← Quay lại trang sách

Chương 4

Buổi chiều đông đang buông xuống trên những ngọn núi mờ sương. Một cơn gió đẫm nước mưa thổi tới. Những người gánh hành lý và những người đi theo hộ tống bước nhanh vội vã tìm chỗ trú mưa. Nếu cứ nhịp độ này mà tiếp tục đi thì chỉ thời gian chưa bằng nấu chín nồi cơm là họ đã tới Côn Sơn.

Nguyễn Trãi, mệt nhoài vì những ngày dài đằng đẵng vừa rồi phải đi ngựa băng qua những ngọn núi phía bắc, giờ ông ngồi thu gọn mình trong chiếc cáng của ông. Trên đường đi, ông nghĩ:

- Sau hai mươi năm chiến đấu khắp đó đây, rồi thêm mười năm nữa ở triều đình, có ai nghĩ được rằng cái thân già của mình lại là nạn nhân của danh lợi trong khi tâm hồn của mình vốn không màng tới nó?

Tuy nhiên, Nguyễn Trãi vẫn còn bận tâm về những dân tộc thiểu số ở vùng núi xung quanh Lạng Sơn mà ông vừa mới đi thanh tra. Sau khi đích thân dẹp tan bọn Mường liên kết với nước Ai Lao ở phía Tây đất nước, lần này Đức vua có cần phải tung một cuộc chinh phạt đến với người Thổ ở phương Bắc không? Ông nghĩ tới những hy sinh của những tù trưởng Mường, như Lê Lai biệt danh Vượn và Hiểm biệt danh Con Chồn ngoài hang, mà thở dài. Rồi trở về với hiện tại: Những vùng phía Đông và phía Bắc mà ba năm trước đây, năm Kỷ Mùi (1439), Hoàng đế đã giao cho ông nhiệm vụ kiểm soát, vùng ấy chính là cái then cửa, là đồn lũy bảo vệ cho Kinh Thành. Nắm vững trong tay những vùng này, những con đường xâm lược cổ truyền, là bảo vệ sự thịnh vượng và ổn định cho Đại Việt. Công việc đó chẳng đáng cho ông phải lo lắng mất ăn mất ngủ sao?

Đoàn người ấy đã lũ lượt đến gần Côn Sơn. Trời bắt đầu rơi xuống một cơn mưa bụi. Để lại ở phía đông ngôi làng mà các nhà đều đóng cửa, Nguyễn Trãi đi vào rừng thông âm u nơi mà lúc ông vừa tiến vào một buổi chiều từ thế kỷ trước, đã gặp Atagana xuất hiện với bó đuốc cầm trong tay. Bây giờ thì chính chú Ba, chú Ba trung thành của ông, đang chạy ra nghênh đón ông, với cây đèn trên tay.

- Thưa Tôn sư, đáng lẽ ra ngài đã về đến đây từ hai ngày rồi mới phải! Chúng con cứ lo sợ có tai nạn gì xảy ra không?

Cẩm, vợ của chú Ba, và Nụ Nhài đã đón tiếp Nguyễn Trãi ở bậc cửa. Gương mặt của họ ánh lên vẻ hài lòng khiến cho vị nho sĩ dù mệt lả cũng phải mỉm cười. Ông vui vẻ phó mặc cho họ chăm chú săn sóc mình. Cuối bữa ăn, chú Ba đem điếu thuốc lào lại cho ông và nói:

- Thưa Tôn sư, hẳn là ngài mệt lắm cho nên hầu như chẳng ăn gì cả. Tại sao ngài lại phải cứ bôn ba di chuyển trong những vùng núi non độc địa ấy mãi? Tốt hơn ngài nên bắt chước những ông quan kia cứ ngồi trên ván mà điều hành cả cái tỉnh của họ, chẳng cần phải đụng tới một ngón tay, cho dù trời có long, đất có lở đi nữa. Trách nhiệm của ngài có lớn lao tới đâu, thì nhà vua cũng không thể đòi hỏi ngài phải nhiệt thành đến thế.

- Không phải ta mắc phải cái bả quyền quý mà Hoàng thượng cuối cùng đã ban cho người bầy tôi già như ta. Chỉ có nỗi lo lắng cho dân chúng mới thúc đẩy ta hành động mà thôi. Đó chẳng phải là một lý do đầy đủ sao, chú em?

Chú Ba đành phải gật đầu với vẻ nghi ngờ và đi lấy thuốc lào. Lúc chú trở lại thì ông thầy đã thiu thiu ngủ, đầu nghiêng một bên. Dù trong giấc ngủ, các ngón tay ông vẫn nắm lại giống như đang cầm một cây bút vò hình. Ông mang trên mình những nét mệt mỏi vô cùng. Suốt ba năm trôi qua, ông phải đi đi lại lại từ đông lên bắc để kinh lý thanh tra, tiếp đón những người nghe danh ông ở Côn Sơn tới thăm, thức khuya làm việc viết sách, nên ông đã già đi nhiều, má ông hóp lại, vai xệ xuống, cái búi tóc của ông đã trắng xóa.

Cẩm đi tới, thấy chồng mình đang mủi lòng nhìn ngắm ông thầy đang ngủ, nên cũng bỏ đi.

Chú Ba lấy điếu thuốc lào của mình ra rít mấy hơi, suy nghĩ xem có phương cách nào ép buộc ông thầy phải nghỉ ngơi. Ngoài trời, cơn mưa đang lộp độp rơi trên những tàu lá chuối. Nguyễn Trãi ngủ trong hơi thở đều đặn. Sau khi đã xây dựng một sự nghiệp như thế, đạt được một tiếng tăm như thế, có người nào tuổi đã già mà lại không nghĩ tới chuyện vui hưởng sự nghỉ ngơi xứng đáng với công lao của mình tại cố hương?

Vị chủ nhân đã quyết định như thế khi mà cả hai đã trở lại Côn Sơn năm Mậu Ngọ (1438). Một người đứng tuổi chín chắn như chú Ba đã thấy được việc về hưu này là tất yếu, và sẽ là dứt khoát, không thể không xảy ra. Chán nản mệt nhọc vì cuộc phấn đấu vô ích chống lại bọn triều thần bần tiện, ghê tởm vì những trò hèn hạ ti tiện của bọn quan lại, bị phản bội, bị mất tất cả, nhà nho đã về ở ẩn không còn mong gì hơn là được bình an. Chú Ba nhớ tới những lời của ông lúc đó: "Ta cầu mong Hoàng thượng sẽ được như vua Nghiêu và Thuấn, còn về phần ta, được hưởng những vui thú nơi thôn dã". Họ nhìn tận đáy mắt nhau và khám phá ra họ rất giống nhau ở chỗ cùng thoát khỏi ảo tưởng đến nỗi lúc này họ cảm thấy mình là anh em: nhà nho sĩ vĩ đại, vị quan rất uy tín, và chú, người nông dân dốt nát. Vả lại, chính như thế, chú Ba mới tự giải thích được sự kiện là Nguyễn Trãi, kể từ ngày đó, đã nhận chú là người tâm phúc có chân trong cái thế giới âm thầm của ông, đã cho rằng chú xứng đáng để nghe ông tâm sự: "Chú Ba ạ, tôi chỉ còn yêu thích chữ nghĩa, là cái ơn Trời cho, và yêu cái ngọn núi quê hương của tôi!".

Tiếng hút thuốc lào vang lên xen lẫn với tiếng mưa rơi. Từ phía trong căn nhà vọng ra chỗ chú những giọng nói quen thuộc. Ông thầy vẫn bình an tiếp tục giấc điệp.

Không còn ở triều đình nữa, Nguyễn Trãi trở lại làm một người dân trong làng như bất cứ một người dân nào của Đại Việt. Cái làng mà người ta bảo vệ trước tiên, nơi mà người ta trở về để chết. Hàng nghìn ngôi làng như thế này đã đem lại mùi vị và màu sắc cho hai tiếng "quê hương", "tổ quốc". Danh tiếng của ông ở đây đã đến đó trước ông. Người ta chạy tới gặp ông. Người ta đã chỉ ông cho đám thanh niên trẻ tuổi nhất và giải thích cho chúng biết nhà nho râu bạc có vẻ như một hiền nhân kia là ai, và chúng hân hạnh như thế nào được là dân cùng một làng với ông, và chính chú Ba, người bạn đơn sơ của ông, cũng cảm thấy được tham dự vào vinh dự của ông. Nửa là nhàn hạ, nửa là siêng năng đèn sách như thế, cuộc sống ở Côn Sơn được tổ chức than ôi khác hẳn với thời gian trước đó. Chẳng bao lâu trước khi họ về đây, không hiểu làm sao Nụ Nhài ở mãi tận ngôi chùa của nàng lại biết được, để rồi một buổi sáng đẹp trời kia, cô nàng trở về với ông chủ yêu quý của mình, với cái đầu trọc của một ni cô, còn tính tình thì hơi khác thường. Cho dù nàng cố gắng hết sức, với tư cách là bà chủ không ai chối cãi ở đây, để làm sống lại ngôi chùa xưa, để trồng mía và rau mùi trong khu vườn bỏ hoang, nhưng tất cả mọi nỗ lực của nàng đều tỏ ra không kết quả. Không gì cản trở được bước đi khắc nghiệt của thời gian, ngăn trở được những gì đã thuộc về quá khứ khỏi bị tiêu diệt và không bao giờ chấm dứt. Gần như là một thứ bất ổn về mặt thể trạng, khi thấy Nguyễn Trãi về đây sống, chú Ba đã có ý tưởng đó.

Mặc dù nhà nho sĩ có vẻ rất hài lòng được hoàn toàn tự chủ, ông thường ngao du khắp đó đây với túi thơ trên vai, một nỗi buồn thường xuyên làm cho ông như bị cô lập khỏi mọi người, tương tự như đám sương mù trên đỉnh núi. Những thói quen từ thời còn hạnh phúc trong tay, nay đều hoàn toàn thay đổi, ban ngày thì ngao du, còn ban đêm thì làm việc. Không cần phải lệnh buộc giữ im lặng, mọi người cũng đều có thể chăm chú lo công việc của mình trong bầu khí hoàn toàn yên tĩnh, còn thư phòng của ông thì mở rộng cửa và ông nhường hẳn cái lều ở bên bờ ao để cho những đứa cháu nội của ông tới chơi đùa. Có thể nói rằng, sâu xa hơn những niềm ước mơ bị hụt hẫng của ông, mối tình chôn chặt tận thâm tâm ông vẫn luôn thiêu đốt ông. Không bao giờ ông đả động hay nói xa gần gì tới người hầu thiếp của ông, nhưng nàng vẫn hiện diện trong từng tiếng thở dài, từng ánh mắt, từng cử chỉ, từng nét bút và trong bài thơ về con chim én lạc đàn. Chú Ba cố gắng nhớ lại những câu thơ đó. Những câu thơ đó, là dành cho nàng chứ gì nữa? Tuy vắng mặt, nàng Thị Lộ xinh đẹp vẫn tiếp tục ngự trị trong trái tim của nhà nho bằng mãnh lực của thương nhớ, và bằng mãnh lực còn cay độc hơn: của ghen tuông...

Mưa vẫn tiếp tục rơi, vị nho sĩ vẫn ngủ. Ba thở dài. Nếu định mệnh cũng đặt y vào giữa Đức Thiên Tử và người phụ nữ mà y thương yêu như trường hợp ông thì y sẽ làm gì đây? Một bên là bổn phận của một thần dân cung kính, một bên là hạnh phúc cá nhân của mình? Chỉ còn có nước là đoạn tuyệt, rời xa và đau khổ chứ làm gì khác hơn? Chú đổ nước vào ống điếu và nhồi thuốc lần nữa. Chú nhìn kỹ ông chủ đang ngủ mà Nụ Nhài vừa mới lấy một cái mền kép đắp cho ông với lòng trìu mến vô hạn. Từ muôn thuở, số phận đã ràng buộc chú vào con người siêu phàm này kể từ cái ngày xa xôi ấy, ngày mà chú đã kéo ông ra khỏi cái vụ lộn xộn tại chợ Bạch Mã. Cái ngày ấy, chú đã nhìn thấy ông tỏ ra bản lĩnh tuyệt vời khiến mọi người đều phải khâm phục, vì ông vững tin vào cái sức mạnh có thể lay chuyển cả trời đất. Và dù hôm nay, mặc dù vẫn giữ nguyên một lòng tôn kính ông, và vẫn dám đứng ra bảo vệ ông thì chú vẫn phải tự thú rằng chú phải than phiền tội nghiệp cho ông. Ba cảm thấy lòng đang bối rối, khó chịu, thậm chí sợ hãi về điều đó, y như chú đã xúc phạm đến ông vì đã giản lược ông vào những chiều kích của thân phận con người thường. Có phải chú quên rằng đã ba năm nay Đức vua đã kêu gọi Nguyễn Trãi hồi triều, cho ông lên chức Đại Tư vấn thay thế cho tay bất lương Thúc Huệ, và cuối cùng đã giao phó những công việc dân sự cũng như quân sự của hai miền Bắc và miền Đông cho ông, với quyền ưu tiên được ở Côn Sơn tùy ý ông?

"Ông chủ đã quá mệt mỏi!", Ba tự nhủ và hổ thẹn về những tư tưởng của chính mình.

Không, chú đâu có quên cái ngày hôm đó, một sứ giả phi ngựa thật nhanh từ kinh đô tới, tưởng chừng như thời gian quay vòng tròn với những màn cảnh cứ lặp đi lặp lại. Chú cũng không quên những biểu lộ khác nhau hiện lên trên nét mặt của ông chủ khi nhận được tin báo ông được triệu hồi về triều: sự ngạc nhiên vui mừng với chút mủi lòng của một quan Thái phó như ông đang gặt hái kết quả của những bài học mình dạy. Sự hài lòng sâu xa vì sẽ hữu ích cho nhà vua và đất nước, rồi đến sự phật ý bất ngờ khi ông nghi ngờ rằng nhờ Thị Lộ mà ông mới được bổ nhiệm chức đó, và mối nghi ngờ đó giống như một con sâu len lỏi vào lòng ông. Tất cả những tâm tình ấy, chú Ba biết rằng nơi con người nhà nho này, cái ý thức về bổn phận sẽ chiến thắng vượt qua hết. Ồ, chú không cần phải biết cổ thư hay kinh điển mới hiểu được ông chủ của chú, lòng kính yêu là đủ.

Tiếng trống làng từ xa đã điểm canh ba (11 giờ đêm đến 1 giờ sáng). Đang còn ê ẩm cả mình, Ba bỗng quay đầu, Cẩm vợ chàng vừa chạm vào cánh tay chàng, vừa chỉ vào ông chủ.

Cả hai tiến tới, đặt Nguyễn Trãi ngả lưng lên tấm phản, phủ tấm chăn lên đắp cho ông, vì khí trời ẩm và lạnh.

- Việc gì phải lao tâm tổn lực đến thế?

Ba chỉ nhún vai im lặng như đành cam chịu! Hiện tại, những trách nhiệm quan trọng của ông thầy cho phép ông thực hiện một vài giấc mơ của ông. Ông chờ đợi đã lâu và chắc chắn ông cảm thấy cần phải làm gấp. Nhưng Ba không nói điều đó.

—★—

Niên Hiệu Đại Bảo, năm Tân Dậu Thứ Hai (1441).

Mùa Xuân, tháng Ba.

Hoàng đế truất phế Hoàng hậu Dương Thị Bí, mẹ của Nghi Dân, và truất phế chức Thái tử của Nghi Dân.

Rồi:

Mùa Đông, tháng 11,

Hoàng tử Bang Cơ được lập làm Hoàng Thái tử, mẹ của Thái tử được phong làm Hoàng hậu Mẫu Nghi dưới danh hiệu Tuyên Từ.

Giữa hai mục ghi chú ấy của sử quan, người ta đọc thấy Tân Hoàng hậu, Tuyên Từ, trong đó đã có những âm mưu quanh quéo thuộc loại lão luyện.

Chỉ cần tám tháng là đủ để Tân Hoàng hậu khiến Nhà vua truất phế Hoàng hậu đương kim Dương Thị Bí, thanh thoát và quá nhu mì, truất ngôi Thái tử của con trai bà ta và đặt con trai của nàng thay thế, mới sinh ra được có mấy chục ngày. Không đầy chín tháng cưu mang, giấc mơ vinh quang của nàng đã được sinh hạ được làm mẹ của vị thiên tử tương lai. Thế là nàng đã trở thành vị Hoàng hậu Mẫu nghi. Thế mà vào năm Mậu Ngọ (1438), một người đàn bà khác không có lòng tin tưởng vào số mệnh của mình như nàng, thì đã sẽ thất vọng khi nghe tin Dương Thị Bí, với sắc đẹp dịu hiền khôn tả, đã được chọn làm hôn thê Hoàng hậu. Sau một thời gian thâm gan tím ruột, nàng đã vùng dậy đứng thẳng mình lên được. Dù Dương Thị Bí có bà con với Thái hậu, là những món hàng phế thải, là những thê thiếp úa tàn của cố Hoàng đế, những tưởng rằng họ sẽ làm chủ Tam Cung, thì nàng, tay Tuyên Từ này, cũng biết cách phong tỏa cái mụ Hoàng hậu kia! Không một khó khăn nào làm nàng nản chí, không một ngăn trở nào khiến nàng bỏ cuộc, và cũng không một phương tiện nào nàng không lợi dụng làm con đường dẫn đến ngai vàng. Và dù Dương Thị Bí có mang bầu và sinh hạ một hoàng nam đi nữa, có mang trong bụng một người con sẽ làm Hoàng đế đi nữa, cũng chẳng khó khăn là bao, trong việc tán tỉnh vị Hoàng đế trẻ lúc nào cũng sẵn sàng si mê một gương mặt mới trẻ đẹp! Đành rằng, như người ta nói, Hoàng đế đã mê mẩn nàng Thị Lộ đến độ phong cho cô nàng chức "Lễ Nghi học sĩ" sau khi đã cướp nàng khỏi tay ông già Nguyễn Trãi, quan Thái phó của ngài. Nhưng vì hơn Hoàng Đế tới 15 tuổi và không sinh con, nên Thị Lộ chỉ có thể làm bạn đồng hành với ngài thôi. Còn nàng, Tuyên Từ, ngoài cái sắc đẹp đang thì, nét duyên dáng làm mê mẩn người nhìn của nàng, nàng còn tin tưởng vào sức mạnh kỳ diệu do nghệ thuật vờ vĩnh của nàng, và cái nghệ thuật "vành trong tám nghề"196 mà nàng học được lý thuyết nơi một mụ tú bà đang phụ trách nấu nướng trong nhà. Dù nàng vẫn còn trinh tuyền, nhưng nàng rất rành sử dụng quyền lực của nàng đối với đàn ông. Thị Lộ chỉ mới khai tâm cho Hoàng đế, còn nàng, trong lĩnh vực này nàng sẽ tỏ là một tay cao thủ. Rồi đây, mê mẩn vì những âu yếm vuốt ve của nàng, Hoàng đế sẽ là sở hữu của nàng, sẵn sàng chiều theo mọi ý muốn của nàng.

Tin chắc vào số phận huy hoàng của mình, nàng chờ đợi và nắm ngay cơ hội thuận lợi qua con người của tên thái giám Đinh Phúc, người phụ trách cung ứng lạc thú cho Đức vua, dám coi thường tất cả những luật lệ cấm197. Nàng đã nhờ hắn để lộn ngược cái thẻ ngọc chữ vàng mang tên nàng tại mật phòng trong hoàng cung. Khi Ngư thê Hoàng hậu sinh ra cái thằng "đẻ non", nàng đã thực hiện phần đầu trong chương trình của nàng: được gọi hết đêm nay đến đêm khác phục vụ Hoàng thượng. Và khi đứa trẻ đẻ non ấy được phong làm Thái tử vào đầu năm Canh Thân (1440), thì nàng đã cảm thấy cái thai may động, cái thai mà sau này sẽ làm Thiên tử. Vì không một giây phút nào nàng lại nghi ngờ rằng đó không phải là một đứa con trai. Nàng sẽ làm cho đứa trẻ này trở thành Thiên tử bằng cách dựa vào quyền lực đáng sợ của bọn hoạn quan.

Nàng đã hoàn toàn mua chuộc được bọn Đinh Phúc, Đinh Thăng. Nhờ họ, nàng biết rằng Hoàng hậu Dương Thị Bí vì không có khả năng làm tròn được vai trò mà các Thái Hậu và phe các quan võ mong đợi nên đã làm cho họ thất vọng. Nắm chắc điều đó, bằng một cách cực kỳ khéo léo, nàng dần dần làm cho bọn giám sát kia phải nhìn nhận nàng, là người ở cạnh Hoàng đế, sẽ sẵn sàng phục vụ cho lợi ích của các Thái hậu. Thế là những tên giám này thông báo điều đó cho những tên đồng sự của chúng làm thái giám ở cung các Thái hậu, và những tên thái giám này lại thông báo điều đó cho các bà này hay.

Mỗi lúc đến trình diện các Thái hậu, nàng đã khéo léo giả bộ đơn sơ khiêm nhượng và tỏ ra có uy thế rõ ràng để chứng tỏ nàng đúng là người phù hợp nhất để đóng vai trung gian. Nhờ bọn giám báo cho biết về cuộc đối thoại kỳ dị ở hai bên bức mành sáo lớn vẽ chim phượng hoàng - được kéo lên và hạ xuống trước mặt các vị Thái hậu, những món hàng phế thải ấy, nên nàng đã trả lời ngắn gọn và chính xác những câu hỏi mà một thị nữ đã nói cho nàng sau khi đã nghe được từ chính miệng các Thái hậu. Điều mà nàng đã đoán được khi giật lùi cáo thoái, chính là điều mà Đinh Phúc và Đinh Thăng đã rất hài lòng xác nhận với nàng: Các Thái hậu từ nay sẽ ban cho nàng cái vinh hạnh là được các ngài tin dùng. Cuộc viễn chinh xảy ra một cách rất đúng lúc, chống lại quân phiến loạn của tên Nghiêm ở miền Nam giúp nàng chứng tỏ sự hữu hiệu của nàng. Sau khi đã làm lễ hiến tế các tù binh tại đền thờ các vị tiên vương, Hoàng đế làm sao có thể từ chối được điều gì đối với các vị tướng đã thắng trận là những người liên kết với nàng? Chẳng bao lâu sau, Hoàng hậu Dương Thị Bí bị sa thải và con trai bà bị truất phế. Nàng đã run lên vì vui mừng nhưng vừa phấn khích lại vừa lo lắng. Cái ngăn trở lớn nhất đã vượt qua, bây giờ còn phải làm sao để cho đứa con trai mà nàng sắp sinh hạ vào mùa hè nóng như thiêu này được đặt làm Thái tử.

Tuy nhiên, trong năm Tân Dậu này (1441), đang lúc công việc của triều đình còn khá bề bộn, việc tấn phong có lẽ chưa thể thực hiện được. Mặc dù sự khuyến khích thúc bách của các Thái hậu đầy uy quyền, còn ai dám gây ảnh hưởng lên Hoàng đế? Phải chăng là Thị Lộ, tình nhân cao tuổi của Đức thánh thượng, hiện đang được con thứ phi Ngọc Dao phụ họa? Đức thánh thượng cao hứng đã phong con thứ phi này làm "giám quản Tam Cung". Chà! Cần phải để mắt đến con thứ phi đĩ thõa trơ trẽn này mới được! Chưa hết, đằng sau hai đứa này là phe cánh đối nghịch với ả, gồm một lũ ăn hại đòi cải cách, được tay già lẩm cẩm Nguyễn Trãi xúi giục, cả bọn này rất nhiệt tình bênh đỡ đám dân đen và biện hộ cho tên phản bội Hồ Quý Ly.

Không lẽ gần tới đích rồi mà Trời cao bỗng dưng lại thôi không còn phù trợ ả nữa sao? Có nên tin cậy vào lời đoan chắc của tay Chiêm tinh kỳ cựu ở triều đình rằng Hoàng tử Bang Cơ, con ả sẽ lên ngôi không? Cũng chỉ tại cái bản tính của Hoàng đế thì hay thay đổi như dòng nước. Làm thế nào ngăn cản không cho ngài phá vỡ kế hoạch đã được xếp đặt chu đáo như thế? Tháng 9 rồi tháng 10 lần lượt trôi qua.

Bây giờ là tháng 11. Tin tức vẫn thường xuyên qua lại như con thoi giữa cung vị các Hoàng thái hậu và các phòng vua ngự. Giữa lúc Tuyên Từ sắp sửa tuyệt vọng thì đột nhiên long trọng trước cả triều đình, chiếc ngọc tỷ nặng nề đã được đóng vào chỉ dụ tấn phong: thế là con trai ả được lên ngôi "Đông cung Thái tử".

Dù mưa móc198 rơi từ chín tầng trời xuống cũng không êm mát hơn đối với vầng trán đang vô cùng phấn khích của ả. Từ đây ả, Tuyên Từ này sẽ nối gót các Hoàng thái hậu, đồng minh của ả, nắm lấy vinh quang và quyền lực. Dưới chân ả, các chức sắc cao cấp nhất triều đình cũng như các bậc nho sĩ thông thái nhất cũng phải dập trán cúi lạy.

Tuy nhiên, một vết rạn đang bắt đầu hình thành ngay giữa lòng chiến thắng. Phương cách mà ả đã sử dụng để chiến thắng biết đâu đến phiên nó lại không đánh gục lại ả. Nghĩ thế, lòng ngập tràn nghi ngại, Tuyên Từ thường xuyên cậy dựa vào lũ mật thám cặp mắt "chuồn chuồn" láo liên, miệng lưỡi "cú mèo" tọc mạch để nghe, để nhìn, nhằm nắm biết được tất cả mọi sự. Sau khi đã chiến thắng, Con Rồng tương lai vẫn cần có thời gian để lớn lên. Trực giác bảo cho Tuyên Từ hay, mối nguy hiểm nếu có thì chỉ có thể xuất phát từ một người đàn bà khác đầy đủ mưu mẹo cố cướp lấy của ả những gì ả đã gây dựng nên bằng ngay chính những phương tiện ả đã sử dụng. Vì thế đến một cái lông mi nhay động trong hậu cung cũng không thoát khỏi mắt ả. Nhờ tên hoạn quan Đinh Phúc vừa mới được phong Thái giám, Tuyên Từ nắm rõ danh sách những cung nữ được Đức vua gọi đến nhiều đêm liên tiếp và dùng móng tay chuốt vàng, ả ghi dấu vào cuốn sổ "Danh Bạ tên quý" (ghi năm tháng ngày giờ các cung phi ở hậu cung ăn nằm với vua) do Đinh Phúc quỳ gối nâng ngang tầm mắt dâng lên.

Buổi sáng hôm nay dịu dàng tươi mát hơn mọi ngày. Làn xuân phong từ Hồ Tây thổi về mang theo mùi hương ngào ngạt. Chỉ nhìn vào cái tên họ này, Tuyên Từ bỗng dưng cảm thấy tê buốt, ruột gan như đốt như thiêu: Cung phi Ngọc Dao!

Ả giật thót người lên mạnh đến nỗi quyển "danh bạ" trong tay Đinh Phúc suýt rơi xuống đất.

Theo báo cáo chính xác tỉ mỉ của tên giám quan được đặc cách chỉ định theo dõi, con "đĩ" giang hồ Ngọc Dao này được thánh thượng để mắt sau một buổi triều yết và được phong chức "Giám quản Hậu cung" một cách đáng ngờ, hiện đang mang thai.

Trên khuôn mặt bỗng như thắt lại, nhợt nhạt, đôi mắt Hoàng hậu Tuyên Từ trông giống như hai họng giếng đen ngòm, hoảng hốt. Bờ môi đỏ hồng bé nhỏ của ả như tươm tươm máu đào:

- Thái giám, hãy cho gọi nhà chiêm tinh đến đây!

Vừa nói xong, ả lại khoát tay ra dấu đổi ý. Lão thầy bói lẩn thẩn này há đã chẳng từng tiên báo một trong các thứ phi sẽ sinh hạ một vị anh quân kế vị con ả sao? Giờ lại kêu lão đến để xác nhận lại điều đó à? Ôi đây chỉ toàn là chuyện tào lao nhảm nhí! Được cái bà "mai" cao tuổi Thị Lộ giúp đỡ, hiện giờ con cung phi Ngọc Dao có lẽ đang ngự trị hoàn toàn trong trái tim rất bạc nhược lẫn giác quan phóng dật199 của Hoàng đế. Hẳn cô nàng cũng ấp ủ trong chiếc bụng đậu thai của mình những mộng mơ mà Tuyên Từ đã từng ôm ấp. Tất cả nỗi lo sợ của ả nằm ở chỗ đó. Hiện đang là tháng 2 năm Nhảm Tuất (1442), theo ả tính toán thì ấu nhi của Ngọc Dao sẽ được sinh ra vào tháng 7.

Tay Thái giám táo bạo ngắt ngang dòng suy tưởng của nữ chủ:

- Nếu để đứa bé này chết ngay lúc chào đời thì có khó khăn gì đâu?

Cụp mắt nhìn xuống Đinh Phúc, vị Hoàng hậu chợt nhớ ra hắn và đồng bọn quả thật sành sỏi về đủ dạng độc được, từ thứ công phá chầm chậm đến thứ cực nhanh. Làm như chẳng thèm để ý tới lời gợi ý, Tuyên Từ sửa lại dáng vẻ uy nghi. Dại gì chạy theo một sự liều lĩnh đầy nguy hiểm! Biết đâu Ngọc Dao lại sinh ra một bé gái thì sao? Tia nhìn hung tợn bỗng dưng chuyển sang nét hiền dịu giả tạo, Tuyên Từ nói:

- Thái giám, hãy lập tức mời ngài Thúc Huệ cho ta.

Tay Thái giám thoáng mỉm cười chợt hiểu. Thì ra bà Hoàng này dự tính một cách tinh vi hiểm hóc, chuyển kế hoạch đẫm máu của mình vào bàn tay các võ quan qua trung gian tay cựu trùm cơ mật viện. Từ khi bị mất chức, nhường vị cho Nguyễn Trãi, nỗi tỵ hiềm của Thúc Huệ biến thành lòng căm thù khôn nguôi đối với bất cứ ai có liên hệ xa gần với vị nho sĩ, trong đó đương nhiên có cả Thị Lộ, cô tỳ thiếp trước kia của Nguyễn Trãi. Ra vẻ tỉnh bơ, Tuyên Từ biết cách trêu gan tên này để gieo mầm bất an trong chính phe cánh của hắn, đồng thời xúi các Hoàng thái hậu và các võ quan phải cực kỳ cảnh giác. Theo đánh giá của tay Thái giám, thì mưu lược kiểu đàn bà này có cái dở là quá ư rắc rối phức tạp và bấp bênh! Chi bằng âm thầm hiểm ác tiêm độc dược thủy ngân vào tủy xương để kết thúc số mệnh của bất cứ ai, mà dáng vẻ bên ngoài là một cái chết hết sức tự nhiên. Kín đáo và hiệu quả biết bao!

Trong lúc Hoàng hậu mong đợi Thúc Huệ đến thì Đức quân vương của bà lại đang cởi mở nỗi lòng với Thị Lộ về những âu lo về gia cảnh. Ngài thốt ra những lời lẽ táo bạo đến nỗi tóc tai cũng phải dựng đứng trong chiếc mũ phượng của nàng.

- Này, ái khanh xinh đẹp của Trẫm, Trẫm rất thích thú trò chuyện với một phụ nữ có đầu óc lại biết nghe và hiểu được Trẫm như khanh. Khanh tưởng rằng Trẫm sẽ được nghỉ yên trong chốn nội cung này à? Không đâu, Trẫm cứ phải đương đầu với một lũ quả là quỷ sứ, hết đứa này đến đứa khác tới kêu nài Trẫm phân phân xử xử.

Thị Lộ để lộ nụ cười ranh mãnh đầy nét dịu dàng thông cảm:

- Nhưng đâu phải tất cả bọn họ đều như thế. Hoàng thượng dư biết mà!

Vị Hoàng đế phàn nàn:

- Chẳng bà nào chịu nhường bà nào về nết hung dữ, nhất là bà Hoàng hậu!

- Kể cả người cung phi được Bệ hạ mệnh danh là "người liên kết mọi trái tim" sao? - Câu nói ám chỉ đến Ngọc Dao khiến vị Hoàng đế tìm lại được nụ cười của một cậu bé đầy nhục dục. Dù sao Đức vua cũng chỉ vừa mới tuổi hai mươi! Thị Lộ tiếp:

- Thánh thượng hãy xem, thánh thượng bất công biết bao! Cung phi ấy đâu thuộc đám con cái các quan tìm danh hám lợi trong việc tiến cung con gái của mình? Cô này chẳng đòi hỏi gì cho riêng bản thân cũng như cho thân bằng quyến thuộc của mình. Cô nàng chỉ biết yêu thánh thượng mà thôi.

- Ừ. Còn những cô khác, đáng lẽ ra Trẫm sẽ phải sa thải chúng nó hết mới phải!

Thị Lộ tỉ tê với giọng nói của người phụ nữ tự tin về mình. Nàng biết rõ mình đang ở đỉnh cao của sắc đẹp. Sáng hôm nay, trong tà áo lụa bạch màu cùi trái vải bó chặt đôi bờ vai mềm mại, vành môi lấp lánh màu châu sa, cặp mắt đen láy đưa tình đã khiến Thị Lộ như vẫn giữ được sự nồng nàn của "ngàn đêm ân ái".

- Thánh thượng có thể rời xa nàng một ngày được không?

- Được chứ, nếu như khanh, ừ nếu như có khanh ở cùng trẫm. - vị Hoàng đế phấn khích đáp lại.

- Ô! Ngoài thần thiếp, tớ nữ ngài đây, còn thiếu gì, thiếu gì kẻ khác nữa!

Vẻ hờn dỗi hiện lên tia mắt dịu dàng của vị Hoàng đế. Cô bạn duyên dáng của ngài nở nụ cười bao dung từ mẫu. Hoàng đế liền đáp trả lại bằng nụ cười buông lơi của một gã thanh niên, đồng thời cũng là một người tình, cái nụ cười dành riêng cho Thị Lộ bởi vì nàng là kẻ hiểu được ngài và là người duy nhất được ngài dành cho một phần chung thủy trong con tim chóng thay đổi của ngài.

—★—

Để mặc cho đám gia nhân lo tháo bỏ hành lý xuống, Ba đi thẳng vào nhà bếp.

Trên ngưỡng cửa, Cẩm, vợ chú, hai tay xoa xoa ngang thắt lưng, chiếc bụng tròn trĩnh nhô ra phía trước. Không chừng đây sẽ là một thằng bé lo hương khói cho vong linh chú mai sau. Phía sau lưng Cẩm, Nụ Nhài đang nhễ nhại mồ hôi bên cạnh bếp lò đất, sửa soạn các món ăn cho bữa tiệc ngon lành. Mặc dù trông có vẻ ngơ ngơ, Nụ Nhài vẫn luôn là một đầu bếp khéo léo, và nhờ đống người thường qua lại chốn này nên cô nàng cũng có việc để làm.

Ba lên tiếng:

- Tôn sư có trốn khỏi Kinh thành cũng chẳng yên, cả Kinh thành đang lũ lượt đến thăm viếng ngài kìa. Có thể nói rằng không lúc nào mà nhà ngớt khách và tách trà chẳng lúc nào vơi.

Ba ngồi chồm hỗm ăn tô miến cô vợ trao cho. Tất cả mọi người, từ các quan chức hay các khóa sinh đang mong sẽ làm quan, cho đến cả những kẻ đã rút lui khỏi chốn quan trường đều ao ước đến gặp vị Tôn sư. Ngài cũng phải chịu khó đón tiếp dòng người đến thăm viếng nhưng có những ngày ngài lẩn tránh biến vào vùng đồi núi. Côn Sơn không còn là chốn ẩn náu nữa. Thời gian dù có tuần hoàn, nhưng vẫn tiến về phía trước và đè nghiến trọn hoang phế của dĩ vãng. Chẳng còn gì giống như ngày nào hạnh phúc bên Thị Lộ nữa! Nàng ra đi để lại những cánh cửa nhà mở toang, để cho ai có thể ra vào tùy tiện. Ba buồn bã.

Cẩm, vợ chú, vừa cầm lấy chiếc tô hết nhẵn vừa hỏi:

- Các quý quan nào đang dạo chơi trong vườn với Tôn sư vậy?

- Đó là hai vị đại thần của triều đình và cũng là hai người bạn thân thiết của Tôn sư. Ngày trước họ từng là anh em đồng khoa trong kỳ thi đình đó. Lúc bấy giờ chúng tôi cùng chung sống với nhau dưới trướng vua Lê Lợi.

Cẩm còn quá trẻ nên chẳng hiểu chiến tranh là gì, cô nàng đưa mắt nhìn chồng thán phục trước khi rời bước. Nụ Nhài có nghe thấy gì không nhỉ? Hiện cô ta đang làu bàu điều gì đó trong miệng, tay thì vẫn thái thức ăn trên cái thớt.

- Thức khuya, dậy sớm, ở đâu cũng cứ thế, chẳng bao giờ yên nghỉ. Chỉ trời cao có mắt mới biết được điều gì sẽ xảy đến!

Ba và Cẩm đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ biểu đồng tình. Đó là cách thức Nụ Nhài thường lẩm bẩm với các bóng hình. Tuy vậy cũng phải nhìn nhận là Tôn sư đã làm việc quá nhiều. Không hiểu ngài tìm đâu ra thời gian, sức lực để sáng tác những bài thơ mà lúc nãy Ba trông thấy các vị khác tỏ vẻ say sưa thưởng thức?

Chuyện trò thân mặt, Nguyễn Trãi, Mộng Tuân và Lý Tự Tân vừa tiến bước tới túp chòi rồi ngồi xuống đối diện mặt hồ.

Tuổi già cường tráng làm tăng nét độc đoán nơi khuôn mặt Mộng Tuân. Ông lên tiếng hỏi Nguyễn Trãi:

- Thưa đại huynh, chúng tôi được biết vào cuối tháng này, huynh sẽ chủ tọa kỳ thi Đình, nhưng xem ra huynh có vẻ tư lự. Quả là lạ lùng vì sau bốn mươi hai năm nhận chức đình nguyên, giờ đây huynh lại được đóng vai chính chủ khảo đình thí. Đệ không hiểu tại sao huynh lại có vẻ không được hài lòng?

"Đúng là bản tính cố hữu của anh chàng trời con Mộng Tuân!", Lý Tự Tân vừa thầm nghĩ vừa nói vuốt thêm:

- Đây đích thực là cơ hội ngàn năm một thuở đó!

Cả hai, nửa như trách móc nửa như mỉm cười, nhìn Nguyễn Trãi. Trãi lên giọng:

- Thưa quý huynh, tôi bằng lòng an phận ở chốn này là chẳng quan tâm gì tăm với tiếng nữa. Đối với tôi, trở về lại Kinh thành chẳng phải là điều hạnh phúc.

Mộng Tuân giương cặp mắt sắc bén nhìn Nguyễn Trãi. Phải chăng Trãi ngại phải gặp lại Thị Lộ ở đó? Liệu Nguyễn Trãi có còn đau đớn về sự bội bạc này không?

Lý Tự Tân thì mãi say sưa với niềm vinh dự được đóng vai giám khảo:

- Đại huynh à, cả ba chúng ta đã từng là thí sinh và đã từng đoạt bảng vàng, ngày hôm nay lại được ngồi vào ghế giám khảo. Thế mà lý gì đại huynh lại có vẻ như chẳng màng đến niềm vinh dự này? Theo quyết định của Hoàng thượng năm nay, các tân tiến sĩ có được vinh dự tối cao là tên họ sẽ được khắc vào bia đá ở Quốc Tử giám.

Mộng Tuân bỗng đề nghị:

- Thôi chúng ta đừng ngồi ở cạnh bờ hồ này như ba lão già. Nào ta hãy đi qua đi lại một chút cho khỏe. Đại huynh à, tất cả vấn đề đều do ở chỗ huynh theo đuổi: tức là hai lối "Đạo". Thiên đạo vô vi và nhân đạo hữu vi. Huynh vừa xử vừa xuất, vừa sống riêng tư vừa tham gia thế sự! Vì huynh chỉ sống giữa cảnh đồi núi ở đây và giữa miền sơn cước phương Bắc nên huynh chẳng hay biết gì về việc triều chính của chúng ta.

Nhìn gương mặt phản ánh một sự lơ là vừa đúng lễ của Nguyễn Trãi, Mộng Tuân càng hăng tiết thêm: "Sau một ngày đi ngựa, một ngày đi thuyền đến Côn Sơn này là để tìm huynh đưa huynh về lại Kinh đô. Đại huynh ơi! Thôi đừng mơ màng đâu đâu nữa. Hãy chịu khó nghe những lời rất ư quan trọng đệ sắp nói đây". Luôn một mạch, Mộng Tuân tiếp:

- Sau khi từ thân phận thấp hèn trong hậu cung đạt đến được vinh quang bất ngờ, Tân hoàng hậu Tuyên Từ đã cậy dựa vào các Hoàng thái hậu khiến cho Hoàng thượng cũng phải kiêng dè. Hiện nay ảnh hưởng của bà ta chỉ có huynh là có thể ngăn chặn, ít ra là theo tiếng đồn đại của thiên hạ từ xa.

Đang cất bước trên lối đi, Nguyễn Trãi bỗng cảm thấy choáng váng khi nghe lời tiết lộ này. Trãi lần lượt đưa mắt nhìn hai người bạn. Lý Tự Tân tiếp:

- Đại huynh ơi! Chớ nên ngạc nhiên về điều ấy. Huynh đã từng dạy dỗ Hoàng đế thì làm sao ngài có thể quên được những lời giáo huấn của vị tôn sư lỗi lạc như huynh.

Mộng Tuân tiếp lời:

- Do đó những kẻ đố kỵ huynh hiện đang lo sợ huynh trở lại triều và lại tiếp tục chỉ vẽ cho nàng tỳ thiếp trước kia của huynh hiện là người duy nhất được đức vua tin nghe.

Nguyễn Trãi đi từ một sự ngạc nhiên chân tình sang một thái độ ngán ngẩm qua một nụ cười, trả lời:

- Hơi đâu mà người ta phải sợ một lão già lẩn thẩn đang sống cuộc đời quê mùa không còn màng gì đến nhân tình thế sự nữa? Quý huynh ơi! Tôi đã chạy trốn khỏi những lề lối tập tục nơi hoàng cung vẫn thường trói tay cột chân quý huynh. Tôi giải sầu với túi thơ, bầu rượu, rượu ngon, cơm đủ, quần áo có, như thế chưa đủ để thành bất tử ở cõi đời này sao?

- Ôi huynh có muốn giũ sạch bụi hồng trần cũng chẳng được đâu. Một người như huynh đã từng hoàn thành một sự nghiệp sánh ngang với Tiêu Hà200 thì làm sao có thể chôn vùi tăm tiếng mình được? Hoàng đế vẫn kính nể quý trọng huynh mà.

Vị nho sĩ yên lặng gật đầu. Ân sủng vua ban càng nhiều thì càng phải sợ các miệng lưỡi rèm pha, đồng thời càng không được tin chắc về sự an toàn của mình. Hai người bạn cũ chắc hẳn ghé thăm Côn Sơn cũng chỉ để nhắc Trãi điều đó. Lòng cảm kích, Nguyễn Trãi lặng thinh.

Thế là mãi theo đuổi ý nghĩ của riêng mình, cả ba đã đi đến tận ngôi miếu thờ thần Rắn. Nguyễn Trãi cắt nghĩa cho hai bạn biết ngôi miếu Rắn này đã được ông ngoại Trãi dựng nên từ thế kỷ trước để giải trừ khỏi một nghịch vận. Khác với ngôi nhà cũ kỹ, cái bàn thờ nhỏ bé này được gìn giữ chu đáo. Cạnh ngôi miếu là hàng tre xanh đang rung rinh trước ngọn gió đồi mùa xuân, xa hơn tí là chiếc hồ nơi bầy trâu đang ngâm mình tắm mát.

Lý Tự Tân thốt lên:

- Thực là một khung cảnh xứng với bút vẽ của Vương Duy201.

- Nào chúng ta hãy nghỉ một tí. Sau đó tôi sẽ dẫn quý huynh đến thăm con suối trên kia.

- Đại huynh ơi! - Mộng Tuân vừa nói vừa cười dù thực sự lòng không được vui. - Chúng tôi hiện đang rảnh rỗi giống Bình Nguyên Quân, chúng tôi tính tới đây uống rượu chơi suốt cả mười hôm đó!

Nhìn mái tóc hoa râm, vầng trán hằn đầy vết nhăn của hai người bạn, bỗng dưng lòng Mộng Tuân cảm thấy lòng tràn ngập một niềm tiếc nhớ: nào là cảnh trường thi, nào là cụ thí sinh già Tân Tư Biên, nào là buổi tối ở nhà Tiểu Mai, cuộc du thuyền với những trang mỹ nữ mà sau đó đã bị bọn Tàu tàn sát, rồi đến lễ xướng danh thi Đình, cuộc rước vẻ vang mà lão Từ Chi đột xuất đổ xô vào, cái anh chàng bất trị ấy, lại còn mụ vợ cầm dao rượt theo. Ôi! Thời trai trẻ cùng chung sống bên nhau này đã xa, xa lắm rồi!

Một mùi hương thoảng qua khiến Mộng Tuân chợt nhớ đến Thị Lộ. Cô gái xinh đẹp ấy cũng đã từng qua mấy mùa sống tại nơi này. Vẫn mãi mãi là kẻ tình si, nên dù đã bao năm rồi, Mộng Tuân vẫn thích thú gợi lại buổi xế trưa đẹp trời năm xưa ấy khi chàng ngắm Thị Lộ ngồi chải tóc bên bờ suối. Nàng vừa tắm xong, những giọt nước bé nhỏ vẫn còn lấp lánh trên bờ ngực, chiếc lược lướt nhẹ trong suối tóc mây, chầm chậm buông lơi chải lên chải xuống không ngừng. Chàng rón rén bước đến gần, trong lúc núi đồi Thanh Hóa phủ bóng như cố ý bao che. Phải chi khi ấy chàng bạo gan một chút thì biết đâu nàng đã ưng chịu. Cuộc gặp gỡ vàng ngọc có thể đã xảy ra và như thế cả hai hẳn đã hưởng nếm được một điều gì đó rất mãnh liệt, rất êm ái, rất dịu dàng... Chẳng hiểu Nguyễn Trãi có biết yêu nàng như Mộng Tuân này, kẻ đa tình cuồng si nữ sắc, mà được yêu thì phải biết! Hay như mối tình mà có lẽ nhà vua hiện đang dành cho nàng không? Tương phản luân phiên, thăng rồi trầm, đầy rồi khuyết, ái mộ rồi thất sủng, đó là quy luật của tất cả mọi sự ở trần gian này. "Kẻ nào hiểu được điều đó thì miệng sẽ nở được nụ cười". Mộng Tuân chợt nhớ lại câu này trong số những bài thơ của Nguyễn Trãi. Không hiểu hiện giờ nho sĩ Nguyễn Trãi có đang mỉm cười về nỗi đam mê muộn màng ấy không? Ông ấy xem ra có vẻ khó mà hiểu nổi.

Nhưng bỗng dưng Mộng Tuân tự nhủ: Không hiểu do đâu mình lại có cảm giác kỳ lạ và huyền bí là đối diện với một Nguyễn Trãi thì mình là kẻ được chở che, bảo tồn, và hơn nữa, được buông tha.

—★—

- Này thái giám, ta đã biết rồi! Nó sinh con trai! Thôi cút đi!

Trước cơn lốc băng giá này, tay thái giám chỉ còn biết cúi khuôn mặt sầu thảm sát đất rồi vội đi thụt lùi thoát khỏi cái bộ mặt làm hắn kinh khiếp. Tuy nhiên hắn vẫn sẵn sàng chờ được gọi vào trở lại.

Hắn quá rõ bà ấy mà. Hiện bà hoàng cần khử đi mọi độc tố của cơn cuồng nộ đang giày vò tim gan làm cho trí óc bà bị bấn loạn, để rồi sau đó có thể tìm lại được ý chí minh mẫn, tàn ác vô cảm biết hướng thẳng đến chỉ một mục tiêu duy nhất là bảo tồn ngai báu cho Thái tử. Một khi đã lấy lại được bình tĩnh, bờ miệng nhỏ nhắn hiểm độc của bà mới thốt ra những lời truyền lệnh là phải lo việc trả thù.

Màng lưới cạm bẫy dành cho Cung phi Ngọc Dao vừa hạ sinh một hoàng nam đã dệt xong. Như một con nhện khéo léo, tay thái giám đã kết nên từng sợi, từng nút trong tấm mạng lưới ấy.

Ngay khi vừa nghe tin Ngọc Dao mang thai, một chàng thanh niên đẹp trai chừng mười tám tuổi đã được tuyển vào số các giám quan trẻ tuổi trong cấm thành. Do sự sơ ý cố tình, người ta đã không hoạn tên thanh niên này mặc dù đã cấp phát dư dật cho gia đình cũng như miễn trừ thuế khóa cho làng của hắn (đặc án dành cho các hoạn quan). Hắn lại được bố trí phần vụ phục dịch Ngọc Dao và ngay khi vừa xuất hiện, hắn đã được liệt vào thành viên đám quan hoạn tín cẩn thường xuyên canh gác căn phòng người cung nữ đã lâm bồn.

Chiếc đồng hồ nước vẫn nhỏ đều giọt. Viên thái giám nóng lòng chờ đợi. Chẳng bao lâu, hắn được vời đến dãy phòng của Hoàng đế. Tấm màn vén lên và hắn bước vào chầu.

- Hãy lại đây!

Trong nháy mắt, tên thái giám hiểu ngay hắn đã không nhầm. Tất cả nét co rúm giận dữ đã biến khỏi gương mặt vị Hoàng hậu. Lấy lại vẻ quyền uy, bà ta lạnh lùng truyền bảo:

- Hãy lột mặt nạ tên hoạn mà vẫn còn nguyên ấy ra! Hãy phơi bày công khai lòng tà vạy202 bất chính của hắn! Hãy phao lên là thằng bé trai đẻ non ấy ngoài người cha công khai, thực ra có người cha khác. Hãy làm rùm beng chọc cho Thánh thượng sôi cơn thịnh nộ! Ta giao cho cái đầu lắm mưu lắm chước của ngươi lựa chọn phương cách. Hãy nhớ rằng cơn mưa móc203 của ta ban cho ngươi tùy thuộc vào sự cẩn mật của ngươi. Nào lập tức thi hành đi!

Tiếng trống cầm canh vang lên. Vừa vội vã đi về hướng dãy phòng trong hoàng cung, tên thái giám vừa rà soát lại các quỷ kế, thuộc đủ mọi loại, cần mang ra sử dụng. Hắn thức suốt cả đêm nghiền đi ngẫm lại kế hoạch thật chắc chắn để làm sao biến một kẻ vô tội thành người có tội. Có nhằm nhò gì mạng sống của tên hoạn kia và hàng ngàn tên khác thuộc cái loại ấy, dù sao thì tên hoạn ấy cũng chỉ là một dụng cụ, một phương tiện và chẳng bao lâu nữa sẽ chỉ còn là một thây ma bị quẳng xuống sông cùng với thây con cung phi Ngọc Dao và thằng bé sơ sinh của mụ ta. Và còn bao nhiêu người sẽ chết theo họ nữa?

Bảy ngày, thời gian giải cữ cho Ngọc Dao (7 ngày cho việc sinh bé trai, 14 ngày cho bé gái) đủ để cho viên thái giám thắt chặt nút gài chiếc bẫy của hắn. Hắn từng là tay xuất sắc trong việc thêu dệt những mưu mô, là tay ma giáo trong nghệ thuật vu khống, là tay sành sỏi trong việc sử dụng các xảo kế. Đằng sau nét mặt trang trọng, chắc hẳn Hoàng hậu Tuyên Từ đang run lên vì niềm hoan lạc. Bà ta như bừng sống dậy sau những cơn hốt hoảng đè nặng trên người.

Trong vòng bảy ngày, các mối ngờ vực chụp xuống đầu tên giám quan đẹp trai tựa bầy nhặng xanh bu đầy miếng thịt ôi. Hắn bị quẳng vào ngục, bị đòn đánh máu tuôn thịt đổ. Hắn hoài công vô ích kêu gào là mình vô tội, mình nhập cung sau ngày vương phi hoài thai, nào là tình trạng hoạn của hắn không thể sinh con. Tất cả đều vô hiệu. Trước đó, người ta đã man trá sửa lại ngày hắn nhập cấm thành. Vì sau khi để cho con chó liếm vào cái "chi thể" được bôi lên một lớp nước thịt hầm của tên gọi là hoạn quan ấy - đây quả là một phát minh kỳ thú! Người ta thấy cái "chi thể" được coi là hoạn đó phồng và cương lên, thế là mọi lời buộc tội kể như là dứt khoát! Giả dụ một vị quan chính trực nào đó đánh hơi phía bên dưới có ẩn chứa một quỷ thuật nào đó thì một khi đã biết rằng bị cáo đã bị kết tội ngay từ cấp quyền lực cao nhất, liệu ông ta có dám lên tiếng bào chữa cho hắn không?

Trong khi tên hoạn quan "dỏm" ngơ ngác nằm dưới ngục sâu chờ bị cắt ra từng miếng, và tư phòng Cung phi Ngọc Dao bị bao vây, thì nơi dãy phòng Hoàng đế vang dội đầy tiếng la hét om sòm của vị thánh thượng đang trong cơn thịnh nộ.

Quá hoảng sợ, đám hoạn quan co rúm núp sau các bức trướng. Tiếng đồ sứ vỡ, đồ đồng nện xuống nghe ầm ầm kinh khiếp. Cơn giận Hoàng đế càn quét trên "Tử Cấm thành" tựa sấm sét từ trời cao giáng xuống, tựa cơn lũ vương triều phá vỡ bờ đê.

Nỗi kinh hoàng cực độ ngự khắp chốn cửu trùng. Chẳng ai dám bước vào, lại càng không dám đến gần Thánh thượng... Ngay lúc đó, Thị Lộ vội vã xông tới, một cách có quyền uy, xô dạt đám hoạn quan lơ láo qua một bên, rồi chẳng cần nhờ đến ai dẫn vào, nàng tự mình tới yết kiến Đức hoàng đế. Một chiếc bình Gia Lâm quý giá bị vỡ dưới đôi chân duyên dáng bước ra.

- Tâu Thánh thượng…

Hoàng đế đưa đôi mắt đỏ rực nhìn nàng khác nào ngọn lửa.

- Chà! Khanh dám nói rằng cô ấy yêu ta? Cô ấy chẳng hề đòi hỏi gì hết! Ôi chao cái... con quỷ ô uế đó!

Vừa nói Hoàng đế vừa xô mạnh Thị Lộ ra khiến nàng ngã lăn dài xuống đất. Lập tức nàng nhanh nhẹn trỗi dậy để kịp tạt một tách nước vào bức màn vừa bị ngọn đèn đổ xuống bén lửa, đoạn cất giọng oang oang, Thị Lộ lớn tiếng cùng Nhà vua giống như dạo nàng là cô vú canh giữ Hoàng đế:

- Thôi đủ rồi!

Tiếng quát tháo này lập tức cắt ngang cơn giận của Nhà vua, tuy nhiên cùng ngay lúc đó Thí Lộ nhận ra là đã quá bạo phổi nên liền đập trán xuống đất, ý thức mình đáng tội chết. Sự yên lặng kéo dài. Cuối cùng, vừa bước qua bước lại trong căn phòng bừa bộn, Hoàng đế vừa hất hàm nói:

- Ngươi làm gì mà nằm bẹp đó? Đứng dậy đi! - Nói đoạn Hoàng đế buông mình xuống long sàng.

Rút từ ống tay áo chiếc khăn lụa, Thị Lộ chùi lên vầng trán vị Hoàng đế, miệng thầm thì những lời nhỏ nhẹ ủi an khác nào một bà mẹ. Hoàng đế để yên không hề phản kháng. Đoạn, gục người xuống trên gối đệm, gò má trông nhợt nhạt, Hoàng đế thở từng hơi ngắt quãng:

- Nó đã phản bội Trẫm!

- Không phải thế đâu! Không phải thế đâu!

- Còn không phải nữa à! - Hoàng đế chồm dậy nửa thân người - Nó đã dám... Trẫm, Thiên Tử! Thế mà khanh vẫn còn dám nói với ta là... nó... à... Cái con phản trắc! Trẫm sẽ xử tội nó, nó sẽ phải chết!

- Đó đích thực là điều người ta mong muốn đấy!

- Không có hình phạt nào cho xứng với tội ác của nó! Trẫm sẽ giao nó cho các hoạn quan hành xử. Họ sẽ chặt con ấy ra từng miếng, và cả tên đồng lõa với con ấy nữa!

- Chính đó là điều người ta mong ước bệ hạ sẽ làm, người ta đã gài cho bệ hạ phải làm điều đó...

- Ai? Hãy nói mau đừng sợ. Người ta là ai?

Đảo mắt nhìn bốn phía, Thị Lộ thầm thì:

- Hẳn bệ hạ dư biết điều ấy mà. Người ta lo, người ta sợ cho thái tử nên người ta đã xúi giục từng hoạn quan ở đây.

- Bà ấy à? Hoàng hậu Mẫu nghi ấy à?

- Chính ngày hôm kia Thánh thượng đã thương tình tiết lộ cho thần thiếp. Người ta mong ước Thánh thượng sẽ thịnh nộ lên và sẽ truyền một sự trừng phạt đích đáng để làm gương. Người ta đã bắt ép, đã ra lệnh cho Thánh thượng đấy!

Cặp mắt Hoàng đế tóe ra tia lửa kinh khiếp tựa đôi mắt Đức Lê Lợi, phụ thân ngài:

- Bà ấy à? Bà ta dám sai khiến Trẫm làm điều bà ta muốn à? Bà ta dám quyết định và truyền lệnh thay Trẫm à? Nhân danh Trẫm à?

Đoạn Hoàng đế lên giọng gằn từng tiếng khiến các giám quan đến gần đều có thể nghe:

- Đồ phạm thượng! Bà ta sẽ bị truất phế! Bà ta sẽ phải biến mất đi! Nhưng như vậy Ngọc Dao vô tội sao?

- Chẳng qua người ta cảm thấy cô bé trung thành ấy có thể nguy hiểm, vì thế nên buộc phải tìm cách trừ khử đi thế thôi. Dám mong Thánh thượng cẩn thận xem xét sự việc, phân tích hư thực trước khi kết tội mà không cho khiếu oan. Cầu mong Thánh thượng sẽ hành động một cách khôn ngoan, đừng để bị ai lợi dụng.

- Vậy nàng khuyên ta phải làm gì đây, hỡi cô bạn xinh đẹp của Trẫm.

- Thánh thượng hãy sai một người tín cẩn đến tận ngôi làng của tên giám "giả" ấy để nắm cho rõ đích xác ngày tháng tên này được nhận vào cung điện, điều này chẳng phải là việc quá khó đâu. Rồi từ đó, Thánh thượng có thể hoàn toàn phán xét một cách vô tư không thiên lệch. Còn ngay lúc này, cầu mong Thánh thượng hoãn lại việc thi hành bản án và hoán giảm hình phạt cho người phụ nữ đáng thương kia bằng cách chỉ định cho cô ta một chỗ ẩn cư, chẳng hạn lánh vào một ngôi chùa nào đó.

- Vậy té ra khanh khuyên ta tỏ ra yếu nhược đối với một kẻ có tội là bạn thân thiết của khanh đấy à?

- Tâu Thánh thượng, không phải thế! Thần thiếp chỉ khuyên Thánh thượng đối xử công bằng với nàng thứ phi từng được Thánh thượng sủng ái, đồng thời xin hãy cứng rắn đối với bà ấy...

Khuôn mặt Đức vua biểu lộ nét thư giãn an hòa trở lại.

Ngài tiếp:

- Này! Ái khanh của Trẫm thành thực tin cô ấy vô tội và đã bị khép oan à?

- Tâu Thánh thượng, vâng ạ! Hoàng tử Tư Thành204 đích thị là con của Thánh thượng. Chắc hẳn người ta đã không chọc giận Thánh thượng nếu đó chỉ đơn giản là một đứa con gái!

Hoàng đế nở nụ cười thoải mái và xích lại gần Thị Lộ. Ngài thầm thì rất khẽ:

- Ái khanh ơi! Trước khi Trẫm sắp sửa đi kinh lý các tỉnh mạn Đông và mạn Bắc, ái khanh hãy một mình kín đáo mau lẹ tìm cho người mẹ và hài nhi một chốn cư ngụ an toàn chờ đến lúc Trẫm trở về.

- Thánh thượng cứ an tâm tin cậy vào tớ nữ ngài...

Sau đó nhìn thấy nhà vua bị choáng mệt bất ngờ, đôi tay ngài đan vào nhau đưa lên trán, Thị Lộ liền vội rút lui ra ngoài nhường chỗ cho đám hoạn quan vào thu xếp dọn dẹp.

***

- Phía đằng kia có một đám người đông đúc, dẫn đầu là các thân hào đang chờ đoàn kiệu đến. Theo cháu mấy giờ đoàn kiệu sẽ tới đó?

- Thưa cụ, có lẽ khoảng giờ Thân (15-17 giờ).

Vừa nói, Ba vừa chăm chỉ dọn dẹp lối đi dưới hàng thông.

- Càng tốt, vào lúc đó trời vẫn còn sáng. Này con, đây sẽ là lần thứ hai mà lão già da dẻ sần sùi đang trò chuyện với mày đây được trông thấy một Vị vua đi ngang qua. Lần thứ nhất là một vị vua già, lúc đó ta lại đang còn trẻ, lần thứ hai này đây thì lại là một vị vua trẻ trong khi ta hiện đã già rồi. Cụ già vừa rời bước vừa lẩm bẩm: "Dù sao thì cũng được vinh hạnh biết bao cho cái gia đình quý phái này cũng như cho cả làng chúng ta".

- Hiển nhiên rồi, thưa cụ.

Vừa nói, Ba vừa quơ quơ thêm những nhát chổi cuối cùng.

Cẩm nặng nề lê chiếc bụng bầu ra đón chàng. Ba có nhiệm vụ lo việc tiếp rước nhưng họ lại được báo tin trễ quá. Ở Kinh đô, người ta chỉ đưa nguồn tin gọn lỏn về ý định Đức Vua như sau: "Trên đường đi thanh tra các tỉnh miền Bắc trở về, Thánh thượng, Thiên tử, sẽ dừng lại Côn Sơn để thăm hỏi vị Huấn sư của ngài. Nhân dân địa phương ở đó phải lo thu xếp chu đáo." Dù chỉ là một đêm thôi, nhưng việc cung ứng thức ăn và chỗ ngủ cho đoàn tùy tùng của Đức vua Hoàng đế không phải là chuyện đơn giản.

- Bếp núc chuẩn bị xong chưa? - Ba lên tiếng hỏi. Cẩm ra dấu đã thu xếp xong. Chiếc bụng bầu khiến đôi gò má và bộ ngực cô nàng căng lên. - Nhà không nói gì với bà ta chứ? Và có chắc có ả không nghi ngờ điều gì chứ?

- Chắc chắn bà ta chẳng nghi ngờ gì cả. Sao phu quân lại tỏ ra âu lo thế?

- Nhà nên nhớ là cái đầu gàn gàn tội nghiệp nhìn chỗ nào cũng thấy rắn của bà ta, thì chưa biết bà ta sẽ tưởng tượng ra những gì về Thị Lộ. Vì thế không được cho bà ta biết Thị Lộ tháp tùng đoàn kiệu. Hãy nhắc nhở trước cho mọi phụ nữ ở đây và hãy cố đừng để bà ta rời khỏi các bếp lò nhé!

- Ông yên trí để em lo. Sau khi tiệc tùng xong, chỉ cần vài tách rượu là đủ cho bà ta ngáy thẳng. Em đã cho người mang vào chùa những tấm chiếu và những tấm chăn lụa đẹp nhất của chúng ta rồi.

- Thế là tuyệt rồi! À! Tôn sư đã về chưa? - Dạ em không thấy.

Ba ngước mắt nhìn về phía ngọn đồi. Ngay từ trước hừng đông, chú đã nghe tiếng vị nho sĩ rời khỏi căn nhà, bụng rỗng chưa dùng bữa sáng, thế mà mãi đến giờ vẫn chưa thấy ngài trở về. Nếu tôn sư còn nán lại chưa xuống thì Ba buộc phải leo lên tìm ngài ở tận chỗ con suối. Thần kinh căng thẳng, Ba buột miệng thở dài. Không hiểu tôn sư làm gì trên đó vào một ngày như thế này? Lẽ ra ngài đã phải chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón Đức vua chứ? Hay ngài đã gặp tai nạn gì chăng?

Trong khi đó, Nguyễn Trãi đếm bước ông mặt trời xuyên qua các hàng tre. Bên bờ dốc đá, dòng suối vẫn reo ca. Chính tại nơi Trãi đang đứng đây, Trãi như thấy lại hình ảnh ông ngoại Hoàng thân Trần Nguyên Đán lần đầu tiên đang chiêm ngắm phong cảnh miền đồng bằng, cách đây năm mươi bảy năm về trước. Khoảng thời gian một đời người! Khoảng thời gian cuộc đời Trãi... Kìa là những ngọn núi xanh thẫm. Kìa là mái ngói ba tầng của ngôi chùa nơi Hoàng đế sẽ ngự qua đêm. Kìa là chiếc sân với hàng cây hoa đại chú Ba vẫn thường đi qua. Kìa là một ngôi làng đang chưng rợp cờ quạt và sau cùng là những cánh đồng trải dài vô tận đến cuối chân trời nổi bật lên dưới ráng chiều thu. Thật là bi tráng! Nét bi tráng của bất cứ vật gì đã đạt đến mức viên mãn nhất, đến tột đỉnh. Chưa bao giờ Trãi trông thấy, cảm mến mảnh đất tổ tiên bằng giờ phút trang nghiêm này. Trãi chẳng hiểu tại sao. Từ quá khứ vang vọng về giọng nói ngọt ngào của vị Hoàng thân: "Trãi ơi, sau này dù cháu có đạt được quyền cao chức trọng, hay bị tai ương vùi dập đi niềm kiêu hãnh, thì hãy luôn nhớ hướng tâm hồn về ngọn núi cổ xưa, ngọn núi quê cha đất tổ của cháu!".

Suốt bao tháng năm dài, Trãi vẫn luôn trung thành giữ lời giao ước hẹn hò với Côn Sơn như một lời nguyền từ muôn thuở. Đây là trạm dừng hạnh phúc cho bước chân rong ruổi của Trãi. Chính tại đây Trãi có được niềm vui làm người. Chính tại đây vào lúc hoàng hôn một buổi chiều nọ, vị "lữ khách khả kính" đã tiên báo cho Trãi, đứa con của núi đồi, cuộc gặp gỡ với vùng bình nguyên có suối nước êm đềm, vĩnh viễn khắc sâu định mệnh Trãi một dấu ấn không phai. Chính từ nơi đây, đất Côn Sơn với núi đồi, suối nước êm đềm đã được Trãi thiết tha ca ngợi, đã vươn cao tỏa rộng ngang tầm chiều kích bao la của Đại Việt. Chính nơi đây, Trãi đã chấp nhận rằng cuộc hôn phối giữa ngọn núi quê ông và đồng bằng sẽ được kết xe bằng huyết nhục. Chiều hôm nay, chân bước xuống con đường mòn, Trãi như lại nghe vang dội bên tai tiếng trống đồng của tấn bi kịch mà ngày trước từng đem