Chương 5
Tiếng la hét và tiếng còi thúc trận chen lẫn tiếng reo hò chiến thắng vang rền khắp không trung. Từ bốn phía, quân lính Thiên triều Trung Quốc đang ào ạt tấn công vùng đồi núi. Tận rừng sâu, lố nhố hàng tốp kỵ binh đầu đội mũ sắt, lưng khoác thiết bào, giáo mác hườm tay, còn đám bộ binh thì trang bị kích dài, cả kỵ lẫn bộ binh vây chặt dọc các triền dốc và bất thình lình đồng loạt xông vào tấn công nghĩa quân Lê Lợi. Hai hướng Đông và Tây không có lối thoát, phía Bắc và Nam cũng chẳng còn chỗ tháo lui cho quân Việt đang trên đường rút về vùng núi Chí Linh.
Trên một ụ đất, Tổng binh Tàu Trần Trí đang theo dõi chuyển động của đoàn quân thét to: "Không để tên giặc Lê Lợi trốn thoát!". Trong khi đó, vây quanh vị Chủ Soái mình khoác thiết bào màu sẫm cưỡi trên lưng con hắc mã, các nghĩa quân Việt Nam dốc hết tàn lực phá vỡ vòng vây. Nhưng dù họ có chiến đấu như quỷ thần, đâm chém loạn xị ngậu bất cứ tên giặc nào sát lại gần thì vẫn giết không xuể vì hễ cứ một đứa bị giết là lại có trăm thằng khác ào vào tấn công. Nghĩa quân bị vây hãm giữa một rừng gươm giáo mà quân giặc thì tên nào cũng bọc giáp bọc sắt, thử hỏi làm sao tìm cho được một lối thoát ra? Tả tơi như lông bay lá rụng mùa thu, hàng ngũ họ cứ thưa thớt dần... Vừa mới lúc nãy chàng dũng sĩ vẫn còn quyết một lòng chiến đấu bảo vệ mạng sống cho chính mình và Chủ tướng, thì bây giờ đã bị té ngửa và bị ngọn giáo xuyên qua ngang người.
Thích thú ngắm nhìn cảnh tượng chết chóc này đồng thời mường tượng đến những lời ca ngợi và phần thưởng của triều đình Bắc Kinh ban cho, tên tướng giặc Trần Trí ung dung thở phào nhẹ nhõm. Hắn truyền lệnh:
- Tuyệt đối không được để cho tên Lê Lợi trốn thoát!
Bọn thủ hạ của hắn vội vàng đáp lời:
- Xin Chủ tướng yên chí! Không bao lâu nữa chắc chắn tên giặc Lê Lợi này sẽ bị tóm!
Đột ngột, con hắc mã bị chém một nhát vào giò, hí lên khủng khiếp rồi ngã xuống đồng thời hất tung người kỵ sĩ trên lưng. Con rồng Lam Sơn chưa kịp đứng dậy thì đã bị một ngọn giáo xuyên ngang qua mình cùng lúc với lưỡi búa chém phăng qua cổ. Một tên giặc Tàu đứng gần đó nhất liền nhanh lẹ tóm lấy thủ cấp Lê Lợi, phi nước đại về hướng sườn núi phía Đông nơi đặt tổng hành dinh. Hắn chắc mẩm sẽ được ca ngợi và tán thưởng về hành động này. Song thực tế hành vi ấy chỉ là việc cúi mình xuống nhặt một thủ cấp mà thôi.
Lũ giặc Tàu sau khi giết xong tên "quân nổi dậy" liền nổi trống chiêng báo hiệu thu quân. Tướng giặc Trần Trí vô cùng hoan hỉ truyền lệnh: "Tất cả thoải mái nghỉ ngơi".
Đoạn hắn lui vào trong căn lều riêng, trước đó không quên phái vài tên giao liên ra Đông Quan báo tin cho Đại Nguyên Soái Lý Bân rằng chúng vây chặt ngọn núi, nghĩa quân đã bị lùa vào bẫy đúng theo bài bản của "Nghệ thuật chiến tranh", rằng chủ tướng giặc Lê Lợi và một số "quân giặc cỏ" đã bị tiêu diệt. Thủ cấp bị chặt, tim bị moi ra để tế linh hồn các binh sĩ Tàu bị tàn sát thê thảm ở đồn Ngũ Lạc. Tụi giặc cỏ đã phải đền tội xấc láo tày trời và hiện giờ ở Thanh Hoá, chúng đã hoàn toàn bị quét sạch không còn một mống.
Tiếp theo, hắn truyền bêu đầu tên nổi loạn Lê Lợi ở khắp các chợ rồi hắn cùng các tướng lĩnh tổ chức tiệc rượu ăn mừng chiến thắng.
Trong khi lũ giặc Tàu đang khao tiệc trong doanh trại thì ở ngọn đồi bên cạnh, Chồn ngoài hang Hiểm đang ẩn núp cùng với một vài kỵ binh của mình. Hiểm đã chứng kiến cảnh quân Tàu tàn sát nghĩa quân. Mắt chàng trào dâng dòng máu lệ.
Chàng rên la thảm thiết:
- Hỡi đấng cao xanh! Sao ông nỡ độc ác đến thế! Sao chúng tôi lại phải mất vị tướng lĩnh anh tài này! Ôi! Nhớ ngày nào tại Lũng Nhai, chúng tôi đã cùng nhau thề không đội trời chung với lũ quân thù. Chúng tôi đã cùng nhau mài nhọn nanh vuốt thề chiếm lại mảnh đất ngày xưa! Trong những năm tháng nằm gai nếm mật, chúng tôi đã cùng Người chia sẻ biết bao lo âu khắc khoải! Có ngờ đâu, nay Người lại phải đi về nơi âm phủ trong khi đại nghĩa chưa thành! Người đã hy sinh để chúng tôi được sống. Nhờ người đội quân chúng tôi giờ đây được an toàn về lại núi Chí Linh. Các thế hệ tương lai sẽ không quên lòng dạ sắt son cao sáng của Người. Thật đau đớn biết bao khi nhìn thấy một bậc anh hùng như thế lại bị bêu đầu trước gió trước mưa, làm mồi cho thú rừng, không mồ chôn, không mả cất. Hỡi lũ giặc Ngô bẩn thỉu, chúng mày sẽ phải đền trả xứng đáng cho cái chết của người anh em chúng ta.
Nói rồi, Chồn ngoài hang để cho hai dòng lệ tuôn mãi không ngừng.
Những chiến hữu sơn cước dũng mãnh của chàng lòng dạ cũng nát tan đau đớn. Chính họ cũng nhìn thấy tận mặt thằng giặc tóm nhặt thủ cấp còn dính mũ sắt của Chủ tướng họ lên. Không một bàn tay cung kính bật mí mắt lên cho người chết để người ấy được chiêm ngắm lần cuối cùng mảnh đất thân yêu. Không có ai bỏ vào miệng người ít muối gạo và một khúc mía giúp người ấy tránh được những đau khổ trên đường về âm phủ. Không một cỗ ván gỗ sồi sơn son nào bọc thi hài người và người sẽ không bao giờ được ngủ yên dưới một gốc cây cổ thụ trong rừng dưới tán lá phủ.
Đám nghĩa quân nắm cương dắt con chiến mã của Hiểm đi vì chàng trông giống như người mất trí. Bỗng nhiên chẳng để cho ai kịp ngăn cản, Con Chồn ngoài hang vung thanh đao lên trên đầu mình. Một vật màu đen bay xẹt qua không khí rơi xuống dưới chân chàng. Đó chính là mái tóc dài của chàng. Chàng làm như thế nhằm mục đích ngăn cản không cho bất cứ tà thần nào xâm nhập vào người được. Sau đó chàng trèo lên yên và tốp kỵ binh thưa thớt lặng lẽ tiến về núi Chí Linh.
Nhìn những gương mặt phờ phạc của đám kỵ binh, ai dám nghĩ rằng chỉ mới mười ngày trước đây, chính họ đã tiêu diệt một đồn bốt giặc Tàu ở mạn Nam Thanh Hoá? Vừa đi, Chồn Hiểm vừa ngẫm nghĩ: Không hiểu vì sao Lê Lợi đã phải trả giá quá đắt như thế cho hai trận chiến thắng? Trận thứ nhất là trận Lạc Thuỷ vào năm Tuất (1418) và sau đó là trận Ngã Lạc vào mùa xuân năm Hợi (1419).
—★—Con thuyền Quảng Đông hàng ngày đưa khách qua lại Hải Dương (tỉnh thành chính miệt châu thổ sông Hồng) và Đông Quan vừa cập bến. Ráng chiều đỏ rực trên cảng Đông Bộ Đầu. Nơi đây đang lung linh muôn ngàn tia sáng. Mùi cá tanh tanh bốc lên dai dẳng khắp nơi.
Mặc cho bọn thương nhân Tàu hì hục thu dọn hành lý, hai hành khách nhảy lẹ lên bờ trước tiên rồi rẽ lối băng qua đám kiệu và đèn của đám đông đang đứng chờ. Một người đã hơi cao tuổi, gương mặt tròn trịa đầy những vết nhăn thật khôi hài, dáng vẻ bình dân còn người kia độ tuổi cao lắm là ba mươi, nét mặt và phong thái đĩnh đạc đang mặc bộ đại tang151. Người ta có thể nghĩ rằng đây là cậu chủ và người lão bộc.
Cả hai bước nhanh trên đại lộ cây Hòe trông sáng rực như ban ngày với hàng trăm chiếc đèn sừng óng ánh treo lủng lẳng hai bên. Đó là những quán rượu lớn nhỏ và các tiệm trà ăm ắp người. Trên các quầy thịt, người ta bày bán hàng chùm thịt vịt khô Nam Kinh và hàng đống lạp xưởng. Xa hơn tí nữa là đống bánh bao nhồi thịt heo, bánh hột gà chưng đường nhân táo. Rải rác đó đây, người ta trông thấy những tấm bảng nhỏ phủ đầy chữ hán của các tiệm bán thuốc, những bảng hiệu loè loẹt của tiềm cầm đồ, tiệm may và hàng tơ lụa. Đông đúc sĩ quan lính tráng mặc đủ loại đồng phục ra vào các nhà hàng bán rượu và thức ăn. Bọn nhà giàu có kẻ hầu người hạ đi theo đang chuẩn bị xuống những chiếc "thuyền hoa" trên sông Hồng để "du hí một vòng trên sông nước"152, tức là yến tiệc say sưa với đám kỹ nữ! Lại có những khách qua lại người Trung Quốc mặc áo dài lụa hoặc gấm, đầu đội mũ chỏm thêu hoa.
Lão già có khuôn mặt tròn trịa vừa chăm chú theo dõi quang cảnh vừa lẩm bẩm trong miệng. Cuối cùng không nhịn được nữa lão thốt lên bằng tiếng Kinh:
- Nè hiền diệt (cháu) cả một quãng đường dài chết tiệt để rồi chẳng khác nào như quay lại trở về Trung Quốc.
- Hiền thúc, xin nói khẽ cho! Có người nghe đấy!
Lão già cứ nói tiếp:
- Sau bao nhiêu năm xa xứ trở về giờ đây tôi tự hỏi còn đâu những quán xá ngày xưa, còn đâu những phụ nữ gánh gồng cỏ rạ, những cô bé bán kẹo lạc. Nói tóm lại là còn đâu những phụ nữ hàm răng đen nhánh mang trên người bộ đồ nâu thuở trước? Cứ giữ nguyên như cũ thì có hại gì đâu?
Chàng thanh niên đáp lại:
- Thưa hiền thúc, ở đây chúng ta phải khôn khéo hơn lúc chúng ta còn ở bên Tàu! Điều này cực kỳ quan trọng bởi vì lợi ích gì nếu chúng ta bị bỏ tù về tội khích báng? Đó đâu phải mục đích chúng ta đến đây.
Ông lão gật đầu nói:
- Nghe giọng điệu cháu chú cứ tưởng y như là ông anh cả của cháu nói vậy. Chẳng hiểu con đường "Thợ tiện" có còn nữa không? Và nhà cửa của ông Lân cũng như bản thân ông ấy chẳng biết ra sao rồi? - Đang nói thế, đột nhiên ông lão quát lớn - Ê mày! Coi chừng chứ! Cái thằng cà chớn!
Vừa quát, lão vừa xỉa xói một cậu bé đang xách cái thùng nước bẩn rưới phải chân lão. Thằng bé nhe hàm răng đen nhánh ra cười xin lỗi. Ông lão liền chộp vào tay áo nó vừa bảo:
- Ê! Mày đến đây tao xem! À! Hình như tao có biết chú mày! Chú mày là thằng quỷ gì đây nhỉ, lão xoe tròn đôi mắt giễu cợt. À đúng rồi! Chú mày, phải, chú mày là thằng Lạc, con trai ông út thợ mộc tên Lân phải không?
Thằng bé giật mình đáp:
- Ủa! ông biết bố cháu à?
- Phải! Tao biết ông ấy! Chúng ta đã từng làm việc với nhau. Bản thân ta đây cũng là một thợ mộc. Trong những ngày ta lưu lại thủ đô, ông ấy thường cho ta tá túc, lúc đó chú mày còn bé quá chắc chú mày không nhớ được đâu. Chắc trời xui cho ta gặp chú mày ở đây. Chúng ta đang tìm lối về đường "Thợ Tiện" và nhà bố chú mày. Ông ấy vẫn luôn khoẻ chứ?
- Dạ thưa, bố cháu vẫn khoẻ. Ngay khi người ta bắt đầu thu gom những tay thợ giỏi nhất thì gia đình cháu lánh cư về mạn Bắc Hồ Tây đến trấn Nghi Tàm, nơi mẹ và các chị em gái cháu làm nghề dệt. Để cháu mang thùng nước này về quán rồi cháu trở lại dẫn các các bác đi.
Chẳng bao lâu thằng bé trở lại dẫn họ băng qua các đường phố và hẻm nhỏ. Qua mỗi trạm đèn báo hiệu có quán trà nước, ông lão thốt lên:
- Chà! Giống hệt ở Bắc Kinh!
- Thưa bác, bác và tôn ông đây chắc từ phương Bắc đến?
Cậu bé vừa nói vừa trang trọng nhìn người thanh niên.
- Nhưng điều đó vẫn không làm cho chúng ta thay đổi bao nhiêu đâu, cháu cứ tin thế.
Khi cả ba đến nơi, cậu bé Lạc yêu cầu họ chờ ở ngoài. Sau đó không lâu, một ông già đội khăn trùm đầu tất tả vén manh chiếu treo trước cửa lên chạy ra. "Ôi trời ơi! Thằng nhỏ tôi quả không nói dối! Từ Chi! Phải thực hiền đệ Từ Chi đấy không?"
Từ Chi nắm lấy đôi tay run run của ông già vừa cười vừa đáp lại:
- Thưa đại huynh, quả là cặp mắt kèm nhèm vẫn không đánh lừa được huynh! Thật khó mà nhổ hết cỏ dại cho đến tận rễ! Và đây là cháu của đệ tên là Phi Hùng. Lão già nọ tiếp:
- Chà! Thế là các vị đã trở về! Nào xin mời vào, xin mau bước vào tệ xá.
Nói rồi ông lão quay qua mụ vợ đang đến chào Từ Chi và người thanh niên quý phái đồng hành, lão nói: «Bu nó ơi, đem nhanh chai rượu Nhị Khê ra đây để chúng ta mời hai vị khách từ phương xa tới nâng ly...».
Trong khi chạm cốc, già Lân trầm ngâm nói với họ:
- Chúng tôi đã chôn chai rượu mơ này cốt ý để mừng ngày chiến thắng. Thế nhưng một lần nữa, trời cao đã phụ chúng ta. Niềm hy vọng vừa lóe lên ở phương Nam đã vội lụi tàn như cành hoa vội úa!
Từ Chi giật nảy người:
- Đại huynh muốn ám chỉ ai vậy?
- Ủa! Các vị ở Đông Quan thế mà không hay biết gì hết sao? Hiện nay người ta đang chỉ bàn tán xôn xao về chuyện này! Đại thống soái Lý Bân và tay chân thân tín của hắn là Bố Chính Hoàng Phúc không ngớt tổ chức yến tiệc ăn mừng kể từ khi xác nhận được tin báo.
- Thưa Đại huynh, chúng tôi vừa mới cập bến, đâu có ai báo cho mà biết! Ruột gan tôi nóng như thiêu như đốt, huynh làm ơn kể tiếp đi.
Già Lân rên xiết!
- Than ôi! Tại sao trời cao lại để cho bọn chúng được thành công vào năm Kỷ Hợi này (1419), ở chính nơi chúng đã bị đại bại vào năm ngoái.
Từ Chi la lên:
- Chúng tôi đã biết điều ấy! Khi chúng tôi đi qua Côn Sơn, người ta kể cho chúng tôi rằng Lê Lợi đã thu hồi được hài cốt cha mẹ ngài và đã an táng họ tử tế. Lũ Tàu có phải là những thằng tinh ma duy nhất dưới bầu trời này đâu! Nhưng đại huynh làm ơn kể tiếp đi.
- Có thể nói tóm tắt như sau: vào khoảng tháng tư sau khi tiêu diệt đồn quân Tàu ở Ngã Lạc, mạn nam Thanh Hoá, Lê Lợi đã bị hơn mười ngàn quân Tàu bao vây ở phía Tây rặng núi. Nghĩa quân bị tiêu diệt sạch. Người ta tìm thấy họ nằm rải rác xung quanh cái xác không đầu của Lê Lợi mình vẫn còn mặc chiến bào. Còn con chiến mã của ngài thì cặp giò bị chặt nằm sõng soài bên cạnh. - Già Lân thở dài - Không biết tôi có thể sống nổi đến ngày nhìn thấy đất nước được giải phóng không?... Tuy vậy vẫn còn chút may mắn. Người chiến hữu thân cận nhất cũng đồng thời là nhà cố vấn của Lê Lợi, tức tiến sĩ Nguyễn Trãi, theo lời người ta nói, hiện vẫn bình an vô sự ở núi Chí Linh. Ông ấy là một con người bất khuất.
Từ Chi nhẹ nhõm thốt lên:
- Thưa đại huynh, xin hãy giữ vững lòng can đảm. Nếu Nguyễn Trãi vẫn bình an thì cuộc chiến vẫn tiếp tục. Con cọp sẽ thắng con voi!
Ông lão giương đôi mắt tròn xoe dò ý người bạn trẻ đồng hành. Cậu ta vẫn khư khư nín lặng. Quả thật: "Người khôn thường không phí phạm lời nói" hoặc giả cậu ta còn ngờ vực già Lân? Già Lân vội chuyển hướng câu chuyện, lão quay sang hỏi Từ Chi:
- Phần đệ thì thế nào? Đệ về xứ lúc nào vậy? Hình như thím cũng về làng Nhị Khê trước đệ phải không?
Gương mặt Từ Chi sa sầm, giọng nói như vỡ ra:
- Than ôi! Đại huynh ơi! Đệ là một thằng chồng bất xứng, đệ chẳng đem lại bình an cho vợ mình lúc bà còn sống, mà cũng chẳng có mặt bên cạnh giường lúc bà ta qua đời! Kể từ cái ngày thê lương ấy, khi đệ bị lưu đày sang phương Bắc, hai đứa chúng tôi đã chẳng bao giờ được thấy lại nhau. Và đệ đành phải để hài cốt bà ấy nằm lại trên mảnh đất xa lạ. - Dòng lệ tuôn tràn trên gò má Từ Chi.
- Con sư tử Hà Đông đã mất rồi! Già Lân và mụ vợ buồn bã lắc đầu. Sau đó cả hai đưa mắt dò xét người thanh niên đang mang đại tang. Cậu thanh niên này cũng đầy xúc động, tay vẫn khư khư ôm chiếc túi đi đường không hề nói năng một lời nào.
- Thôi chú đừng quá phiền muộn! - Bà chủ nhà vừa lên tiếng vừa rót rượu đầy các ly. - Chú thím sẽ gặp lại nhau trong kiếp lai sinh! Dù chú phải đau đớn mất đi người bạn đời nhưng đất nước này vẫn còn cần đến chú. Hãy dùng cơm với tôi và cứ ở lại dưới mái nhà này cùng với người bạn đồng hành của chú. Tôi nói điều này nhân danh tình bạn cũ giữa chúng ta! Bố các cháu sẽ trình bày về dự định cuộc sống ngày mai của chúng ta và sau đó xin hai vị góp ý cho biết thêm điều gì cần làm.
Đưa mắt thăm dò sự ưng thuận của Phi Hùng xong, Từ Chi lên tiếng:
- Thưa Đại tẩu (chị)! Chúng tôi rất vui vẻ nhận lời mời của chị nhưng có lẽ chỉ ở lại đây qua đêm nay thôi vì ngày mai chúng tôi phải trở về lại làng cũ.
Vì Phi Hùng không muốn bộc lộ danh tính của mình nên lão Từ Chi còn biết nói gì hơn? Cuối cùng Phi Hùng lên tiếng.
- Thưa tôn bá! Cháu xin cảm ơn bác đã nồng nhiệt đón tiếp một kẻ lang thang phiêu bạt như cháu. Lời khuyên của quý bác đáng giá vàng ngọc, cháu nguyện sẽ ghi lòng tạc dạ...
Tuy chỉ thốt ra đôi lời ít ỏi nhưng chừng đó cũng đủ biểu lộ cho thấy Phi Hùng thuộc dòng dõi quý phái. Cậu bé Lạc nhìn chàng đầy thán phục. Già Lân tiếp lời:
- Các vị nên biết rằng từ ít lâu nay mỗi người buộc phải mang theo mình thẻ căn cước ghi rõ họ tên và quê quán. Nếu ai không có, hoặc căn cước không đúng quy định thì đương nhiên sẽ bị bắt giữ! Quý vị sẽ xử trí như thế nào trong trường hợp bị xét hỏi?
- Thưa tôn bá! Xin đừng bận tâm về vấn đề ấy. Chúng tôi có thể từ phương Bắc đến được nơi đây thì chúng tôi cũng hy vọng sẽ đến được làng Nhị Khê cũng một phương cách như thế. Phần còn lại là phó mặc cho trời.
Nghe thế già Lân đâm ra lúng túng không nói thêm câu nào nữa. Từ Chi ngượng nghịu nói:
- Đại huynh ơi! Thế là lâu lắm rồi chúng tôi chưa được nếm lại niềm vui mái ấm gia đình.
Sau khi họ dùng cơm xong, bà lão Lân đem điếu cày ra mời rồi bà trở lại bên khung cửi. Mãi đến khuya hai vị khách vẫn còn nghe tiếng con thoi đưa qua đưa lại xen lẫn tiếng lạch cạch êm dịu của bàn đạp.
Ngay lúc hừng đông, từ mạn Nam thủ đô, họ lên đường hướng về ngôi làng cũ. Từ Chi bộc bạch nỗi bực dọc:
- Này cháu, chú hiểu rằng thời buổi bây giờ phải hết sức cẩn trọng. Tuy nhiên, gia đình bác Lân là chỗ quen biết cố cựu nên chúng ta hoàn toàn có thể nương cậy. Vì thế theo chú nghĩ thật đáng hổ thẹn khi giấu họ tông tích của cháu. Giấy thông hành của mình như thế này coi làm sao được?
- Thưa hiền thúc, xin chú đừng nóng! Chú hãy bình tĩnh suy xét xem. Nếu các nghĩa quân Lê Lợi cũng đánh giá như già Lân rằng việc Nguyễn Trãi còn sống là một cơ may, thế thì việc bác ấy không hay biết gì về tông tích của cháu há chẳng an toàn hơn cho bác ấy và cho cả chúng ta nữa sao?
Lão thợ mộc già đưa mắt nhìn chòng chọc vào cậu thanh niên: "ừ thì đúng đấy!" - Lão thốt lên. Cậu thanh niên đấu dịu:
- Hiền thúc cáu tiết như thế để làm gì? Chú không nhớ câu ngạn ngữ "Khôn sống mống chết sao?" Không nên để cho bất cứ tình thân hữu nào phương hại đến mục đích của chúng ta là đang cố gắng tìm cách gia nhập quân khởi nghĩa ở miền Nam ngay sau khi chúng ta hoàn tất xong nghi thức an táng ở làng Nhị Khê. Cháu nghĩ thế có đúng không?
Từ Chi lắc đầu.
- Sao, chú nghĩ sao? - Phi Hùng hỏi tiếp.
Từ Chi cáu lên:
- Nghĩ sao à? Tôi suy tính dốt đặc cán mai, quê mùa dốt nát, tôi vẫn mãi là quê mùa dốt nát.
Dù nói thế, chỉ một lát sau Phi Hùng cảm thấy nhẹ nhõm. Từ Chi đã lấy lại được bản chất khôi hài mà mười hai năm khổ sai ở Trung Hoa vẫn không dập tắt nổi. Tuy nhiên kể từ khi con «Sư tử Hà Đông» qua đời, lão thợ mộc làng Nhị Khê không còn sống phóng túng như hồi trước nữa. Ông không còn quay lại nhìn theo các thiếu nữ xinh đẹp gặp gỡ dọc đường. Phi Hùng kín đáo đưa mắt nhìn lão rồi chép miệng "Đúng là người ta càng già càng khôn hơn".
—★—"Xin chúc hai vị thượng lộ bình an!" Nói xong người dẫn đường vừa đưa họ đến tận chiếc chuyền tam bản vội biến mất vào bờ sông tăm tối.
Phi Hùng và Từ Chi đều hiểu rõ đây không chỉ là một lời chúc "xã giao". Bao nhiêu thử thách đằng trước đang đón chờ họ trên quãng đường hiểm nghèo dẫn vào Thanh Hoá.
Sau khi vào khoang thuyền họ liền nằm dài xuống mui thuyền bằng lá. Kế đó, Chiêm, cô lái thuyền, lấy một chiếc chiếu cũ phủ lên mình họ rồi chất những thúng rau lên trên. Từ nhiều mùa trăng rồi, trong chiếc tam bản này, Chiêm đã dấu lén nhiều người dưới đống cỏ voi dày và đưa họ qua lại giữa hai bờ sông Đáy. Nhờ nàng, biết bao nghĩa quân đã được đến tập kết ở núi Chí Linh. Nàng nổi danh là người phụ nữ lanh lợi, mưu trí và gan dạ. Như một con chạch, nàng len lách qua các mắt lưới của lũ giặc Tàu giăng bủa. Nàng luôn luôn nhất mực trả lời các tên gác trạm rằng nàng chỉ là một cô lái đò thuê hoặc là một người buôn bán nghèo nàn.
Thật là may, đêm nay trời tối sẫm. Con thuyền lặng lẽ lướt dọc bờ sông. Chiêm thả xuôi mái chèo dự tính sẽ băng qua sông trước khi mặt trời lên, y hệt như một kẻ buôn bán bình dị đi đến phiên chợ mé sông. Trong khoang thuyền, hai vị khách nằm dài như hai khúc cây dưới đám dưa hấu, bí, bầu, củ cải...
Kể từ khi Phi Hùng giao nộp thẻ thông hành cho đám quan chức làng Nhị Khê, cả hai người bỗng trở thành những kẻ đào tẩu. Lũ tuần tiễu Tàu đi rải rác khắp mọi nẻo đường, đứng chốt ở các cây cầu và các chỗ sông cạn kiểm tra gắt gao các làng mạc. Khắp nơi đều lúc nhúc vô kể những tay mật thám, cặp mắt láo liên, luôn luôn tìm cách bắt nộp tiền chuộc nhét túi. Để tránh né bọn chúng vào ban ngày, họ phải chui lủi một nơi chờ đến khi mặt trời lặn mới dám lên đường. Suốt ngày họ ẩn mình trong các bụi rậm, ngồi chồm hỗm giữa cánh đồng mía hoặc ngâm mình trong ao hồ. Họ bị dây gai cào rách cả mặt, đỉa hút máu bám chặt vào da. Họ cảnh giác ngờ vực tất cả mọi thứ: từ tiếng chim vỗ cánh xào xạc trong bụi rậm cho đến cả tiếng sột soạt của lá cây trên đầu. Họ dày dạn dãi nắng, dầm mưa. Dù thế nào đi nữa, họ vẫn lầm lũi tiến về phương Nam, đói ăn rễ cây, khát uống nước ao hồ, ngày thì sợ giặc Tàu, đêm thì khiếp ông cọp.
Phi Hùng nhớ lại câu chàng đã trả lời cho già Lân "còn lại là phó mặc cho trời". Thực thế, sau khi hoàn tất các nghi thức an táng xong nếu trời không phù trợ thì làm sao họ có thể kín đáo rời bỏ làng Nhị Khê băng qua tỉnh Ninh Bình để rồi gặp vị sư già giúp cho phương thế vượt sông?
Từ xa, tiếng chim quốc vang lên: "Cuốc! Cuốc".
Cô lái thuyền đưa mái chèo thật điệu nghệ. Mùi cỏ voi vừa mới cắt hăng hăng bay tỏa khắp con thuyền hòa quyện với mùi rau quả khiến Từ Chi phải ráng sức lắm mới khỏi hắt hơi. Con thuyền bơi sát bờ dưới tán cây rợp bóng. Cành cây va quệt vào mũi. Lão thợ mộc vạch kẽ chiếu, nheo mắt nhìn người con gái đang nắm trong tay số mệnh của hai người.
Đứng sau lái thuyền trên đôi chân vững chãi, cô lái đò uyển chuyển đưa mái đò trông thật nhịp nhàng. Từ Chi không rõ được khuôn mặt nàng. Sau bao ngày chui rúc trong bụi cây, giờ đây lại còn phải nằm bất động bẹp dí và câm điếc như thế này dưới đáy thuyền đối với lão quả thực vô cùng khó chịu. Đôi chân ngứa ngáy, lão liền xê dịch vài cái thúng rồi rướn người ra khỏi chỗ nằm. Phi Hùng thì thầm:
- Chú ơi! Làm ơn nằm xuống đi!
Từ Chi mỉm cười không đáp. Cô lái thuyền Chiêm nghe thấy lão tiến đến gần nàng và ngồi chồm hỗm cách nàng không xa. Nàng thản nhiên hỏi:
- Ông ra đây làm gì?
Từ Chi đáp:
- Thưa cô em, khi nào có nguy cơ bị phát hiện tôi sẽ núp vào trong khoang. Còn bây giờ xin cô cho tôi thư giãn một chút.
Từ Chi thấy thèm được nói chuyện với cô lái thuyền như với một người em gái của lão bởi vì kể từ ngày phụ thân qua đời, Phi Hùng đã trở nên hầu như câm lặng. Các câu hỏi dồn dập tuôn ra khỏi miệng lão. Không hiểu cô lái thuyền có chồng con, nhà cửa gì không? Tại sao cô lại tử tế đưa người sang sông? Như vậy cô không sợ đương đầu với biết bao nguy hiểm sao?
Cô lái thuyền trả lời:
- Tôi đã có chồng con. Tôi chỉ làm điều tôi thấy phải làm.
Câu trả lời gọn lỏn của nàng không làm Từ Chi thất vọng. Lão nói đùa:
- Giả dụ chúng tôi là những thám tử bị quân Tàu mua chuộc để bắt giữ cô ở bờ sông bên kia thì sao?
Cô nàng đáp lại:
- Sư cụ Pháp Vân đã gửi gắm các vị. Chúng ta cùng đứng về một phía với nhau. Thế là đủ!
Cô nàng này không thích lắm lời. Tuy vậy, Từ Chi vẫn không cảm thấy nản chí. Lão thầm nghĩ: Nếu cô ta không thích nói về bản thân mình thì đã đành nhưng không lẽ cô ta cũng không kể gì cho ta nghe về Chủ Soái Lê Lợi quá cố. Nghĩ thế, lão ta bắt đầu kể những chuyện lão đã nghe thấy ở thủ đô và tô vẽ thêm vào. Lão cố tình sử dụng những lời kích thích sự tò mò của cô nàng.
- Từ khi tin tức được xác nhận, Đại Thống Soái Lý Bân và Bố Chính Hoàng Phúc (ông này được người ta quen gọi là Bố Chính Công Bằng) ngày đêm không ngừng tiệc tùng và lũ Tàu ở Thăng Long, à xin lỗi ở Đông Quan, cũng theo gương họ. Các tửu quán không bao giờ thưa khách.
Chiêm hỏi:
- Ở thủ đô người ta còn nói thêm gì nữa không?
Từ Chi mỉm cười trong bóng tối trả lời:
- Trong khi quân Tàu chỉ nghĩ đến việc vui chơi và vơ vét của cải nước ta, những kẻ khóc than cái chết non trẻ của Lê Lợi vẫn tin rằng vận may đang còn tiếp tục tồn tại nơi Nguyễn Trãi người cố vấn vĩ đại của ngài.
Cô lái thuyền kính cẩn nói:
- Từ lâu tôi đã nghe danh tiếng lừng lẫy của tiến sĩ Nguyễn Trãi. Sư cụ Pháp Vân từng quen biết với tiến sĩ nhận xét ông ấy quả có một tầm nhìn hết sức tinh tế đáng phục!
Từ Chi la lên:
- Tôi cùng làng với ông ấy đấy! Cha ông là một nhà nho vĩ đại. Dưới sự chèo lái của Nguyễn Trãi, tôi tin rằng cuộc nổi dậy sẽ kết thúc trong thành công. Việc hy sinh và giúp đỡ các nghĩa quân của cô sẽ không vô ích đâu!
Giữa lúc đó bất thình lình, Chiêm thốt lên: "Khoan! Hãy lắng nghe!" Đoạn nàng dừng mái chèo. Qua ánh trăng nhạt, Từ Chi thấy nàng có vẻ khẩn trương. Lão chỉ nghe tiếng lá sột soạt trên mui thuyền và tiếng sóng vỗ mạn thuyền. Chiêm nhẹ nhàng lách thuyền về phía một bụi tre.
- Có một chiếc thuyền trên sông - Giọng nàng trầm tĩnh - Hai vị phủ lá lên người nhanh lên, chỉ cần nằm yên đừng động đậy.
Từ Chi lập tức quay về khoang nằm cạnh Phi Hùng và lập tức cả hai bắt đầu nhận ra những tiếng mái chèo khua đều nhịp nhàng đang vọng tới. Thính giác của người phụ nữ này thật phi thường!
- Có cần lội vào bờ không? - Phi Hùng vừa nói vừa định nhảy xuống nước. Chiêm trả lời:
- Tốt hơn cứ ở lại đây. Này! Cầm lấy! - nàng đưa cho Phi Hùng chiếc tơi lá của nàng để phủ lên bộ đồ tang màu nhạt - Dù thuyền của chúng đèn đuốc thắp sáng, nếu chúng ta không động đậy, bọn chúng sẽ không nhìn thấy chúng ta đâu!
Chiếc thuyền Quảng Châu cồng kềnh đang tiến đến gần. Những chiếc đèn chùm treo lủng lẳng phía sau bánh lái hắt ra ánh sáng chói chang xuyên từ bờ bên này sang tận bờ bên kia sông. Một số đông lính Ngô đang đi qua đi lại trên sàn tàu. Đây chắc chắn là một tàu chiến ngược dòng sông Đáy và sông Hồng về hướng Đông Quan. Chỉ cần chèo thêm một tí nữa là bọn Tàu sẽ phát hiện ra chiếc tam bản đang khuất sau hàng tre thưa thớt. Hai vị khách "đào tẩu" nằm co rúm lại trong khoang thuyền. Chiêm nhắc nhủ:
- Chẳng việc gì phải sợ. Trông bọn chúng có vẻ dữ tợn đấy. Nhưng những cặp mắt lừ khừ ấy chẳng thấy được gì đâu.
Từng gợn nước sóng sánh nhấp nhô làm chiếc tam bản tròng trành. Tàu quân Ngô đang tiến đến mỗi lúc một gần. Ngọn đèn tím hắt ra như đang thiêu rụi các vòm lá. Hai vị khách nín thở chờ đợi tiếng la báo động của mấy tên lính gác. Chiếc tam bản tròng trành chao đảo như sắp vọt ra khỏi nơi đang ẩn nấp. Chiếc tàu giặc tiến tới ngang tầm chiếc tam bản. Từ phía trong khoang tàu, bọn giặc vén các khung cửa chớp lên cho khỏi nóng. Các sĩ quan đang yến tiệc linh đình. Vây quanh họ là đoàn ca nhi và đám nhạc công. Tai vị khách nghe thấy tiếng sáo du dương vang ra từ con tàu giặc đang cách họ chỉ khoảng một tầm đá ném. Xuyên qua kẽ lá, họ thấy lũ lính Tàu cúi mình trên sườn tàu nhưng chúng chẳng phát hiện ra gì cả.
Sau khi tàu giặc rời xa, Chiêm bắt đầu lên tiếng:
- Tiện nữ đã nói với quý vị đúng chưa? Hiện giờ chúng ta sắp sửa qua một quãng đồng trống, hãy núp mình lại đi.
Cô lái thuyền cầm lại mái chèo. Không lúc nào thấy nàng nao núng. Vào khoảng canh tư (1 - 3 giờ sáng) chiếc tam bản băng qua ngang sông, nàng báo cho hai vị khách: "Xin quý vị chuẩn bị cập bến ở đây". Thế là họ sẽ có đủ thời gian rời xa trước khi mặt trời lên. Chiêm ân cần chỉ cho họ nhiều trạm dừng kế tiếp trên con đường đến núi Chi Linh.
- Biết lấy gì để cảm ơn cô đây? -Từ Chi lên tiếng.
- Có gì đâu mà ơn với nghĩa. Chỉ mong hai vị trình thưa với vua Lê Lợi rằng thần dân ngài trên dòng sông Đáy vẫn trọn niềm hy vọng và vẫn sẵn sàng phục vụ ngài. Như thế là đủ.
Từ Chi nói chữa lại:
- Nhưng Lê Lợi đã về nơi chín suối rồi. Chắc hẳn cô muốn ám chỉ đến Nguyễn Trãi phải không?
Cô nàng vội nhảy lên thuyền:
- Tôi biết điều mình nói chứ! Chủ Soái Lê Lợi vẫn còn sống!
Quay qua Phi Hùng, Từ Chi hỏi:
- Nè, cháu, ta có nghe nhầm không?
Phi Hùng đáp lại:
- Cô ta bảo Lê Lợi vẫn còn sống.
Phi Hùng dõi mắt nhìn theo chiếc tam bản đang dần khuất vào trong màn đêm. Bao gian truân hiểm trở đã gây chấn động mãnh liệt lên hồn vía người thiếu phụ can đảm này. Tất cả câu chuyện phải chăng chỉ có thế thôi!
- Nè cháu! Nếu cô ta nói thật thì chắc chắn việc không cho phép cải chính tin trên kia nhằm chủ đích duy nhất là cho quân Ngô lơi lỏng việc canh gác ở Thanh Hoá. Thế là có lợi cho Vua Lê Lợi.
- Có thể đấy là một mưu hay kế giỏi đó thưa chú! - Phi Hùng châm biếm - Nhưng than ôi! Chú nghĩ kỹ xem. Không lẽ tụi Tàu từ trên xuống dưới đều có thể cả tin vào một huyền thoại như thế khi chưa nắm đủ bằng cớ rạch ròi! Chúng ta đừng đánh giá chúng thấp quá!
Từ Chi yên lặng. Xét theo lý thì lão nghĩ rằng Phi Hùng đúng nhưng không hiểu sao trái tim lão vẫn tin vào lời nói của cô lái thuyền. Và lão tự nhủ: "Hãy đợi đến núi Chí Linh rồi chúng ta sẽ rõ mọi sự".
Ngay khi ngày ló rạng, họ vội vàng ẩn mình trong một cánh rừng bưởi cho đến khi màn đêm buông xuống mới đi ra. Trước đó, họ đã tin chắc sẽ phải chịu muôn vàn gian khổ khi lần theo con đường trắc trở đầy cạm bẫy từ Nhị Khê đến mạn Nam tỉnh Ninh Bình. Nhưng trời cao lại xui khiến họ gặp được sư cụ Pháp Vân đáng kính và cô lái thuyền tên Chiêm.
Thế là mọi sự trở nên dễ dàng hơn cho họ.
Lê Lợi chết rồi, từ đây quân Tàu chỉ tập trung quanh thành Tây Đô nên hai người không còn e sợ đụng phải quân tuần tiễu ở mỗi khúc rẽ.
Chẳng mấy khó khăn, họ đã đến được trạm dừng đầu tiên theo lời cô lái đò Chiêm chỉ dẫn. Đó là một lữ quán ở vùng ngoại ô thị trấn Vân Sơn. Lão chủ quán đã bị câm kể từ ngày những tên lính khốn nạn say tuý luý tàn sát gia đình lão. Ngược với ý nghĩ thường tình cho rằng những người câm thường đần độn, lão chủ quán này vừa nghe tên "Chiêm" là đã hiểu ngay sự tình. Ngày hôm sau, từ quán "ông chủ câm", Từ Chi và Phi Hùng tháp tùng một số sư sãi lên đường đến tu viện kế cạnh Lam Sơn.
Như thế, từ anh giáo viên làng Bái Thượng cho đến ông chủ làng Cẩm Quan, từ các nông dân, những người bán rong đến người giữ chùa, chăn trâu, tất cả đều nối kết với nhau bằng một tình gắn bó bền chặt phủ lên toàn cõi phía Nam. Điều đó chứng minh chiều kích lan rộng của cuộc nổi dậy, đồng thời đã dẫn họ án binh đến tận cùng rừng núi mạn Tây Thanh Hoá.
Từ đó những người dân sơn cước lực lưỡng, hàm răng trắng ngà trông dáng hung dữ, có tài leo lên vách đá nhanh nhẹn như những chú sơn dương thay thế những người miền xuôi. Họ vực Từ Chi và Phi Hùng lên lưng những chú ngựa lót yên bằng loại vải Mường dày, xỏ chân hai người vào chiếc bàn đạp bằng đồng to tướng rồi đặt tay họ vào sợi dây thừng bằng đay cột vào hàm ngựa. Mỗi người đều đeo một bị đồ ăn thòng lòng trước ngực, thắt lưng lủng lẳng thanh đao dài cùng nhau tiến vào giữa lòng dãy núi hướng về ngọn Chí Linh.
Ngày qua ngày, lúc thì bị cơn bão dữ dội tháng bảy làm sạt lở đất dưới chân, lúc thì chịu gió quất tơi tả, đoàn người vẫn dốc tâm băng qua bao thác cao vực thẳm, ghềnh đá cheo leo hiểm trở để tiến lên các triền núi. Ở mỗi trạm dừng chân, đám dân Mường dẻo dai tỏa ra các miệt xung quanh lượm củi kiếm nước và chỉ trong khoảnh khắc chín được nồi cơm, họ đã dựng lên được chỗ ẩn trú và một cái phản cho hai kẻ "đào tẩu" nằm nghỉ.
Từ Chi ước ao được cảm ơn họ không phải chỉ bằng cử chỉ mà thôi và hỏi han họ nhiều chuyện, nhưng tiếc thay những người này không nói được tiếng Kinh. Lão đành bằng lòng với vài lời của Phi Hùng, có cậy răng mới chịu nói. Ngoài ra, thời gian còn lại lão cứ tiếp tục gặm nhấm trong đầu đề tài về Chủ Soái Lê Lợi. Nếu thật là chuyện khi lũ Tàu Ô "lầm tưởng" Lê Lợi đã chết thì cũng tuyệt không kém nếu các nghĩa quân biết rằng ngài vẫn còn sống. Làm sao cho vẹn đôi bề? Khi thổ lộ rằng vẫn thấy vì sao Thiên Đế lấp lánh trên bầu trời một ánh sáng kỳ diệu, vị sư trụ trì ngôi chùa Lam Sơn có ý báo tin cho y chăng? Nhưng sau đó thì chẳng có ai xác nhận nguồn tin ấy cả! Từ Chi còn nghe vang vang cô lái thuyền tên Chiêm: "Không lẽ cô ta nói dối?" Con người mệnh danh là con rồng Lam Sơn này trông giống ai hoặc trông ra sao nhỉ? Đoàn người càng tiến gần đến núi Chí Linh, Từ Chi càng nóng lòng gặp lại Nguyễn Trãi để mong hiểu rõ ngọn nguồn sự việc. Chàng thanh niên đầy tài năng và nghiêm nghị của ngày xưa ấy làm thế nào để vượt qua những năm đen tối này? Vò võ nơi vùng đất Côn Sơn, Thị Thanh hiền thê chàng phải sống cuộc đời như người góa phụ. Cô nàng đã mất đi nét tươi mát thuở ban đầu, đôi mắt thâm quầng vì bao đêm khóc thầm trên gối chiếc. Còn ba đứa con trai của Nguyễn Trãi giờ đây đã là những chàng thanh niên. Nghĩ đến đây lão thợ mộc bỗng dưng cảm thấy tiếc nuối quãng thời gian lão bỏ "con sư tử Hà Đông" của mình để ra đi phiêu bạt. Lão thật xứng đáng được ví như "cánh bướm đậu rồi lại bay".
Cuối cùng, vào một buổi sáng, khi họ còn cách trại binh khoảng nửa ngày đường, bỗng một toán kỵ binh phi nước kiệu tiến đến. Dẫn đầu chính là Nguyễn Trãi. Chắc chắn trước đó chàng đã được các trạm gác báo tin cho hay.
Phi Hùng như mở cờ trong dạ mắt ứa lệ. Hai anh em nhảy ngay xuống ngựa cùng nhào tới với nhau, tay cầm tay, họ vừa khóc vừa cười vừa ngắm nhìn nhau rồi lại vừa khóc vừa cười vừa ngắm nhìn nhau không dứt.
- Xin chúc mừng chú! Chú đã trở về đây!
Nguyễn Trãi nói với Từ Chi.
Từ Chi vừa đáp lại vừa khóc theo:
- Xin chào cháu, chú đã trở về đây!
Dưới cái khăn trùm đầu với hai tai chó buông xuống những đường nhăn trên khuôn mặt lão thợ mộc tạo cho lão dáng vẻ thật thống thiết. Lão dán chặt mắt vào vị chỉ huy nay trông tưởng như người anh của chàng thanh niên mà lão từng quen biết thời xưa. Cuộc sống gian khổ ngoài sương gió khiến làn da chàng sạm nắng và khắc đậm nét hơn khuôn mặt có phần man dại này. Cặp mắt tinh anh của chàng tỏa sáng ngọn lửa nội tâm. Tia nhìn nghiêm trang đầy uy lực xuyên thấu tâm tư kẻ khác cũng như những hàng chữ trong sách vở. Ai có thể chống lại sự thu hút của chàng?
- Xin mời về trại! - Chàng nói.
Và tất cả phóng ngựa như bay trở về doanh trại vào giờ Ngọ (11- 13 giờ). Từ Chi cảm thấy nơi này giống hệt một thị trấn lớn vào ngày chợ phiên. Chỉ khác một điều: thay vì nhà thì lại là hang, thay vì lũy rào tre thì lại là những tháp canh. Các đoàn người vùng Châu Thổ da sạm nắng xen lẫn những người sơn cước nước da màu chàm tấp nập qua lại không ngừng như bầy kiến trong đáy lò lửa nóng. Khắp nơi người ta đang chế tạo khí giới: cung tên, giáo mác bằng tre, gươm kiếm, móc sắt và nanh sói. Đám phụ nữ, tốp thì đang may chiến bào bằng da trâu, tốp khác đang kết lưới làm bẫy gài. Một y sư và người phụ tá đang giã dược thảo. Tiếng dội lại vang rền tứ phía giống như tiếng hò hét xen lẫn tiếng va chạm vũ khí của đoàn quân đang tập trận. Tất cả đều cung kính nghiêng mình khi thấy Nguyễn Trãi đi qua.
Sau đó họ bước vào trong một cái hang mát mẻ. Một chàng thanh niên đang ngồi vẽ, xung quanh chàng là những bức bản đồ và những bản sao chi chít ghi chú. Nguyễn Trãi giới thiệu:
- Đây là Ba, người làng Kiệu Ngọc.
Ba nghiêng mình rót bình nước vối rồi rút lui ra ngoài. Sau khi trà nước xong, Nguyễn Trãi bảo Phi Hùng thuật lại tất cả sự việc cho chàng.
Từ Chi tính lui ra ngoài nhưng Nguyễn Trãi yêu cầu lão ở lại. Nguyễn Trãi hỏi Phi Hùng:
- Sự kiện ấy xảy ra lúc nào? (ý nói cái chết của thân phụ chàng N.D).
Phi Hùng trả lời:
- Dạ thưa ngày 13 tháng 10 năm Bính Thân (1416). Đến nay vẫn chưa mãn tang phụ thân - Cả hai anh em nhìn nhau lệ tuôn như suối - Ngày nào phụ thân đáng kính cũng nhắc với tiểu đệ về đại huynh. Mãi đến hơi thở cuối cùng, người vẫn phàn nàn vì không gặp lại được đại huynh.
Đôi bờ vai Nguyễn Trãi rung lên trong tiếng nức nở. Suốt một thời gian dài, cả ba đều vùi khóc. Cuối cùng Phi Hùng phá tan bầu im lặng kể tiếp.
- Vào ngày 3 tháng 5 năm Đinh Hợi (1407) đại huynh ngỏ lời từ biệt phụ thân và tiểu đệ tại cửa Nam Quan. Sau đó phụ thân đã lê gót chân tới thiên triều phương Bắc nơi người biết sẽ không bao giờ thoát ra được. Cuộc hành trình của phụ thân và tiểu đệ còn kéo dài thêm bốn mươi ngày nữa. Tiếp đó, họ dẫn phụ thân và tiểu đệ vượt qua Quảng Tây đưa lên thuyền đi trên dòng sông Tây Giang và cuối cùng cập bến tại Quảng Châu. Đến đây tụi nó tạm nhốt phụ thân và tiểu đệ vào trong ngục chờ lệnh xem phải đối xử với phụ thân và tiểu đệ như thế nào. Sau đó ít lâu, phụ thân và tiểu đệ may mắn gặp được bà thím, tức vợ của hiền thúc đây. Bà đang giúp việc cho một người làm quan. Vì không có đủ tiền để mua thức ăn và đút lót cho đám cai ngục nên nếu không nhờ bà thím biệt danh "sư tử Hà Đông" ấy đã rộng lượng giúp đỡ thì chắc chắn phụ thân và tiểu đệ không thể nào sống sót.
Nghe đến những lời này, Từ Chi liền sụt sùi rên siết: "Ôi thật là một người phụ nữ đáng phục! Tìm đâu ra một người đàn bà như thế!". Phi Hùng tiếp lời:
- Quả thật không biết lấy gì báo đền cho đủ lòng tốt của thím ấy! Sau cùng phụ thân và tiểu đệ bắt đầu mất khái niệm về thời gian thì một buổi sáng nọ tên cai ngục đến tìm phụ thân. Kể từ đó người được tuyển dụng làm thư ký cho một ông quan ở Nam Kinh. Thực ra thì phụ thân và tiểu đệ chẳng bao giờ gặp mặt ông ta. Nhà ông ấy toạ lạc bên bờ sông Hoài trống vắng. Phụ thân ở đó chẳng khác gì người tù bị giam lỏng! Biết bao lần, từ xa xa phụ thân đã được nhìn thấy những chuyến tàu xuôi ngược! Phụ thân thường dành thời gian rảnh rỗi sau những giờ làm việc ở thư phòng để bổ túc cho việc học của tiểu đệ và dù trên nguyên tắc tiểu đệ có thể đi lại tùy nghi song tiểu đệ và phụ thân ngày đêm vẫn không hề rời nhau... Sau khi phụ thân và tiểu đệ đến Nam Kinh được vài tháng, bà thím quyết định đi Bắc Kinh tìm người chồng là chú đây đang làm việc trong công trường xây dựng ở thành đô mới. Nhưng than ôi! Trời cao đã không cho bà được toại nguyện. Bà đã bị lên cơn sốt rét và từ trần vài ngày sau đó.
Nghe đến đây, Từ Chi bật khóc nức nở. Phi Hùng tiếp tục nói:
- Bà thím quả thật là nguồn nâng đỡ phụ thân và tiểu đệ trong những ngày gian khổ! Bà nhắc cho phụ thân và tiểu đệ nhớ lại bao chuỗi ngày trước kia. Nhớ xóm, nhớ làng, tình thân giữa bà, phụ thân và tiểu đệ thắm thiết có khác nào tình máu mủ! Bà qua đời khiến phụ thân và tiểu đệ đau xót vô cùng. Mỗi năm phụ thân và tiểu đệ đều làm lễ giỗ bà. Thế rồi vào tháng 9 năm Bính thân (1416), phần thì muộn phiền gặm nhấm, phần thì ngày đêm giam lỏng trong bốn bức tường, phụ thân bắt đầu rơi vào tình trạng suy sụp. Người không ngớt nói về miền đất phương Nam dấu yêu. Nhiều lần, người lên cơn mê sảng và chẳng bao lâu không còn làm việc được nữa. Các lương y được mời đến xem mạch cho người. Vị thứ nhất bảo rằng: "Chân Dương"153 của người đã kiệt, rồi cho người một thang thuốc bổ. Vị thứ hai sau khi xem mạch xong bảo rằng Tỳ vị của người đã kiệt khí và bổ một toa thuốc điều trị Tỳ vị khí. Còn người thứ ba lại nói: Nếu Tỳ vị khí đã kiệt thì trăm thang thuốc cũng chẳng nghĩa lý gì! Nói xong ông ta bỏ đi... Thế rồi ngày 13 tháng 10, bỗng dưng bệnh tình của phụ thân có vẻ đỡ hơn. Tiểu đệ cứ nghĩ rằng bệnh tình của người đã giảm. Người truyền tiểu đệ đến đầu giường và vui vẻ nói với tiểu đệ: "Con hãy đưa áo tang cho cha mặc. Hôm nay cha sẽ ra đi mà lòng không ân hận. Con yêu dấu, con đừng quá sầu muộn. Con đã làm tròn bổn phận hiếu thảo của một đứa con. Con không đến đây với tư cách là một tù nhân, vì thế sau khi cha chết rồi con hãy tìm đến với trưởng huynh con ở phương Nam..."
Phi Hùng ngưng nói.
Nguyễn Trãi mắt vẫn dán chặt vào em rồi bỗng dưng chàng như người thất thần khi phát hiện ra sự trùng hợp kỳ lạ về ngày tháng. Thân phụ chàng mất ngay hôm sau ngày hội thề ở Lũng Nhai. Phi Hùng gọi:
- Đại huynh, anh đau hả?
- Hiền diệt! - Từ Chi kêu lên. - Cháu tỉnh lại đi!
Nhưng Nguyễn Trãi ra dấu cho Phi Hùng cứ tiếp tục nói.
- Ngay sau đó, phụ thân bắt đầu co giật, người lặp lại nhiều lần chữ "con rắn" và còn nữa, không hiểu tiểu đệ có nghe lầm không chữ "tộc đại". Sau đó người tắt hơi yên giấc ngàn thu. - Giọng Phi Hùng trở nên tắc nghẽn. - Đại huynh có hiểu ý của những từ này không?
Nguyễn Trãi đáp:
- Chắc chắn trong giây phút cuối cùng phụ thân muốn nhắn bảo chúng ta đừng sao nhãng việc thờ cúng, ngôi đền "con rắn" tại làng Côn Sơn. Đại huynh chẳng thấy có cách cắt nghĩa nào khác. Được rồi chúng ta phải chăm lo việc thờ cúng ấy. Nhưng tiểu đệ hãy kể tiếp đi.
- Không bà con để nương cậy, không bạc tiền để lo đám tang, thằng em út của đại huynh chỉ còn lại một mình bên xác phụ thân. Chắc chắn tiểu đệ đã nhảy xuống dòng sông bên cạnh đó nêu như tiểu đệ không gặp được hiền thúc đây - vừa nói chàng vừa chỉ vào Từ Chi - Chú ấy đã trở về Nam Kinh tìm kiếm phụ thân và tiểu đệ. Chú đã làm cho phụ thân một chiếc quan tài và phụ với đệ chôn cất người ở mạn Nam thành phố gần miếng đất mang tên "Huê Vũ Địa"154. Tiểu đệ giữ lại bài vị để sau này khi trở về quê nhà sẽ đặt trên bàn thờ. Vì không có lệnh đuổi tiểu đệ ra khỏi nhà vị quan nơi tiểu đệ đang ở, nên tiểu đệ với hiền thúc đây nán lại đó rồi lang thang kiếm việc làm với mục đích dành dụm tiền để trở về quê xưa. Vào dịp lễ thanh minh (Lễ Tàu vào tháng 3 Âm lịch, người ta đi thu dọn sạch sẽ mồ mả, nghĩa là thăm viếng mồ mả tổ tiên), tiểu đệ nhận thấy bên cạnh những đám mộ của người khác phủ xanh cỏ óng ả, mộ của phụ thân thì cỏ khô vàng úa. Vì chỗ mai táng ấy không phải là cát địa thuận tiện, cho nên tiểu đệ quyết định đem nắm xương tàn của phụ thân trở về cố hương. Nhưng làm cách nào để xin được giấy phép đây? Bởi quá nghèo không có tiền đút lót nên dù đã xin xỏ nhiều, tiểu đệ cũng vẫn hoài công vô ích ròng rã suốt một năm trời. Cuối cùng tiểu đệ van vái với trời và ngài đã cho tiểu đệ được toại nguyện. Vị hoạn quan lo việc cấp giấy thông hành nói với tiểu đệ: "Trong trường hợp này phải công nhận rằng quan bảo hộ của chú em, tức tướng Thái Phúc đó, ông ta rộng lượng lắm. Đức ngài vừa xem xét đơn của chú em liền nới rộng đến chính bản thân chú em lòng ưu ái mà trước đây ngài đã dành cho cụ ông, và giấy phép này cũng cho chú em quyền chọn lựa người tháp tùng."
Nguyễn Trãi giật mình:
- Thái Phúc à? Có phải ông ấy chỉ huy đoàn tội đồ phát vãng155 đưa phụ thân sang Tàu không?
- Đích thị ông ấy! Lúc đó, ông ta còn là phó tướng, về sau đã được thăng cấp tướng.
Từ Chi la lên:
- Ít ra cũng có một thằng Tàu tốt như thế dưới bầu trời này chứ!
Nguyễn Trãi đưa tay hướng về lão nói:
- Chúng ta đừng cho rằng tất cả mọi người đều hư hỏng và chỉ mình chúng ta là tốt lành. Phải chi có được nhiều người tốt bụng như thế thì đế quốc phương Bắc đã tránh được sự căm thù của chúng ta cũng như cơn giận của các thần linh. Hai nước sẽ thắt chặt mối dây hữu nghị và chiến tranh sẽ vĩnh viễn chấm dứt, "tứ hải giai huynh đệ" mà! Chúng ta chiến đấu không phải để chống lại dân tộc Tàu, chúng ta chỉ chống lại những kẻ nhân danh Tàu để xâm lược đất nước chúng ta, tiêu diệt nền văn hoá của chúng ta. Chúng ta chỉ chống lại đất nước Trung Hoa trong ý nghĩa chúng ta chống lại bè lũ đế quốc thời Hán hoặc thời Đường nuôi đầy tham vọng chiến thắng và xâm lược. Vì thế xin đừng bao giờ quên rằng chính đạo nhân nghĩa và tinh thần độc lập thôi thúc chúng ta chiến đấu và có thể có một sự bạo lực chính đáng không thù hận.
Những lời Nguyễn Trãi vừa nói khiến tâm trí Phi Hùng như được mở rộng thêm. Đây đúng là những lời thốt ra từ cửa miệng một người vừa là một tay hoạt động vừa là một nhà tri thức. Phi Hùng đã tìm lại được người anh cả mà ngày trước chàng vừa khâm phục vừa đôi khi cảm thấy ganh tỵ.
Một lúc sau Phi Hùng từ túi xách rút ra một cuộn giấy có cột dải lụa trao cho Nguyễn Trãi và nói:
- Trong chuyến ghé thăm Côn Sơn, đại tẩu (chị dâu) có nhờ tiểu đệ đem cho đại huynh những bài luận văn của cháu Khuê, đồng thời có kèm theo một lá thư.
Nguyễn Trãi đưa bàn tay run rẩy cầm lấy và nói:
- Tiểu đệ ơi! Tiểu đệ đã chu toàn tất cả các bổn phận của người con hiếu thảo mà lẽ ra thuộc về bổn phận người trưởng nam. Nhờ tiểu đệ và hiền thúc đây, phụ thân đã được yên nghỉ nơi quê cha đất tổ với nghi thức thật chu đáo...
Kế đó, Nguyễn Trãi hỏi thăm tin tức vợ con chàng. Cuộc hàn huyên liên tục kéo dài từ câu hỏi này đến câu hỏi khác. Thừa dịp hai người vừa ngừng nói, lão Từ Chi đưa ra câu hỏi sục sôi trong lòng lão ngay từ lúc đầu:
- Hiền diệt ơi! Nơi này người ta bảo Lê Lợi đã chết. Nơi khác thì người ta bảo người đang còn sống! Sự thật ra làm sao?
Nguyễn Trãi đáp:
- Đức ngài Lê Lợi...
Nói chưa dứt thì ngay lúc đó có tiếng ồn ào từ phía bên ngoài và nơi cửa hang chợt tối sầm, hiện ra một bóng người mình cọp lưng sói, quai hàm dữ tợn, giọng nói rền vang:
- Quân Sư Ức Trai! Ta tìm ông đây. Ta cần cao kiến của ông...
Và vừa chỉ vào Từ Chi và Phi Hùng, vị ấy hỏi:
- Những người này là ai vậy?
Nguyễn Trãi đưa tay giới thiệu:
- Thưa đây là Từ Chi bằng hữu của thần. Ông ta là một thợ mộc danh tiếng làng Nhị Khê và đây là Phi Hùng, người em út của thần. Cả hai vừa từ Trung Quốc đến để phục vụ ngài.
Từ Chi vừa ngắm người đàn ông từ trên xuống dưới vừa buột miệng hỏi trong khi Phi Hùng kéo tay áo lão ta tính ngăn lại.
- Còn ngài xin cho biết ngài là ai?
Nguyễn Trãi vội nói:
- Đây là Bình Định Vương Lê Lợi Minh Chủ của chúng ta đó!
Con rồng Lam Sơn bật cười khi Từ Chi hết hồn phủ phục xuống trước mặt ngài. Và Phi Hùng, sắc mặt biến đổi, cũng vội bắt chước phủ phục theo.
[←151]
Tang cha hoặc mẹ, mang trong ba năm
[←152]
lối chơi thông dụng ở Quảng Châu
[←153]
Một trong hai nguyên lý nền tảng của y lý Trung Hoa
[←154]
đất của loài hoa mưa
[←155]
(Từ cũ) đày đi nơi xa (một hình phạt).