← Quay lại trang sách

Chương 2

Thời kỳ hòa bình vẫn còn kéo dài.

Người ta đang bước vào tháng tám, tuần trăng trong năm, mùa nước dâng cao và những vụ gặt đầu tiên đã chấm dứt. Dân chúng, dưới lời hiệu triệu của các quan chức hộ đê đã quá mệt nhọc từ ba tháng nay, vì phải ngăn nước sông tràn bờ, nay cũng muốn được nghỉ ngơi. Người ta đã đẩy lùi các nguy hiểm của thiên tai. Ở kinh đô cũng như trong các làng mạc, mọi người đều chuẩn bị đón Tết Trung thu.

Sáng hôm ấy, khi ngồi trong cái cáng chỉ có hai gia nhân theo hầu, một người mang ấn quan và nghiên bút trong một cái tráp bạc còn người kia mang theo khay trầu và bình thuốc, Hoàng thân Trần Nguyên Đán chẳng muốn gặp bất kỳ ai. Dĩ nhiên, viễn cảnh gặp lại Hoàng thân Lê Quý Ly có dự phần trong thái độ ấy của ông ta. Những thủ đoạn và vẻ nhã nhặn nham hiểm của Hoàng thân Lê Quý Ly càng ngày càng làm cho ông không chịu nổi. Thêm vào đó là những mối lo âu về chuyện gia đình, không kể đến các cuộc cãi cọ không thể dàn xếp nổi giữa bảy bà vợ, ông bận tâm nhiều nhất đến cô gái thứ ba của ông, tiểu thư Thái. Nhìn cái vẻ uể oải của cô, chưa bao giờ cô xứng đáng với cái biệt danh "Kiều Mai" đến thế! Dù ngày Tết Trung thu đang đến gần, mà thông thường là dịp để nàng đem nhiệt tình và sức lực để giúp các em trai, em gái treo đèn, kết hoa, làm những con thiềm thừ18 hay những tượng tiến sĩ bằng đất, bởi vì đó và ngày lễ chính của thiếu nhi, thế nhưng nay nàng cứ ở miết trong phòng. "Xin lỗi cha, con bị mệt", nàng nói với cha, nàng có vẻ muốn lánh mặt ông.

Trong khi chiếc cáng đi về hướng Điện Thiên An, Hoàng thân tự hỏi có phải con gái yêu quý nhất của ông chủ đang bất bình về tình thân hữu ngày càng lớn mà ông dành cho gia sư Phi Khanh, mặc dù người gia sư này trong thời gian gần đây không được thoải mái như ông muốn. Một ý nghĩ khác sắp sửa lóe lên trong đầu óc, thì cáng dừng lại trước dinh, đúng lúc quan Tổng trấn kinh đô và đoàn tùy tùng cũng vừa đến nơi. Đó là một người gầy gò và nhã nhặn mà Hoàng thân rất quý mến, dân chúng đất Thăng Long cũng thế và ở chỗ riêng tư, họ gọi ông là ông Dương, ông quan Đức độ. Ở chức vụ cao cấp ấy, triều đình đòi mọi ứng viên phải đi qua những nấc thang khác nhau trong việc cai trị các quận, huyện và trấn phủ trước khi bước vào các kỳ tuyển hạch khác nhau, do đó không hiếm khi gặp được những người có tài cao đức trọng. Cuộc gặp gỡ này làm cho Hoàng thân dễ chịu và ông tự mình tiến tới kính chào vị Tổng trấn trước.

Khi leo lên những bậc thang của dinh phủ, họ vui vẻ trò chuyện về việc chuẩn bị cho cuộc lễ, cho hội Đèn Quang Chiêu ở Cửa Đông kéo dài bảy ngày và bảy đêm. Một quan biên trấn trẻ tuổi trong đoàn tùy tùng quan Tổng trấn còn đoán chắc rằng năm nay điện Quang Chiêu còn trang hoàng thêm những tượng nhỏ nặn hình các ông sư biết cúi đầu theo tiếng sáo để chào Đức Vua.

- Người ta đã không nói đến việc dẹp bỏ cái ngữ ấy đi hay sao? - Hoàng thân ngạc nhiên hỏi.

- Điều đó sẽ làm cho một số người thích thú đấy! - Quan tổng trấn nói và họ trao đổi với nhau một nụ cười đồng lõa.

Khi vượt qua hai hàng rào tua tủa những cây kích, họ im lặng, thay đổi nét mặt và cúi rạp người xuống như thể không có đủ chỗ. Cùng lúc, họ nâng tà áo bên và nín thở, bước lên nơi ngự giá.

Đương kim Hoàng thượng tiếp các quan lại ở đó, trong các cuộc bệ kiến trọng thể. Một số lớn các quan chức đeo trên ngực phẩm trật khắc trên một thẻ ngà và tay cầm hốt. Họ đang chờ quân vương đến, xếp hàng dưới bệ rồng, quan võ bên tả và quan văn bên hữu.

Sau ba hồi chiêng, bức màn gấm đỏ thêu rồng phụng căng sau long sàng kéo lên. Đức Vua trị vì bước vào giữa tiếng tung hô "Vạn tuế!" của các quan có mặt, bái tay chắp trên trán, quỳ lạy.

Đó chỉ là nghi lễ quy định cho các cuộc bệ kiến và cho tới khi mọi cái đầu ngẩng lên lại, không có gì cho phép nghĩ rằng cuộc bệ kiến này có gì khác với các cuộc chầu lần trước.

Nhưng lần này lại có một điều khác biệt.

Các quan trong lễ phục đang đứng dậy trước bệ rồng như hướng về mặt trời đã nhận rõ ra điều ấy khi họ trông thấy ngồi bên tả bệ rồng, trên một cái chiếu thấp hơn một chút, là Hoàng thân Lê Quý Ly, người đứng đầu Cơ mật viện.

Các quan trao nhau cái nhìn lén lút, kẻ thì đầy nghi vấn, kẻ thì thỏa mãn dè dặt, kẻ khác nữa thì căm tức hoặc bực bội nhưng được cùng che giấu bởi những ông quan vốn khôn khéo không để cho người ta đoán biết được về mình. Trong một khắc, một làn sóng ngầm đã đi qua cử tọa. Ngoại trừ một vài tri huyện vừa mới đến, đưa đôi mắt ngây thơ chăm chú nhìn cái cảnh tượng một ông Vua trẻ, hiền lành, mập mạp, môi son, mặc hoàng bào, đầu đội mũ tròn, bên trên chồng một mảnh vuông nằm ngang, trước sau là những hạt ngọc tròn và những viên đá quý treo ở đầu giải tua bằng lụa, mỗi viên đáng giá một cơ nghiệp lớn.

Hoàng thân Trần Nguyên Đán suy sụp tinh thần, vụng về che giấu nỗi bực tức dưới cái vẻ mặt bề ngoài bất động.

Và đây, ông nghĩ, chính là những con đường quanh co của ân huệ. Mặc dù ông khinh bỉ một con người dùng tài năng của mình chỉ để phục vụ cho tham vọng riêng mình thay vì phục vụ cho nhân dân, ông cũng phải thán phục Lê Quý Ly là một diễn viên khéo léo. Vả lại, Lê Quý Ly chẳng phải là một tay mê chèo hạng nhất sao? Với một vẻ từ tốn dường như là khổ nhục, ông ta ngồi cách vị vua vài bước, làm ra vẻ khám phá từ miệng vua những lời nói mà chính ông ta đã mớm vào. Hoàng thân Trần Nguyên Đán đã từ lâu biết rằng: vai trò của Đức Vua trị vì bị giới hạn vào chỉ có một việc xác nhận, bằng cái hình thức đóng ấn tín nhà vua, cho mỗi hành động của người đứng đầu Cơ mật viện. Hoàng thân Đán biết rõ điều ấy vì ông là người trung thành với Thái thượng hoàng ở cái thuở xa xôi ấy, cái thời mà ông còn chiến đấu bên cạnh ngài chống lại kẻ cướp ngôi Nhật Lễ. Thế là nay không ai có thể không biết đến uy tín lớn lao của con người kia, thân thích và cố vấn ấy của Nhà Vua.19

Nhà Vua trẻ tuổi Trần Phế Đế từ trên ngai vàng cao chạm rồng chỉ diễn tả ý chỉ của Hoàng thân Lê Quý Ly và truyền xuống cho các bề tôi là các quan các cấp. Vậy mà đó là Hoàng đế nước Nam trị vì trên giang sơn nhờ hồng ân của Thiên Thư, Cha và Mẹ của dân (nhưng cũng là người cháu họ có lòng hiếu kính đối với Thái thượng hoàng):

- Trẫm - nhà vua nói - đã xuống chiếu để triệu tập các khanh, những quan chức có trách nhiệm để nghe các khanh báo cáo về các phủ huyện của Trẫm, để những báo cáo này không bị các phái viên, quá sốt sắng làm vui lòng Trẫm, làm xuyên tạc đi. Vì vậy, Trẫm ra lệnh cho các khanh bày tỏ lòng mình ra, hãy nhớ đến lời thề trung thành của các khanh đối với Trẫm mà nói ra đừng sợ hãi. Tất cả những gì các khanh nói ra ở đây vì lợi ích của thần dân sẽ được ghi nhận. Trẫm chờ đợi và hy vọng được nghe những lời thẳng thắn!

Nói xong, Đức Vua trị vì giơ bàn tay lên.

Các quan tuần phủ và tổng đốc đọc một vài bản báo cáo nhưng thật ra chỉ là những lời khẳng định nhạt nhẽo về sự tận tâm hơn là những lời phúc trình rõ ràng. Sau cùng đến lượt một quan tri huyện trẻ tuổi tên Từ Thức, cai trị huyện Tiên Du. Ông này tiến lên và sau khi quỳ trên chiếu để lạy vua, không dám cất lời. Đợi nhà vua phác một cử chỉ nhân từ, ông mới tâu lên:

- Hiện nay - ông nói - ân trạch của Đức Vua không được rải khắp muôn dân. Đất nước chưa hoàn toàn hưởng cảnh thái bình. Ở phương Nam, Chế Bồng Nga sủa cắn như chó dại. Ở phương Bắc, đế quốc Trung Hoa gầm gừ như hổ đói. Chiến tranh liên miên không dừng. Việc sưu dịch, tuyển quân, thuế khóa và nhất là khoản thuế thân ba quan tiền giáng xuống những tráng đinh có tên trong sổ bộ, trong khi trước đây chỉ những ai có ruộng đất mới phải chịu thuế đó, tất cả những điều ấy đè nặng trên người dân. Ngày xưa Đức Vua Thái Tông đã cấm việc mua các nông dân nghèo khổ làm nô lệ nhằm mục đích nâng đỡ nền nông nghiệp và hỗ trợ việc thu thuế cũng như việc tuyển binh. Ai mà vi phạm lệnh này đều bị thích dấu vào mặt hai mươi lần và bị đánh một trăm trượng. Ngày nay các điền trang lớn ngày càng gia tăng không kể xiết, nông dân phải đem bán đất, và vợ con, trốn khỏi làng để khỏi phải đóng thuế và bắt đi lính, họ vào các điền trang, phục dịch cho các địa chủ lớn và đương nhiên trở thành nô lệ. Do đó, tại các phủ huyện, những cuộc nổi dậy của nông nô và nông dân nổ ra liên tiếp. Vì thế, cần phải giới hạn diện tích những điền trang lớn và phân chia lại ruộng đất theo chế độ công điền công thổ truyền thống lâu đời. Khi việc cày cấy, gieo trồng được ổn định, khi cơm ăn áo mặc được bảo đảm, lúc đó đất nước được thịnh vượng và nhân dân sẽ hết lòng tận tụy vì Đức Vua. Kinh Thi có nói rằng Mệnh Trời khó mà giữ được, sách Đại Học cũng dạy rằng đấng quân vương phải lấy hành động của mình làm khuôn phép, mẫu mực!

Nói xong, Từ Thức quỳ lạy, mắt rớm lệ vì sợ hãi.

Bá quan không tin vào lỗ tai mình, và không ai dám có những lời như thế và mọi người đều sững sờ.

Đức Vua trị vì đứng dậy, Hoàng thân Lê Quý Ly cũng đứng dậy theo. Ngay cả ông Loan, thái giám tinh tế nhất có tài dự đoán, người được ngủ ngay trong phòng vua ngự, có lẽ cũng lúng túng, không biết được Đức Vua ngạc nhiên hay tức giận vì bất thần mặt rồng biến sắc. Quan Toản tu Quốc sử quán, mải mê ghi lại những hành động và lời nói của buổi chầu, run rẩy đặt bút xuống.

Buổi chầu chấm dứt, Đức Vua lui vào. Mọi người sau đó ra về, không nói với nhau một lời.

Những suy nghĩ của các quan với vẻ mặt trầm tư được giữ lại sau hàm răng khép chặt của họ lúc họ trở về: người thì trở về khu nhà quan ở thành ngoại hay dinh phủ ở thành nội, người thì đi thuyền, đi cáng về quận huyện. Những suy nghĩ ấy sau cùng cũng được thốt ra từ đôi môi khép kín mà bay ra theo khói thuốc lào và khói trà thơm phức. Chúng luồn ra bên dưới màn trướng và những bức rèm chầu, vượt qua sân trước, chạy dọc theo những con đường phố từ phường này qua phường khác, đi đến các đền, chùa, chợ búa, xuyên qua các khu vườn của Văn Miếu dọc theo bờ hồ, bến cảng Đông Bộ Đầu, từ thuyền mành này sang thuyền mành khác, từ ruộng lúa này sang ruộng lúa khác, để lan truyền đến tận vùng quê.

Chẳng bao lâu, thành Thăng Long và vùng phụ cận đều biết những sự kiện và mọi hành vi trong cuộc triều kiến Đức Vua dịp trung thu. Người ta ca ngợi sự chính trực can đảm của quan tri huyện Từ Thức, người ta tán thưởng sự chính xác của lời nói và sự khôn ngoan của các lời can gián của quan tri huyện, và hồi tưởng lại, người ta tiếp tục lo sợ cho ông mặc dù ông đã trở về huyện Tiên Du không gặp gì trở ngại. Đối với nhiều người, biện pháp khoan hồng ấy đối với một ông quan dù địa vị còn thấp nhưng đã không bị giáng cấp khi dám nói, là một dấu hiệu thêm nữa về sự suy sụp của nước nhà. Hơn cả sợ hãi đối với Đức Vua, còn có một sự hãi đáng sợ hơn: sự sợ hãi đối với nhân dân khi họ có quyền nổi dậy dưới sự trị vì của một ông Vua tồi. Một số người cho tới nay chỉ nhìn thấy các nho sinh bằng con đường thi cử văn chương được cất nhắc lên địa vị của kẻ trị dân trị nước, là những con người mơ mộng chỉ biết gán ép các nguyên tắc cổ xưa với thời buổi hiện đại hoặc những kẻ trục lợi dửng dưng với số phận khốn khổ của những người làm việc để phục vụ họ, thì lấy làm lạ vì còn có những ông quan gần gũi với dân hơn họ tưởng. Còn những người khác cho rằng thái độ ấy quá ngây thơ, nên không ngần ngại tuyên bố rằng lời phát biểu của Từ Thức mà mọi người thán phục là do Lê Quý Ly gợi ý vì theo họ nói, đó là những ý tưởng mà người ta vẫn cho rằng chính là của họ Hồ.

Đó cũng là quan điểm của Hoàng thân Trần Nguyên Đán. Với tư cách là một thượng thư của triều đình, không phải là ông không biết bất cứ một dự định lớn nào của người đứng đầu Cơ mật viện, nhằm dập tắt cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội lê thê từ hơn một thế kỷ nay. Và lòng chính trực chân thành của ông phải thừa nhận ở Lê Quý Ly những tính chất của một nhà chính trị có tài. Nhưng mặc dù về căn bản, ông đồng ý với sự phân tích của ông quan trẻ Từ Thức, là cần phải giới hạn việc sở hữu ruộng đất, và trả lại số dư cho Nhà nước để đem phân phát cho dân không có đất đai, bởi vì ông thương xót cho người dân nghèo khổ lang thang trên khắp nẻo đường. Nhưng vì là dòng dõi của nhà Trần, ông nhức nhối vì sự thất lễ này, và càng nghiêm trọng hơn khi chính bản thân Lê Quý Ly cho phép điều đó xảy ra. Người ta không thể khuyên can Hoàng đế nước Nam như sửa lưng một ông cai tổng nào đó. Cũng như, người ta không thể cai trị một quốc gia như điều hành một ngôi làng. Những người xuất chúng có quyền đưa ra những lời thỉnh cầu ở triều đình như Chu Văn An dâng biểu đòi xử trảm bảy vị thượng thư nịnh thần, nhưng họ đã thực hiện bằng những lời lẽ đặt Đức Vua lên trên mọi sự khinh suất. Vì thế Hoàng thân không thể không cảm thấy một sự tổn thương sâu sắc.

Ông đã tỏ bày với Phi Khanh nỗi chán nản ấy trong một buổi bình thơ. Những buổi này thường làm ông quên đi những nỗi buồn phiền trong công vụ và những nỗi bực dọc trong gia đình. Hơn lúc nào hết, Phi Khanh có vẻ vướng mắc vào một việc khó khăn nào đó.

- Thầy thân mến - ông nói - chúng ta giờ đây đã trở thành đôi bạn chân thành và không giấu giếm gì nhau. Tuy nhiên hôm nay có điều gì làm thầy buồn bã. Thầy không tín nhiệm để nói với tôi điều đó sao?

Chàng gia sư trẻ tuổi mặt đỏ gay, nói lúng túng và không biết trả lời sao.

- Thầy có thấy hơi mát của làn gió thoảng không? - Một lúc sau Hoàng thân nói. - Gió lay động cành trúc. Trăng sáng tuyệt đẹp. Khi thiên nhiên xung quanh chúng ta góp phần làm cho chúng ta say đắm, thế nào mà lại không đáp lại lời mời gọi của chúng?

Cầm lấy bút lông, họ bắt đầu cảm tác theo đề tài: "Uống trà dưới ánh trăng với nỗi buồn man mác".

—★—

Trong những tháng sau đó, nhiều lần Phi Khanh phải hối tiếc vì đã không thổ lộ với Hoàng thân khi ông muốn nghe chàng nói về nói đau buồn của mình. Chàng tự hỏi những động lực nào đã ngăn cản chàng làm điều đó. Sợ bị trừng phạt chăng? Ngay khi biết được tin ấy, chàng đã nghĩ ngay đến một sự trừng phạt chính đáng và chàng không thiếu can đảm. Vả chăng nếu chàng quả là thiếu can đảm, thì chàng đã cùng tiểu thư bỏ trốn, theo lời khuyên của Từ Chi, bạn chàng, với niềm tin hầu như chắc chắn rằng Hoàng thân và gia đình ông sẽ không đuổi theo họ, vì như thế cũng là cất đi được cái gánh nặng phải thấy một sự sỉ nhục hiện thân sống động trước mắt hàng ngày. Tuy nhiên, họ vẫn ở lại. Có lẽ phải tìm lý do trong việc chàng không phải là người duy nhất nắm giữ bí mật và trong những cố gắng của tiểu thư Thái nhằm che giấu mọi người tình trạng của mình.

Sau một thời kỳ ngắn mệt mỏi trùng vào dịp Tết Trung thu, tiểu thư đã đi học lại, luôn luôn có nữ tỳ Thị Nghi trung tín đi theo. Nhờ có Thị Nghi, tiểu thư đã thổ lộ cho Phi Khanh biết trong những lúc hiếm hoi nàng có thể rời khỏi khuê phòng, chính nhờ Thị Nghi mà nàng có thể lừa mẹ nàng và qua mặt những người thiếp của cha nàng thường để mắt xem xét khắp nơi. Vẫn như trước kia, nàng phải cư xử với Hoàng thân như một người con gái vô tư và hiếu thảo với một ấn tượng lạ lùng là mình vẫn phải rập khuôn theo một mẫu mực của chính mình.

Rồi tuần này nối tiếp tuần kia, vừa ngắn ngủi vừa như bất tận.

Những nét ủ dột, mệt mỏi ban đầu giờ đây đã biến mất bởi vì nàng đã bước vào một thời kỳ thai nghén mà người phụ nữ có nước da rạng rỡ và dáng dấp trở nên buông lơi triển nở.

Cả những nhà sư chắc cũng không tưởng tượng nổi rằng cô tiểu thư quyền quý trong buổi sáng tinh sương, tay mang của lễ đến chùa là để cầu khấn sự phù hộ của "Mụ bà" bởi vì nàng sắp thành người mẹ. Nhưng với cá tính dũng cảm ương ngạnh của nàng, trong một bước xoay chiều đột ngột, những ngày đêm trôi qua trong nỗi khổ chín chiều sau cùng đã xua đuổi sự sợ hãi ra khỏi lòng nàng. Nàng kiêu hãnh thu gọn mình bao quanh đứa bé, được thúc đẩy bởi một ý nghĩ duy nhất, một ước mơ duy nhất: bảo vệ đứa bé. Vì thế, mỗi sáng nàng đến chùa cầu nguyện, và mang thêm dưới chiếc yếm bình thường, một cái yếm khác màu sặc sỡ, loại yếm của những phụ nữ mang thai, coi như đế xua đuổi tà ma. Và trong bao trầu đeo ở thắt lưng có những lá bùa mà Thị Nghi đã chuộc về từ thầy phù thủy.

Ngày tháng trôi qua như thoi đưa trên khung cửi...

Tết Nguyên Đán đã về, trang hoàng với những cành đào, rực hồng trong câu đối đỏ, trong tiếng pháo nổ đì đùng. Đối với mọi người, đó là lễ hội của mùa xuân, lễ hội của người sống và kẻ chết hòa lẫn vào nhau, sự giao hòa giữa âm dương để bước sang một năm mới. Nhưng quần áo mới mà nàng mặc lần đầu trong ngày đầu năm và đêm giao thừa lúc mà mỗi người cố gắng là "một người đàn ông mới", "một người đàn bà mới", cũng như sự hiện diện đầy ơn phúc của các đấng tổ tiên từ thế giới bên kia trở về quây quần với nhau trong dịp này, không còn như trước kia có thể thuyết phục được tiểu thư Thái rằng có thể xóa bỏ quá khứ để bắt đầu lại mọi việc từ buổi sáng ngày đầu năm Canh Thân thiêng liêng ấy, niên hiệu Xương Phù thứ tư (1350). Khi cha nàng biết được, ông có tha thứ cho nàng không? Nàng mừng rỡ vì những việc do nhiệm vụ bắt buộc, như dâng lời chúc tụng Đức Vua trong cung Trường Thọ, buổi hòa nhạc trong sân điện Thái Hòa, yến tiệc ở Thái Miếu, các cuộc Viếng thăm đền chùa Phật giáo và Lão giáo. v.v... tất cả những việc đó giữ cha nàng ở cách xa nàng.

Ngày mùng bảy, ngày hạ nêu và cúng tiễn đưa ông bà, Phi Khanh từ quê nhà đã trở lại. Cuộc sống của mọi ngày đã trở lại bình thường. Ngoại trừ tiểu thư Thái phải cảnh giác hơn bao giờ hết vì giờ đây nàng phải rời bỏ y phục lót bông mặc trong mùa đông.

Ba tuần lại trôi qua, cho đến lúc tiểu thứ Thái biết rằng từ nay nàng có thể ở cữ bất cứ ngày nào, Thị Nghi gạt sang bàn nỗi nhớ quê hương với cảnh núi non của đất Nghệ An, chuẩn bị cho cô chủ những món ăn đặc biệt khi cô chủ thèm ăn đồ chua chát, đấm bóp cho cô chủ khi nàng bị ốm nghén giày vò khắp cơ thể.

Phải chăng, nhờ có đứa thị nữ tận tâm hay nhờ sức mạnh của những lời cầu khẩn, biến cố sắp xảy đến không làm cho cô gái mới mười sáu tuổi đầu sợ hãi. Ngay cả Hoàng đế trên bệ ngọc cũng không có một nhiệm vụ nào quan trọng hơn công việc của nàng. Nàng chẳng bận tâm nghĩ đến, dù chỉ một lần, việc nàng có thể sinh nở bất ngờ vào lúc không thuận tiện nhất, như thể nàng phó thác cho sự quyết định của các vì tinh tú việc chọn ngày lành tháng tốt. Cho đến cái đêm đáng ghi nhớ ấy, như đã được định sẵn, giật mình thức dậy, nàng cảm thấy như có một bàn tay khắc nghiệt siết vào bụng nàng từng chặp một đều đặn. Bấy giờ, nàng biết rằng thời điểm đã đến.

Không đốt đèn, nàng đánh thức Thị Nghi đang nằm ngủ trên chiếu dưới chân nàng, và lấy tay nàng bịt miệng nó để nó đừng la lên vì sợ hãi.

- Em hãy đi nói với thầy giáo trẻ nên rời khỏi vương phủ ngay, đừng chậm trễ vì đêm nay giờ mãn nguyệt khai hoa sẽ đến. Em nói với thầy giáo đừng nên lo ngại cho số phận của chị mà hãy đi đến nơi đã định trước. Chạy nhanh lên! - Còn lại một mình, nàng nghĩ đến cơn thử thách gần kề.

Nhờ đã qua nhiều lần tự nhắc nhủ với mình rằng ở cữ là một việc hết sức tự nhiên nên nàng giữ sự bình tĩnh hoàn toàn. Cắn chặt hàm răng vào chiếc khăn quàng lụa, nàng nằm chờ trong bóng tối, chỉ lo ngại một điều là tiếng kêu khóc của đứa bé sơ sinh sẽ báo động đến các cô em gái của nàng đang ngủ yên dưới cùng một mái khuê phòng.

Đó là một đêm mùa xuân trăng sáng. Từ xa, người ta nghe tiếng tắc kè chạy dọc sườn nhà và ở cuối vườn tiếng ếch ương kêu ộp oạp. Nằm dài dưới tấm chăn, hai bàn tay co quắp trên bụng, nhìn qua bức mành cửa tô điểm bằng chim phụng, ánh trăng mùa xuân đang đi theo Phi Khanh trên đường chạy trốn. Chàng phải mau lẹ rời khỏi kinh đô chạy về hướng kinh Bắc, nơi ẩn náu an toàn. Vả lại đêm nay, nàng còn làm được gì khác hơn với tất cả sự khôn khéo của mình? Nàng đang nhìn thấy lại khuôn mặt kiêu hãnh của chàng ủ dột vì lo lắng. "Dù cho cha mẹ không xót thương chúng ta, em thề không bao giờ lấy ai khác ngoài anh, anh Cả ơi", nàng thì thầm, quay mặt về phía ánh sáng nhợt nhạt rọi vào từ cửa sổ.

Nàng không biết rằng nàng dao động như thế giữa sự co thắt và ngớt đau trong bao lâu. Một lát sau khi tiếng trống canh ba đã điểm, thình lình cơn đau, thật sự là quặn đau không sao chịu nổi xâm chiếm lấy nàng. Thái cảm thấy cơn đau ấy dâng lên trong người như những nhát dao vằm mạnh và lúc nàng sắp sửa gào lên, bỗng nhiên lại từ từ dịu xuống trong một khoảnh khắc để rồi trở lại lâu hơn và mạnh hơn, ngưng lại lần nữa trong cơn run rẩy của da thịt bị xé rách, rồi lại tiếp tục một cách nghiệt ngã. Cứ mỗi lần cơn đau mới ập tới, Thái tưởng như đứa bé vọt ra khỏi bụng nàng như múi mít tung ra khỏi quả khi lớp vỏ bị nứt toang. Tưởng chừng như những cơn đau này sẽ kéo dài suốt canh thâu mà đứa bé vẫn chưa sinh. Với ngần ấy đau đớn, làm thế nào mà toàn bộ thân thể không giãn ra vỡ tung? Nàng ở dưới đáy sâu của một cái động tối tăm với sự sống ấy đang bị giam giữ trong nàng. Nàng rên rỉ. Tại sao nó không chịu sinh ra, tại sao? Nàng tìm đâu sức lực để bám riết theo nó?

Vào lúc sắp tàn canh của cái đêm mà nàng đang giãy giụa, một ngọn đèn được đốt lên, có đôi bàn tay thoa bóp cho nàng, lau thấm mồ hôi và nước mắt đầm đìa trên má, một giọng nói quen thuộc nói với nàng... Đó là giọng nói của Thị Nghi kể lại việc ông thầy trẻ ngay khi được báo tin đã biến mất trong đêm với con ngựa đánh cắp trong tàu. Giờ đây, Thị Nghi đang giục nàng đứng dậy, hai chân dạng ra cho đỡ đau. Tuy nhiên, từ lúc đó không có gì có thể làm nàng bớt đau. Khi ngước lên, qua mái tóc xõa ra, Thái thấy Thị Nghi đi tìm giỏ trấu giấu phía sau bức trướng để đặt đứa bé vào đó. Nhưng những bàn tay khéo léo của đứa tớ gái trẻ có xoa bóp bụng nàng cũng vô ích, đứa bé từ chối, đứa bé giữ nàng, mẹ nó làm tù nhân. Nó sẽ không bao giờ chịu sinh ra, nàng hoảng loạn nghĩ như thế trong khi vẫn đứng chờ đứa bé lọt ra. Máu bắn như tia chảy dọc chân nàng. Đứa bé như không biết rằng nàng đã dùng hết sức để đẩy nó ra khỏi người nàng và ở mỗi cố gắng đau xé nàng ra, nàng lại kêu chính mẹ nàng: Mẹ ơi!

Thị Nghi chạy dọc theo hành lang thanh vắng đến tận phòng dành cho các bà phụ nữ. Mặc dù trước khi là thị nữ của tiểu thư, đầu tiên nó đã là con hầu của bà hoàng, nhưng nó chưa bao giờ đi vào khu riêng của bà. Nghĩ đến việc Hoàng thân có thể chung phòng với bà đêm nay, thêm vào cái biến cố mà nó sắp loan báo cũng như cái tội đồng lõa mà chắc chắn người ta sẽ kết án nó, làm cho nó kinh hoàng. Tuy nhiên nó vẫn chạy hết hơi trong đêm như một cái bóng.

Khi bà hoàng chạy vội xuống phòng của con gái, bà không có thì giờ để ngạc nhiên hay trách móc. Vừa cất tiếng ra lệnh cho Thị Nghi đi tìm ngay một bà mụ, thì bà hoàng đã đón hứng lấy đứa bé trong một dòng máu tuôn xối.

- Xin Trời Phật phù hộ chúng ta! May mắn quá nó là con trai! - Bà thở phào ra, nâng đứa bé lên êm nhẹ như nâng một quả trứng.

Đứa bé thật thanh tú nhưng lại mạnh khỏe, nó trân trân nhìn vào bà với một vẻ nghiêm nghị không thể tưởng được. Như thể nó nhớ ra rằng mình phải tự loan báo, nó thốt ra một vài tiếng khóc ngắn dường như chỉ thuần túy vì lịch sự và cùng lúc đó trời rạng sáng, ngày mùng tám tháng ba năm Canh Thân triều đại nhà Trần.

Đưa mắt nhìn qua khỏi đứa bé, bà hoàng tìm ánh mắt con gái bà. Thái đã thở đều đặn trở lại, hai mắt nhắm nghiền, một nụ cười khó tả trên khuôn mặt rạng rỡ, như phiêu diêu ở một chốn nào tuy vẫn gắn chặt với đứa con trai đang khóc oe oe. Dao động và lúng túng, bà hoàng ngạc nhiên không thấy mình tức giận hay phẫn nộ trước một điều mà ở vào hoàn cảnh khác, hẳn đã không phải đem lại sự rụng rời mà là niềm vui cho gia đình Hoàng thân. Bà chỉ cảm thấy lòng nặng trĩu trước điều vốn dĩ không thể nào tránh khỏi.

Bà chỉ hai mẹ con Thái cho bà đỡ vừa chạy vội đến, và bà lui về sau khi đã nghiêm khắc ra lệnh phải tuyệt đối giữ kín.

[←19]

Lê Quý Ly có quan hệ thông gia với nhà Trần nhờ những người cô của ông. Trong đó một người là mẹ của Thái Thượng hoàng "Trần Nghệ Tông"

[←20]

Bảy ngày đối với con trai, chín ngày đối với con gái.