc sống riêng tư của tôi. Tôi vẫn luôn luôn tự tra vấn mình: Tôi đang là cái gì đây? Tại sao tôi lại cầm bút viết mà lại không cầm cái búa, cái kìm? Mà rồi tôi viết thì đã viết cái gì? để làm gì? cho ai? Cứ loay hoay như vậy mà chẳng bao giờ tôi tìm thấy được câu giải đáp nào khả dĩ chấp nhận được. Cứ y như là mình tự diễn tuồng cho chính mình coi mà lại muốn thu vé vào cửa của thiên hạ nữa kìa, thật là mâu thuẫn quá phải không?
Tân bắt gặp ánh mắt tinh nghịch của Thuý sau câu ví von của chàng vừa rồi. Ngừng lại một giây, chàng tiếp:
– Bởi vì cuộc sống biến chuyển nhanh chóng quá, tàn nhẫn quá. Nó đi trước cả sự tưởng tượng của chính mình. Cũng vì thế mà ý nghĩ của tôi luôn luôn bị lay chuyển, đổi thay soành soạch và đôi khi nó sụp đổ ngay từ lúc mới chỉ nẩy ra trong đầu. Dần dần tôi cảm thấy mình như bị tê liệt và rơi vào trạng thái lười biếng, mà sự lười biếng thì có nhiều cám dỗ dễ chịu. Không khéo đến chìm đắm ở đó mất!
Thúy mỉm cười:
– Con trai mà lười biếng thì không nên. Hơn nữa Thúy tin chắc anh chẳng đến nỗi nào để xẩy ra tình trạng như thế được. Chỉ có một điều anh nên lưu ý là hãy coi chừng kẻo dẫm vào vết chân những người hoặc chỉ ưa lý luận, hoặc bi quan hóa cuộc đời. Thúy thấy sự sống thật ra rất giản dị. Người ta thường khổ sở về vấn đề sinh kế, vật chất hơn là vì những thắc mắc triết lý cao xa. Nhất là ở những xứ đang có chiến tranh như xứ mình.
Tân ngước lên nhìn Thúy. Chàng lại ngạc nhiên về những điều Thúy vừa nói. Ít nhất Tân cũng đã thấy đầu óc Thúy không phải chỉ hoàn toàn chứa đựng những suy nghĩ nhỏ hẹp tầm thường của một thiếu nữ vốn chỉ quen sống trong sung sướng, đầy đủ. Điều này khiến cho Tân cảm thấy như vừa phát hiện ở Thúy một cái gì mới mẻ hơn, ngoài sắc đẹp và bản tinh hồn nhiên của nàng. Một lát, Tân nói:
– Tôi chẳng đi tìm cái gì cao xa cả, mà ngược lại chỉ thấy mình lúng túng trong những điều thấp kém và đơn sơ nhất. Ví dụ như những dòng chữ của tôi viết ra kia sẽ có ý nghĩa gì, khi mọi người quanh tôi đã sống một cuộc sống khác hẳn, hầu như họ đang nghĩ khác, sống khác, ưu tư, hành động vì những động cơ khác. Vậy thì những cái mà tôi bỏ công, bỏ thì giờ ra để băn khoăn, để thao thức, để cặm cụi dưới ánh đèn khuya một mình, như thế thì thật có đáng tức cười không?
Thúy kêu lên:
– Vậy có khó gì. Anh sẽ phải hòa mình với họ, chia sẻ những nguồn vui nỗi buồn của chính họ để hiểu họ hơn. Như thế, anh sẽ có thể viết đúng hơn, hay hơn.
– Cho là thế đi, nhưng rồi thì ta có thay đổi được gì không? Cuộc sống bây giờ đâu còn có mấy ai bận lòng đến cái nội tâm của mỗi người. Người ta hối hả, thúc bách, xô đẩy lẫn nhau vào một guồng máy khổng lồ, ở đấy không còn một ai thấy muốn băn khoăn hay tìm tòi về những cái gọi là giá trị tinh thần vốn thường chứa đựng ở trong tác phẩm. Như thế thì văn chương ở thời buổi bây giờ chỉ là chuyện phù phiếm, và những anh cầm bút ở vào thuở bây giờ chỉ là một lũ tào lao, vô tích sự.
Thúy buông một tiếng thở dài:
– Nếu đời sống mà đến như thế thì vấn đề trở nên khó thật.
Tân tiếp:
– Đúng như vậy đó. Đã không nghĩ thì thôi, chứ cứ lao vào để lao tâm khổ tứ thì lúc nào cũng thấy mình trở nên bế tắc. Cho nên tốt hơn là cứ trở về với cái đạo lười giản dị, ít ra thì mình cũng được chết chìm trong sự nhàn nhã, yên ổn.
Thúy gập tờ báo lại, cuộn trong lòng bàn tay rồi chép miệng:
– Thế là anh đã làm Thúy cụt hứng. Lúc đọc truyện của anh, Thúy thấy mình phấn khởi biết bao nhiêu.
Tân đáp:
– Ôi, chả quí báu gì cái lề lối suy luận theo cách của tôi đâu. Tốt hơn hết là Thúy coi như không có câu chuyện hôm nay xảy ra. Cuộc sống của Thúy khác xa cuộc sống của tôi. Bởi vì Thúy có thừa đủ điều kiện đề không phải lo nghĩ gì cả.
Thúy sầm mặt lại:
– Anh nói như thế là anh khinh Thúy rồi đấy. Anh tưởng chỉ có anh là biết suy nghĩ thôi sao?
– Không phải thế. Nhưng Thúy đã may mắn hơn tôi ở chỗ là Thúy đã không phải đi qua những chặng đường mà tôi đã từng trải.
– Vậy anh kể cho Thúy nghe những chặng đường từng trải ấy của anh đi.
Tân mỉm cười:
– Ôi! Hay ho gì những điều khốn khổ. Tốt hết là hãy để cho nó trôi qua, như những cọng rác lướt qua chân cầu.
Thúy phụng phịu:
– Nhưng mà Thúy lại thích nghe câu chuyện của anh. Bởi vì Thúy thường thắc mắc về anh. Anh sống như thế nào, làm gì, ở đâu tới? Chưa bao giờ Thúy tìm hiểu được gì qua cái lốt đạo mạo thầy giáo của anh. Ít nhất thì cũng phải có một lần anh cần một người bạn để tâm sự chứ?
– Tất nhiên là ai chẳng cần phải có bạn bè để tâm sự. Nhưng thật ra tôi… tôi cũng chẳng có cái tâm sự gì buồn thương để phải san sẻ với ai cả. Tôi chỉ biết rõ một điều là hình như tôi đang mò mẫm trong một khoảng vừa trống rỗng vừa tối tăm và tôi chưa biết sẽ phải làm gì để thoát ra cả. Mà cũng có thể tôi còn muốn vùi mình ở đó lâu nữa. Biết đâu nhờ thế mà mình già dặn hơn lên được chút đỉnh.
– Nhưng qua cái phong thái của anh, Thúy nghĩ rằng trước đây chắc anh cũng đã từng có đời sống thoải mái như Thúy chứ.
– Có đấy, nhưng không lâu. Tôi là con một, mồ côi cha từ năm lên mười, ngay cái đêm đầu tiên nổ súng ở Hà Nội tháng 12 năm 1946. Mẹ tôi còn trẻ. Bà tái giá với một bác sĩ quân y ở ngoài vùng kháng chiến. Rồi kháng chiến thành công, tiến về thành phố. Họ ở lại cả ngoài ấy có thể vì lý do chính trị nhưng cũng vì những tấm huy chương của ông ta còn đầy vẻ hào nhoáng. Bây giờ, giả thử nếu họ có nghĩ lại để tìm ra được một lối đi đúng hơn thì cũng đã muộn rồi.
– Thế còn anh?
– Tôi thì khác. Càng lớn lên, tôi càng cảm thấy thừa thãi cái gia đình đông con của mẹ tôi. Cho nên phong trào di cư từ Bắc vào Nam đối với tôi là cả một cơ hội ngàn năm một thuở để tôi thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt của gia đình.Tôi đặt chân lên đất Sài Gòn này với hai bàn tay trắng. Tôi đã trốn nhà ra đi. Bây giờ tôi cảm thấy vô cùng ân hận rằng tôi đã không chào mẹ tôi lấy một tiếng trước khi bám vào chiếc xe vận tải để xuống Hải Phòng xuôi Nam. Tuy nhiên tôi tin chắc là bà đã không hề giận tôi, vì ít ra bà cũng tin tưởng rằng ở bên này, tôi sẽ có cuộc sống sung sướng hơn là ở lại. Lòng mẹ bao giờ cũng bao la như biển Thái Bình.
Ngừng một lát, Tân nói:
– Cô cho tôi hút thuốc lá nhé.
Thúy tự tay móc ở túi áo trên của Tân lấy ra một điếu thuốc đưa lên miệng và châm lửa. Đoạn nàng đặt điếu thuốc lên môi Tân. Một luồng khói xanh tỏa ra ở quanh vành môi hồng ửng mầu hoa đào. Cử chỉ ấy làm Tân bối rối. Chàng nhìn lảng ra ngoài sân đầy gió mát và nói tiếp:
– Hồi mới vào, tôi phải ở nhờ nhà một người không quen biết do một anh bạn giới thiệu. Chỉ lấy chỗ ngủ thôi.
– Thế còn ăn?
– Có bữa no, bữa đói kể làm gì. Kỷ niệm mà tôi ghi nhớ sâu xa nhất là một khúc bánh mì khô cứng. Hồi ấy tôi còn đầy tính chất e lệ của một cậu học trò công tử. Mua được khúc bánh mì mà không tìm được chỗ vắng để ngồi ăn. Tôi đã đi lang thang khắp các vườn hoa, các góc phố. Nhưng cô biết đấy, ở Sài Gòn này, chỗ nào mà chẳng có người.
Thúy bật cười:
– Rồi thì anh làm sao với khúc bánh mì ấy?
– Tôi đã đem nó về nhà trọ. Ở đây người ta đang ăn bữa cơm chiều. Họ có mời, nhưng tôi nói là đã ăn no. Kỳ thực từ sáng, tôi chưa có gì vào bụng. Ghê gớm thay cái lịch sự xã giao hay cái sĩ diện phiền toái của con người. Cho đến đêm khuya, khi tắt đèn vào ghế bố nằm ngủ tôi mới moi nó từ trong túi ra, khúc bánh mì bấy giờ đã khô cứng như một cục đá. Tôi đã gậm nhấm nó trong cơn buồn tủi đầm đìa nước mắt.
Đôi mắt đẹp của Thúy chớp chớp cho thấy nàng đang trải qua một cơn xúc động. Ngừng một lát, Tân mỉm cười:
– Ngồi nhắc lại, tôi mới thấy lúc đó mình thật là trẻ con. Còn bánh mì mà ăn tức là còn sung sướng chán rồi. Về sau này, khi sống chui rúc trong những ngõ hẻm chật chội, những khu nhà ổ chuột chen chúc nhau trên những kinh nước đen sì, rẻo quánh tôi mới thấy sự đau khổ trên cuộc đời còn ghê gớm gấp trăm, gấp nghìn lần.
Thúy hỏi:
– Anh có thể kể cho Thúy nghe một vài trường hợp được không?
Tân trầm ngâm một lát rồi lắc đầu:
– Nỗi khổ của họ không phải chỉ nghe mà thông cảm hết được. Giữa Thúy và họ có một bức rào ngăn cách. Không bao giờ Thúy có thể đặt chân tới lãnh vực tình cảm của họ được đâu. Mà có lợi gì đâu khi Thúy ban cho họ một tiếng thở dài…
– Vậy anh cho Thúy là một kẻ ích kỷ lắm sao? Thúy không có quyền làm gì đối với những kẻ không cùng chung hoàn cảnh với mình hay sao?
– Làm gì? Thúy có thể làm được gì? Nếu trả lời được câu hỏi ấy thì tôi đã giải đáp được nỗi băn khoăn ám ảnh trong đầu tôi từ bao nhiêu lâu rồi.
– Anh nói làm Thúy sợ! Thúy thấy đoảng cho cái đầu óc rỗng tuếch của mình quá.
Tân lắc đầu:
– Có lẽ tôi gàn thì đúng hơn, Thúy ạ. Tại tôi hay suy luận vẩn vơ. Thật ra sự khổ cực hầu hết chỉ đứng lại ở chỗ vật chất, nhưng tôi đã dìm xuống tới mức sâu vô hạn của lãnh vực tinh thần. Mà đời sống tinh thần nông cạn hay sâu sắc lại tùy ở mỗi người, chứ nếu ai cũng cứ hơi một tí là suy nghĩ lung tung thì làm sao họ có thể sống sót trong cuộc đời đầy rẫy bể khổ này cho được. Vì thế, với cùng một sự kiện mà người ta có nhiều lề lối suy nghĩ khác nhau, đánh giá khác nhau và cho một kết luận khác nhau.
Ngưng một lát rồi Tân lảng qua một đề tài khác vì chàng thấy rõ càng lún sâu vào thì chỉ càng thêm mệt óc. Tân nói:
– Thí dụ như trông thấy đốm đỏ của điếu thuốc lá này. Thúy thử nói xem Thúy nghĩ gì về nó.
Thúy tinh nghịch nhìn Tân. Nàng có vẻ thích thú với cái trò chơi mà Tân vừa bầy ra cho mình. Mắt làm ra vẻ chăm chú nhìn điếu thuốc đang cháy dở, Thúy ngẫm nghĩ rồi nói:
– Xem nào! Thúy nghĩ đến… Ồ! Nói ra thì thật là kỳ cục.
Tân nói:
– Thì Thúy cứ thử nói coi. Để xem sự suy nghĩ và trí tưởng tượng của Thúy đi đến đâu.
Thúy nhớp mắt liền mấy cái rồi nói:
– Chịu! Thúy không thể thấy gì ngoài cái hình ảnh quen thuộc của anh ngồi hút thuốc ở bờ tường kia, mắt hay nhìn lên những chùm hoa lan đang nở rộ.
– Sao nữa?
Thúy tủm tỉm:
– À, rồi… rồi ở trên cao, bầu trời xanh thẳm, có nhưng vì sao lấp lánh.
– Sao nữa?
– Những vì sao thật là đẹp. Thúy thường tưởng tượng đấy là những nhân vật có linh hồn, những nàng Công chúa thuộc về một thế giới khác.
– Sao nữa?
Thúy kêu lên:
– Anh vặn Thúy hoài làm sao nghĩ kịp được. Thôi Thúy chẳng nói nữa. Tắc tị mất rồi.
Tân mỉm cười nhìn Thúy không nói. Chàng thấy Thúy lúc ra vẻ trách móc hay nũng nịu càng trở nên đẹp bội phần. Nhất là đôi mắt của Thúy, Tân tự nhủ, đôi mắt đẹp hơn bất cứ vì sao nào mà nàng vừa nói đến. Thấy Tân yên lặng, Thúy hỏi:
– Sao? Anh thấy Thúy diễn tả trí tưởng tượng của mình thế nào?
Tân đáp:
– Thúy là một người hoàn toàn sung sướng.
– Thế còn anh?
– Tôi thì khác hẳn. Không bao giờ tôi có thể tưởng tượng ra được một cái cảnh nào trong sáng như thế được.
– Vậy anh nghĩ gì, anh nói cho Thúy nghe với.
– Nghĩ cái gì nhỉ?
– Về một điếu thuốc lá đang cháy giở.
– À! Để xem nào. Tôi nghĩ đến một nửa điếu thuốc búng từ tay một đám ba bốn thanh niên trạc tuổi tôi. Điếu thuốc văng xuống gần miệng cống đen thui trong một ngõ hẻm nào đó vào buổi trưa nắng gắt. Rồi một toán trẻ con ùa ra. Có đứa chạy lại nhanh nhẩu vồ lấy điếu thuốc. Có đứa bám lấy tay lái những chiếc xe đạp của mấy thanh niên để xin giữ lấy tiền công trong giây lát. Rồi lại còn có đứa xin… xin dẫn đường. Chúng nó sẽ níu kéo mỗi người một ngả y như cái cảnh người ta níu kéo khách ngoài bến xe đò.
Mắt Thúy mở tròn ra:
– Níu kéo đi đâu? Mà đấy là ở đâu?
– Đấy là biết bao xóm ổ chuột ở rải rác trên khắp các ngoại ô thành phố. Cuộc sống càng khó khăn, những khu vực tương tự càng trở nên bành trướng. Với vẻ bề ngoài lương thiện của một xóm nghèo có tiếng võng đưa, tiếng trẻ con khóc, tiếng ru ời ợi, nhưng mà bên trong, người ta bán son phấn công khai, thản nhiên, còn dễ hơn đi mua một hộp sữa bò.
Thấy Thúy không nói, Tân tiếp:
– Nhưng điều bi thảm không hẳn chỉ là ở sự bán phấn mua hương. Bởi vì hiện tượng này ở xứ nào mà không có, nhất là tại nơi có chiến tranh liên miên như xứ mình. Mà cái điều phải cho là đáng buồn nhất chính là tương lai của lũ trẻ. Chúng nó đã lớn lên giữa một môi trường nhầy nhụa, hằng ngày chúng nó phải mắt thấy tai nghe biết bao điều nhơ nhuốc. Dưới cái nhìn của lũ trẻ thơ, đối với chúng nó cuộc đời dĩ nhiên là như thế và chỉ có thế mà thôi. Đấy là một bi kịch xã hội, bởi vì khi chúng lớn lên, đương nhiên chúng sẽ trở thành một giai cấp riêng biệt: lưu manh, trộm cướp, thậm chí cả giết người. Mà đâu phải lỗi lầm ở chúng nó. Cuộc đời đã dậy dỗ chúng ngay từ lúc còn bé kia rồi!
Thúy rùng mình:
– Thúy không thể tài nào nghĩ ra được một điều gì về sự ấy, không thể tưởng tượng được một hình ảnh nào trong cái xã hội ấy. Nó đã ra ngoài tất cả những điều hiểu biết của Thúy.
Tân mỉm cười:
– Cho là Thúy có nghĩ đến, có được chứng kiến tại chỗ những hoàn cảnh tang thương ấy, nhưng rồi Thúy rủ một đôi chút lòng thương xót đến lũ trẻ bất hạnh này thì cũng chẳng thay đổi được gì. Cuộc sống của Thúy vẫn đầy đủ tại đây và chúng nó thì vẫn cứ phải tranh giành sự sống trong cái chốn bùn nhơ đó. Cho nên tôi quan niệm rằng những thứ nhỏ nhoi như chúng mình không thể làm thay đổi được gì bộ mặt của cái xã hội này đâu.
Trầm ngâm một lát Tân tiếp:
– Mà cũng chẳng quí báu gì cái bản tính hay suy nghĩ của tôi cả. Nó chất chứa nhiều điều tối tăm, u ám, nhiều hình ảnh khổ sở khó quên, nhiều câu hỏi không có lời giải đáp. Vậy tốt hơn hết là hãy luyện cho mình cái sự hồn nhiên của một người không biết và cũng chả cần biết như lớp người của Thúy vậy. Bởi vì giữa sự biết và sự không biết, cả hai cũng chẳng ai làm gì được hơn ai cả.
Thúy thở dài:
– Bây giờ trở lại câu chuyện cũ. Có lẽ ngày mai Thúy từ chức trưởng ban văn nghệ ở trường.
Tân ngạc nhiên:
– Tại sao vậy?
– Bởi vì nghe anh nói, Thúy thấy chán hết mọi sự. Ra một tờ bích báo thì cũng có nghĩa gì đâu.
Tân kêu lên:
– Ô! Tôi lại nghĩ rằng còn trái lại nữa là khác. Thúy hãy nhớ rằng tất cả những gì mình làm ở học đường đều chỉ là để sửa soạn. Hãy biết giới hạn sự suy luận của mình trong mức ấy đừng đi ra ngoài, nó sẽ không có lợi gì cho Thúy mà cũng mất cả ý nghĩa cao đẹp của danh từ học đường. Thúy hãy cố gắng để cho tờ báo ra mắt được dồi dào, linh động. Nó sẽ chứng tỏ là Thúy đã hoàn tất nhiệm vụ của mình trong thế giới học đường. Đi học mà không hoàn tất nhiệm vụ của học trò thì Thúy cắp sách đến trường để làm gì??
Thúy bật lên cười:
– Quái nhỉ, anh có cái tài nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng êm tai. Anh xoay trở ý thích của Thúy như xoay một cái chong chóng. Nếu thế thì Thúy lại thấy có hứng làm báo rồi!
Tân vui vẻ:
– Vậy thì Thúy đem giấy bút ra đây. Chúng mình sẽ cùng góp ý cho tờ báo.
Thúy vui mừng xô ghế đứng dậy. Nàng nhẩy chân sáo vào phòng khuân ra đủ các dụng cụ giấy, bút, thuốc vẽ và tranh ảnh mầu. Tối hôm ấy Tân ở lại làm việc với Thúy mãi đến gần mười một giờ khuya mới trở về.