Chương 3
Vào gần dịp lễ Trung Thu, Nguyễn Trãi phải lên kinh đô và ngụ lại một ngôi nhà thân quen cạnh bờ "lam truyền" chờ đợi triều đình gọi đến. Tỳ thiếp Thị Lộ tháp tùng theo ông. Hành lý chưa được khui ra thì vào một buổi sáng tinh mơ, viên sứ giả đến gõ cửa báo tin:
- Có lệnh vua vời ngài đến! Xin vui lòng vào triều ngay!
Phía bên ngoài, một chiếc kiệu đang chờ, xung quanh là toán vệ quân của đức Thiên Tử, trán có xăm chữ. Họ đang sẵn sàng đón Nguyễn Trãi nhập triều với tốc độ ngựa phi nước rút. Vị nho sĩ ngồi lắc lư vì bị xóc mạnh, trong khi toán lính vừa phóng vội vừa quất tới tấp bất kể vào những khách qua đường dù thuộc đẳng cấp nào.
Xuyên qua cổng Nam, đoàn người kiệu đi thẳng một mạch vào Hoàng thành rồi băng qua Kim Môn đi sâu vào Cấm thành đến tận trạm dừng có tên là "Trạm thường trực của toán kỵ binh hậu vệ". Nơi đây, một vị quan được phái đến tiếp đón Nguyễn Trãi. Ông ta nói:
- Tối qua tôi được báo tin Thánh thượng ao ước gặp ngài. Xin mời đi theo tôi.
Họ đi đọc hành lang phía Tây, vào căn phòng tráng lệ rồi băng qua nhiều cánh cửa, sau đó là vào tiếp trong một chiếc lầu rộng lớn gọi là "Trà phòng", lý do gọi như thế là để kiêng cữ (thực ra đó là dược phòng), nơi đây có nhiều vị ngự y đang thầm thì to nhỏ với nhau.
Viên quan được phái đến nói với Nguyễn Trãi:
- Hiện Thánh thượng đang ở giữa đám cung tần của ngài. Tôi không dám bước tới xa hơn. Mong ngài hãy kiên nhẫn chờ một lát.
Ông ta chưa kịp nói xong thì quan thái giám được nhận diện nhờ chiếc vòng trắng lủng lẳng ở cổ, vén bức màn gấm trước mặt Nguyễn Trãi lên. Tiếp đó, vị nho sĩ bước sâu vào một vùng tối tăm mù mịt hoàn toàn. Phải vừa đi vừa sờ soạng ở chặng đầu tiên, sau đó đến chặng thứ hai thì có một ngọn đuốc chiếu dọi và cứ thế bước lên nhiều bậc, ngang qua đủ thứ màn tơ màn gấm, để rồi cuối cùng bước vào một gian phòng rộng mênh mông, chính giữa có một chiếc giường lớn chạm vàng, kế bên cạnh là một ngọn đèn cháy rực trên cái giá bằng đồng. Qua làn ánh sáng di động, thoạt tiên Nguyễn Trãi nhìn thấy loáng thoáng những khuôn mặt phấn sáp của đám phi tần với quần là áo lụa mượt mà đang nhẹ nhàng biến đi sau bức rèm mờ mờ giăng ngang chia đôi căn phòng, trông chẳng khác gì người ta đang bưng một lẵng hoa đi cất, sau đó Trãi mới tập trung chú ý nhìn vào Hoàng đế Lê Thái Tổ đang ngồi trong chiếc ghế bành sắc đỏ nạm vàng. Nguyễn Trãi chấp tay lên trán định phủ phục xuống thì con Rồng đã cất giọng trầm khàn truyền cho miễn lễ:
- Tiên sinh Ức Trai, quả nhiên ngài vẫn cứ nấn ná chẳng muốn đến. Phải chăng kể từ đây ngài xem việc tái thiết của đức vua như một trò bịp bợm, như biểu hiện của lòng ham hố danh vọng?
Những lời kêu ca đầy trách móc này mà người ta thường gặp nơi các bệnh nhân, chính là những lời ngày xưa Nguyễn Trãi từng nói với Lê Lợi khi hai người gặp nhau lần đầu tiên ở truông Khả Lam cách đây đã khá nhiều năm rồi.
- Thần xin ca ngợi trí nhớ tuyệt vời của Thánh Thượng, tuy nhiên thần e rằng liệu những lời ấy có còn hợp thời nữa không? - Nguyễn Trãi vội đáp lời trước khi hỏi han đến long thể Lê Lợi.
Vị Hoàng đế liền chặn ngang, giọng khàn khàn tỏ vẻ bực dọc:
- Thôi hãy để chuyện sức khỏe qua một bên, cả đống ngự y bất tài của Trẫm đã bàn với Trẫm về chuyện ấy quá nhiều rồi. Khanh hãy lại gần ngồi cạnh Trẫm như thuở nào chúng ta còn kề cận nhau khác gì môi và răng.
Sau khi Nguyễn Trãi ngồi vào chỗ, Lê Lợi nói tiếp:
- Về đề tài Lam Sơn, Trẫm đã đọc "Lam Sơn thực lục" của khanh. Khanh đã cố gắng tuân theo các huấn dụ của Trẫm mặc dù bản lính công minh của khanh đã đẩy khanh vượt quá điều Trẫm mong ước. Bởi vì thực sự mà nói, chỉ hai ta, Trẫm và khanh mới biết được lịch sử đích thực…
Lê Lợi nhướng cặp mắt nghiêng về hướng Nguyễn Trãi, đôi mắt ngài hiện đang chìm trong bóng đêm của cái thân xác rã rượi. Ngọn đèn rọi sáng một cách tàn nhẫn vào khuôn mặt hốc hác, làn da vàng ngà, hai cánh mũi tóp lại của ngài, quả là dung mạo của một người sắp đi vào cõi chết. Vị nho sĩ sững sờ: Xem ra Lê Thái Tổ đang bềnh bồng trong cái thây ma đồ sộ của Lê Lợi ngày xưa.
- Khanh có biết bài thơ Trẫm sáng tác sau cuộc chinh phạt Đèo Cát Hãn trở về không? Trẫm đã truyền khắc bài thơ ấy vào bia kỷ niệm ở trong núi bên sông Đáy hay không?
- Tâu Thánh thượng, âm vang các cuộc chinh phạt của ngài đã lan đến tận Côn Sơn.
Lê Lợi phát ra tiếng cười nhỏ, sánh với tiếng cười ngày xưa vang dội như tiếng chuông thì bây giờ đây chỉ còn là tiếng lục lạc khua:
- Tiên sinh Ức Trai! Chẳng bao giờ khanh biết nịnh trẫm. Đó quả là một đức tính hiếm có mà mãi tới bây giờ Trẫm mới bắt đầu biết trân trọng, tiếc rằng hiện Trẫm đã quá gần cõi chết rồi. Khanh có biết trong lúc sáng tác bài thơ ấy, Trẫm cực kỳ hối tiếc vì không được có các lời khuyên của một văn sĩ tài hoa như khanh không?
Bị xâu xé bởi những tình cảm mâu thuẫn nhau, Lê Lợi đăm đăm nhìn Nguyễn Trãi, tia mắt ngài như tìm lại được chút ít nét hung hãn của Lê Lợi ngày xưa, chỉ lo quan tâm viết lịch sử bằng lưỡi kiếm của mình. Lê Thái Tổ nói tiếp:
- Hãy xích gần Trẫm hơn tí nữa, phía sau tất cả màn trướng này, biết bao lỗ tai đang nghe ngóng, bao cặp mắt đang quan sát chúng ta... - Tựa khuỷu vào tay chiếc ngai chạm hình rồng, Lê Thái Tổ đưa cặp mắt dò xét những nếp màn trướng im lìm bất động… đoạn vừa thở vừa nói:
- Tất cả lũ chuột này, lũ chuột của cung điện này, lũ chuyên hủ hóa các vị quân vương đang rình mò trong bóng tối, chúng sẽ lợi dụng các lời nói nhỏ nhặt nhất của Trẫm để thỏa mãn các mục đích bỉ ổi của chúng. Lũ hoạn này, ôn dịch của nhân loại, lũ chuột này... - Lê Thái Tổ lại buông mình về vị thế cũ.
- Còn khanh, Tiên sinh Ức Trai, chẳng bao giờ khanh sợ làm Trẫm phật lòng, vậy thì Trẫm có thể cởi mở với khanh như với một thân hữu đích thực. - Lê Thái Tổ tiếp tục thầm thì - Trẫm bị hối hận giày vò vì đã không chu toàn được ước vọng chúng ta đã ấp ủ từ cái buổi hừng đông triều đại của Trẫm. Khanh còn nhớ không? Mang lại an vui cho dân chúng, dựng xây hòa bình dựa trên các luật lệ khôn ngoan. - Lê Thái Tổ hằn học nhìn Trãi tựa như muốn quy trách nhiệm cho chính ông ta, rồi nói - Trong khi ở triều đình thì thiếu các cố vấn tài ba, tại sao khanh nỡ rút về ẩn cư ở Côn Sơn, bỏ mặc Trẫm ở đây một mình. Khanh, hỡi Cố vấn khôn ngoan của ta, tại sao? Tại sao lại có biết bao... thế này?
Nguyễn Trãi kinh ngạc tưởng chừng giật bắn người lên.
Ông cố nở nụ cười chua chát của một người tự chế giễu mình.
- Tâu đức vua, mỗi người đều đi theo thiên mệnh của mình. Người này thì từng là hiện thân cho khát vọng của nhân dân trong trận mạc, rồi trở thành vị anh hùng cái thế và đang dựng xây một triều đại, người kia thì lui về ở ẩn, cố sống hòa hợp với chính bản thân mình. Hoạt động hay rút lui tùy theo hoàn cảnh đều là noi theo chính đạo, chúng ta hãy gắng theo đó mà sống.
- Tiên sinh Ức Trai ơi! Trẫm chẳng thể tin được tí nào hết! Đã từng là người chiến đấu cạnh Trẫm và lúc nào cũng lo nghĩ đến nhân dân như tiên sinh mà lại bảo thế sao được?
- Tâu Đức Vua, quả thế, hiện lý trí chứ không phải con tim của thần đang lên tiếng. Cũng như thời kỳ ở Lam Sơn, lúc nào thần cũng sẵn sàng phục vụ Thánh thượng nếu quả là Thánh thượng muốn thế. Đằng này, Thánh thượng tuy là giữ thần lại phục vụ mà lại chẳng sử dụng thần, đã biến con tuấn mã có khả năng chạy ngàn dặm một ngày thành con ngựa nằm bẹp trong chuồng vì thiếu người biết cách cầm cương nó, vì thế thần còn có thể làm được gì khác hơn là phải rút lui?
- Hãy nói nhỏ hơn! - Vị Hoàng đế đưa mắt thăm dò các bức trướng, theo dõi có những bóng đen đang rập rình đằng sau. - Chúng đang ở đó và đang nghe lỏm.
Nguyễn Trãi nói tiếp:
- Thần làm sao mà có thể đành bất lực chứng kiến sự đắc thắng của những kẻ mà công trạng duy nhất của chúng chỉ là khéo dối trá nịnh bợ được? Chúng là những tên chưa bao giờ hy sinh một sợi lông cho đất nước lại thu tóm được quyền cao chức trọng của triều đình? Nhưng một lòng trung thành với Thánh thượng, thần vẫn luôn tận tụy.
Thôi nhìn vào các màn trướng, vị Hoàng đế xem ra như đang hồi tưởng lại:
- Kể từ năm Kỷ Dậu (1429), biết bao cơ hội đã bị bỏ lỡ, sau khi mà thanh kiếm và ngọn bút nên hiệp với nhau đã chiến thắng được quân thù! Tách lìa nhau, chúng ta nào có làm được gì? Trẫm đã làm được gì? Như khanh nói, Trẫm là anh hùng cái thế, nhưng tên tuổi khanh lại còn lừng lẫy hơn Trẫm. Tay chiến binh có là gì đâu trước một nho sĩ hoàn hảo, một hiền giả? Ngàn năm sau trong cõi đời này, vẫn còn những kẻ ca ngợi khanh, còn tên tuổi Trẫm chỉ được trân trọng nếu ghép cùng tên tuổi khanh: Ngọn bút kết liền thanh kiếm. Với tư cách sáng lập triều đại, Trẫm cũng sẽ chỉ là một con số triều đại bên cạnh những con số khác.
Nói thế, nhà vua như thu gọn mình lại trong lớp da hổ của Lê Lợi thuở nào, ngài như ngụp sâu vào một cơn mơ...
Nguyễn Trãi lên tiếng:
- Tâu bệ hạ, sao ngài lại tự trách mình như thế? Nếu không có hành động anh hùng của bệ hạ, ngày hôm nay Đại Việt sẽ ra sao? Nếu như Thánh thượng đã không kiên trì chống cự lại, thử hỏi lũ giặc Tàu sẽ còn ham hố tới đâu nữa? Xâm lược chúng ta xong, bọn chúng sẽ nuốt chửng nước Chiêm Thành rồi đến Chân Lạp và sẽ áp đặt khắp nơi quyền cai trị của Trung Quốc. Cục diện thiên hạ sẽ thay đổi. Còn giờ đây, thánh thượng hãy nhìn xem, đất nước ta hiện đang có được uy tín lớn lao biết bao, nào là triều đình Vijaya (Thủ đô Chàm), nào là Ai Lao vừa mới quy phục, rồi người Bốn Man, người Lô Lô xứ Vân Nam cũng chịu triều cống...
Chẳng hiểu Lê Thái Tổ có nghe gì không? Với tính tình cố chấp của những kẻ đang bệnh hoạn chỉ một ý nghĩ duy nhất ám ảnh ngài, ngài tiếp tục phân bua:
- Khanh xem đó, những khuyết điểm xưa kia nhà Trần vấp phải bây giờ lại bắt đầu xuất hiện. Các chủ điền hôm nay cũng ham hố không kém gì đám Hoàng thân quốc thích hôm qua. Những cải cách của chúng ta... (Lê Lợi dừng lại, nhìn về hướng một gợn sóng chạy trên tấm màn lay động và đưa ngón tay chỉ cho Nguyễn Trãi) Khanh xem đấy, dù Trẫm đã ngăn cấm bọn chúng vẫn dám... ở đây tất cả mọi sự đều tùy thuộc vào sở thích của đám chuột này... Nào hãy xích gần hơn đừng để cho bọn chúng nghe được gì hết! Tiên sinh Ức Trai ơi, khanh còn nhớ những lời khanh nói với Trẫm nơi vùng núi Chí Linh để ngăn cản Trẫm đừng chui đầu vào cái bẫy của tên Mã Kỳ không? Lúc bấy giờ, khanh đã chỉ cho Trẫm biết đại gia đình của Trẫm chính là nhân dân mà vì đó Trẫm phải hy sinh đi những bổn phận thiêng liêng nhất của kẻ làm con. Khanh đã cho Trẫm biết nỗi đau thực sự của đấng làm vua chính là nỗi đau của quần chúng. Thần dân Trẫm đang khổ đau, Trẫm biết rõ điều này... Cần phải bảo tồn dân tộc và vương triều, vì thế Trẫm đã cho vời khanh đến. Đồng hồ nước sắp điểm giọt cuối cùng rồi, chẳng bao lâu nữa, Trẫm sẽ về với tổ tiên... (Lê Lợi đừng lại lấy hơi trong khi một ít bọt mép sùi ra khóe môi ngài). Phải tiếp tục công việc tái thiết. Chúng ta đã từng khởi đầu việc phân bổ đất đai, giới hạn chế độ nông nô, tiến cử nhân tài, hủy bỏ đặc quyền thái ấp của các Hoàng thân quốc thích cũng như không để cho họ đặc quyền tham chính. Chúng ta đã từng hô hào cải cách nhưng đến nay vẫn chưa thấy các việc làm cụ thể. Tiên sinh Ức Trai, vào phút giây sắp lìa bỏ tất cả mọi sự, Trẫm rất sợ rằng ngọn núi sẽ sụp đổ mà thôi!
Nguyễn Trãi vội tiếp lời:
-Thần nhiệt liệt ca ngợi Hoàng thượng vì lòng ngài lúc nào cũng lo lắng cho nhân dân, tuy nhiên cơ cấu hành chính trong triều với cả đống quan lại vô tích sự phía đằng sau, đã bóp nghẹt thánh ý Hoàng thượng, và tạo ra rất nhiều bức ngăn giữa Hoàng thượng và thần dân, đến nỗi những cải cách của Hoàng thượng bị tiêu tan qua cả một mạng lưới quanh co của lũ quan chức trung gian, bất tài, tham nhũng, chúng bất cán đến những nỗi bất hạnh của nhân dân và hoàn toàn vô tâm trước số phận quần chúng. Bao kẻ vô tội khốn khổ đã bị giam trong ngục suốt hai ba năm mà không hề được đem ra xét xử. Những kẻ tôi trung ngày xưa thì bị lũ nịnh thần gian ác hãm hại. Còn xung quanh cái hội đồng tham chính quá rộng quyền với hai vị tham vấn chính sự của nó, các thượng thư và tướng lĩnh lại chia ra phe giáp tranh chấp nhau. Tất cả điều đó làm sao thoát khỏi tai mắt quần chúng!
Lê Thái Tổ gật đầu, cái đầu có tướng hổ, nay đã gầy nhom:
- Tiên sinh Ức Trai, suy nghĩ thẳng thắn của khanh phù hợp với ý nghĩ của trẫm. Đất nước chúng ta đắm chìm trong chiến tranh quá lâu. Những phe nhóm khanh đề cập đó lại còn nắm thêm trong tay sức mạnh quân đội... Than ôi! Trẫm đâu còn có được sự nâng đỡ của các tướng lĩnh trung thành như Phạm Văn Xảo, Trần Lưu đã bị hy sinh ngày trước ở ngoài biên địa! Trẫm đã sử dụng khí giới để chinh phục vương triều nên bây giờ Trẫm phải sợ khí giới. Vì rất sớm cảm nhận ra sự đe dọa này nên Trẫm sợ rằng một ngày nào đó sẽ có một tay chỉ huy quân sự nổi dậy chống lại quyền uy của Trẫm nên đã cẩn trọng phân quyền ra thành năm bộ tham mưu tương ứng với các đoàn quân thuộc năm vùng lãnh thổ theo khuôn mẫu nhà Minh. Nhưng như thế đã đủ chưa?
Lê Thái Tổ dừng lại thở hổn hển, chậm rãi nghiêng cặp mắt của một kẻ đang hấp hối thầm thì rất nhỏ vào tai Nguyễn Trãi để không một tay giám quan nào núp rình ở đâu đó có thể nghe được:
- Thật chí lý khi chẳng bao giờ khanh yêu mến được thằng Lê Sát. Khanh hãy coi chừng hắn! Bè đảng quân đội là chính hắn... Bao lâu Trẫm còn trị vì thì tất cả mọi người đều cúi đầu vâng phục, nhưng kẻ kế vị ta thì lại còn là một đứa trẻ con. Trẫm... Lê Thái Tổ Trẫm... Lê Lợi, Trẫm ký thác Đồng Cung Thái tử cho khanh. Hãy giáo hóa, dạy dỗ y những đức tính giúp triều đại được tồn tại. Y hãy còn nông nổi, nhẹ dạ, ham lạc thú, hãy uốn nắn măng trước khi nó thành tre... Y sẽ phải bắt chước Hồng Vũ187 dẹp bỏ đi hai tay tham vấn quốc sự quá nhiều quyền hạn và y phải đích thân nắm lấy guồng máy điều hành quốc sự... Mong rằng y sẽ không phong bất cứ ai làm chỉ huy vĩnh viễn quân đội ngõ hầu. Y có thể toàn quyền tự quyết trong hành động của mình... Mong rằng y sẽ xa lánh bọn hoạn, bọn chuột cung đình, bọn bày mưu dệt kế, bọn gieo rắc phản loạn... ước gì quyền bính không giam hãm y... Ước gì y sẽ chỉ mang trong lòng một nỗi lo duy nhất là lo cho dân, cho nước... Khanh hãy dạy cho y rằng phụ thân y đã siêng năng cày bừa và bây giờ đến lượt y có nhiệm vụ gieo và gặt.
Những lời gửi gắm đã thiêu hết tàn lực Lê Thái Tổ. Ngài buông thõng đầu xuống, ánh mắt lạc thần.
Trong cơn bối rối, Nguyễn Trãi thấy bờ môi đức vua hình như còn mấp máy vài lời. Trãi tưởng chừng như nghe rõ hai tiếng: "Khâm thử"! Chàng vừa đi thụt lùi dự tính rút lui, thì đức Hoàng đế bỗng như giật mình tỉnh mộng ra dấu giữ chàng lưu lại mặc dù lúc đó mấy tay giám quan đã xuất hiện:
- Tiên sinh Ức Trai, hãy nhắc lại cho Trẫm nhớ ngày xưa các vị vua đầu tiên của chúng ta đã gọi tên đất nước như thế nào? Ngày trước có lần khanh đã nói với Trẫm cái tên đó... tên gì thực đẹp đó!
- Tâu thánh thượng, có phải ý ngài muốn nói đến tên Vạn Xuân, tức mười ngàn mùa xuân?
Một sự yên lặng kéo dài như vô tận. Đôi mắt nhắm nghiền, hơi thở như bất động, vị hoàng đế ngơi nghỉ. Đằng kia, nhà chép niên giám kính cẩn ghi lại lời nói được nghe.
Lần nữa, Nguyễn Trãi tính rút lui thì từ bờ môi đức vua phát ra những lời tối hậu:
- Vạn Xuân! 10 ngàn mùa xuân. Giang Sơn Vạn cổ oai hùng của chúng ta... Trẫm ủy thác cho khanh đó!
—★—Không đầy mười ngày sau, trong khi Nguyễn Trãi vẫn còn ngẫm suy về sự khôi hài của số mệnh an bài để cho vị Hoàng đế chỉ ưng thuận trao ban quyền hành cho ông vào lúc ngài sắp sửa đánh mất nó, thì Lê Thái Tổ đã qua đời trong cung điện ngài188, ngày 27 tháng 8 năm Quý Sửu (1433).
Sau khi các nghi thức được chu toàn, nhà vua được đặt vào trong chiếc linh cữu uy nghi được phết năm lớp sơn kế tiếp nhau (mỗi năm cai trị tượng trưng bằng một lớp sơn), cùng với những đồ vật quý giá nhất thuộc riêng ngài. Đồng lúc ấy, trên bàn thờ các vị tiên vương trong tất cả miếu đường tại hoàng cung, trầm hương xông lên nghi ngút, đám chiêm tinh gia lo chọn ngày lành tháng tốt để an táng. Toàn thể đất nước bắt buộc phải chịu tang trong thời gian được tục lệ quy định: Thái tử chịu tang trong ba năm ba tháng, các người con còn lại, các bà vợ cũng như các quan đại thần trong triều chịu tang ba năm, bà con họ hàng xa chịu tang một năm, dân chúng chịu tang hai mươi bốn ngày. Trong thời gian ấy không được tổ chức cưới hỏi hoặc mang y phục màu đỏ.
Vào đúng ngày do Đấng Hoàng thiên ấn định, vị Thái tử con trai Đức Hoàng đế tay chống chiếc gậy tang dẫn đầu, theo sau là tất cả đám Hoàng thân quốc thích mặc tang phục màu trắng bước đi trên con đường dài phủ thảm và chiếu hoa trong tiếng chiêng tiếng trống nghe thật bi ai. Trước và sau kiệu tang là toán quân hùng hậu bận sắc phục đen có mang theo vũ khí đi hộ tống. Vị Hoàng đế nằm trong chiếc kiệu tang lộng lẫy được khiêng ra khỏi cấm thành đến tận bờ sông, sau đó được đặt vào một chiếc thuyền tráng lệ nhưng ảm đạm. Dọc theo bờ sông được trang hoàng rải rác những chiếc bàn thờ lung linh ánh đèn, một đoàn sáu mươi chiếc thuyền nhỏ nghiêm trang kính cẩn chuyên chở nào là "linh xa", nào là bàn dâng lễ vật, nào là các vị sư tụng kinh, nào là những tay múa rối đóng vai trừ tà, nào là đám người mang củi đuốc, nào là các hoạn quan thị vệ phụ trách đem đốt những đồ vật. Tất cả đều chầm chậm lướt đi yên lặng để không quấy rầy giấc ngủ của Hoàng đế. Cùng lúc ấy, dọc theo bờ sông Tô Lịch rồi đến sông Đáy và tiếp đó là dọc theo các nẻo đường, dân chúng từng đoàn lũ lượt tuôn đến quỳ gối rên khóc, ở mỗi trạm dừng trong mỗi tỉnh thành, các quan chức địa phương đều lo thu xếp việc dâng lễ tế. Mọi người đều tiễn đưa đức Lê Thái Tổ, vị sáng lập triều đại nhà Lê, trở về lại Lam Sơn, quê cha đất tổ của ngài, để ngài được mãi mãi nghỉ yên giữa những ngôi đền được xây cất theo kiểu lăng tẩm nhà Minh ở Bắc Kinh. Hoàng đế sẽ được đặt vào một vị trí bí mật trong khu mộ địa hình vuông, như thế ngài sẽ được bí mật ẩn tàng và được những cỗ ngựa, thớt voi, sư tử và tê giác bằng đá canh giữ.
Than khóc và đọc văn tế xong, Thái tử phủ phục dâng lễ tế cho người cha quá cố, đoạn truyền đốt lửa thiêu hủy chiếc thuyền tang đồ sộ và hàng đống đồ vật vị Hoàng đế đã dùng lúc sinh thời.
Sau khi mọi sự đã hoàn tất, vị Thái tử nghiêng mình trước ngôi bảo tháp chứa đựng bài vị cha mẹ ngài, tức vị Hoàng đế quá cố và bà vợ chính thức của Hoàng đế (bài vị Hoàng hậu được đặt cùng một nơi với bài vị Hoàng đế, phong tục Việt Nam khác với Trung Quốc), đoạn cùng với các quan đại thần lên đường về lại Kinh đô, để lại đó các bà vợ và các cung tần không con cái của Hoàng đế, những người này lãnh nhiệm vụ vĩnh viễn canh giữ lăng mộ cùng với vài người lính.
Vào tháng tiếp theo, ngọn bút nhà chép sử Thăng Long ghi lại những dòng sau:
"Mồng Tám tốt ngày tháng 9 năm Quý Sửu (1433)
Thái tử lên ngôi lấy niên hiệu "Thiệu Bình"
Phong tặng bà mẹ họ Phạm của ngài tước hiệu Thượng tôn Hoàng thái hậu189."
Tiếp theo:
Vào mùa đông, nhằm tháng mười một, Nguyễn Trãi được giao soạn mộ bia Hoàng đế Lê Thái Tổ, mộ phần đặt tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn.
Rồi:
Vào tháng Giêng, mùa xuân năm thứ nhất triều đại Lê Thái Tông (1434), Tân Hoàng đế dâng lễ tế đàn Nam Giao, tấn phong Lê Sát làm Đại Tư Đồ190 nắm quyền phụ chính bởi vì Tân Hoàng đế vẫn còn nhỏ tuổi. Tái cử Nguyễn Trãi vào các phận vụ thượng thư của mình đứng đầu Tam Ty191.
Rồi:
Vào mùa hè tháng Năm, Nguyễn Trãi được phong làm Thái Phó của Tân Hoàng đế ở điện Khâm Thiên, thể theo ý muốn của vị Hoàng đế quá cố. Sau đó xảy ra đại hạn và đói kém.
Từ lâu nay, trời không đổ mưa, mùa màng thóc lúa thất thu. Các quan được phái đi khắp nơi giám sát tình hình. Thuế khóa và tạp dịch được miễn. Kho bạc được phân phát ra. Một đoàn sứ giả được chỉ định sang Trung Quốc xin triều đình nhà Minh tấn phong cho Tân Hoàng đế.
Bản văn xin được tấn phong do Nguyễn Trãi soạn ra này, thực sự là một dịp đối đầu tiên khởi giữa vị nho sĩ và phe đảng quân sự ở triều đình.
Quả thế, Nguyễn Trãi rất bực bội và thất vọng sâu xa khi thấy Lê Sát thu tóm được những chức vụ cao, đồng thời lại làm ô dù lôi kéo một số tên bất lực, tham ô và gian xảo theo hắn mà thăng quan tiến chức.
Trãi đã tức điên lên khi nghe tên Trùm Cơ Mật viện Thục Huệ và tên hiệu đính viên Lê Cảnh Xước, hai thuộc hạ của phụ chính Lê Sát, đề nghị sửa đổi một vài chữ trong bản văn trên.
Trãi liền ném thẳng một câu chẳng khác nhổ nước bọt vào mặt chúng:
- Hai vị thông thái quá mà! Vậy có dám thay ta mà viết lấy toàn bản văn đi!
Câu buột miệng bạo phổi này khiến bọn chúng câm lặng. Nguyễn Trãi đăm đăm nhìn bọn chúng, cái nhìn kéo bọn chúng từ địa vị cao sang được cất nhắc lên, rớt xuống trở lại vị trí đích thực:
- Chính các vị là những kẻ chỉ biết thu thuế, các vị phải chịu trách nhiệm về cuộc đại hạn hiện nay!
Giận quá, bọn chúng lập tức nhìn ra kẽ hở của lời tuyên bố ấy đề tìm cách khai thác. Tên Trùm Cơ Mật viện Thục Huệ tự nhủ với lòng mình: "Chọc mõm vào chúng tao như thế sẽ chẳng lợi lộc gì cho mày đâu" và hắn vội đi tâu ngay cho quan phụ chính những lời lẽ của Nguyễn Trãi.
Lê Sát không nén được cơn giận và lập tức cho triệu Nguyễn Trãi đến trách cứ. Hắn nói:
- Nếu lỡ xảy ra một tai họa thiên nhiên thì đâu phải lỗi của những người đó mà chính là lỗi của Hoàng đế và quan phụ chính. Các lời chỉ trích của ngài vượt quá giới hạn rồi đấy!
Dù cố hết sức, Nguyễn Trãi vẫn để lộ ra trên khuôn mặt mình nỗi buồn phiền chua ghét, Trãi trả lời:
- Thục Huệ chỉ vì chút tài vét thuế mà chiếm chỗ then chốt thiên hạ, mỗi khi có sổ sách tâu vào đều muốn vơ vét về cho quan, để mong hợp ý vua, cho nên tôi nhân việc này mà nói ra thôi. Không dám chê bai gì đến vua và tể tướng cả.
Phụ chính Lê Sát lắng nghe Nguyễn Trãi với thái độ kẻ cả thương tình để cho kẻ dưới quyền mình được phép biện minh. Thực ra lúc nào Lê Sát cũng cảm thấy tị hiềm với con người mà ngày trước hắn đã từng âm mưu trừ diệt này, tuy nhiên giờ đây nỗi tị hiềm ấy không còn bị pha lẫn với mặc cảm tự ti nặng nề như trước nữa. Thời vận đã thay đổi rồi! Trong thời gian Nguyễn Trãi bị bó buộc về ẩn ở Côn Sơn, Lê Sát đã củng cố được địa vị mình, và nhờ thừa hưởng danh tiếng cựu chiến hữu của Lê Lợi, hắn tạo được sự ủng hộ của quân đội. Trời cao tinh tường đã tặng cho hắn cơ may nắm trong tay nền chính sự của đất nước. Do ý muốn của vị Hoàng đế quá cố, Nguyễn Trãi được phong làm Thái Phó triều đình. Song, cần cột chân vị nho sĩ này vào vai trò Phụ Đạo là đủ. Dù sao đi nữa, Lê Thái Tông vẫn còn rất trẻ, đương nhiên hắn ta, Lê Sát, sẽ thâu tóm trong tay tất cả quyền hành. Thôi được, cứ để cho Nguyễn Trãi tiếp tục giữ phận vụ chưởng ấn mà y rất sành sỏi thì rồi hắn ta thử vận động cho được việc Trung Quốc tấn phong và như thế thì Ngai vàng Đại Việt được củng cố. Đồng thời, chức Phụ chính của y, Lê Sát, cũng được duy trì. Quả là mỉa mai!
Một nụ cười bí hiểm kéo giãn bờ môi lươn lẹo của Lê Sát. Những lời trình bày của vị nho sĩ không làm hắn thỏa mãn mấy. Tuy nhiên vì quá rõ bản tính ngoan cường của Trãi, cuối cùng hắn cũng giả vờ chấp nhận xem đó như những lời bào chữa. Và bằng một cử chỉ, hắn tỏ ra xem câu chuyện xích mích như đã giải tỏa. Tiếp sau đó, điệp văn thỉnh nguyện gửi triều đình nhà Minh do Nguyễn Trãi soạn thảo vẫn giữ nguyên không thay đổi.
—★—- Kìa! Kìa!
Toán cấm vệ vừa hô lớn vừa đuổi theo. Một tà áo dài màu vàng vừa băng qua sân tòa cung điện, rồi thoăn thoắt leo lên vài bực cấp, quay sang hướng đông rồi quặt hướng tây, rồi chạy biến mất vào trong các cổng lớn không khác gì một làn khói!
Toán lính chưng hửng dừng ngay lại. Tên đội trưởng la lên: Kìa! Kìa! Lập tức cả bọn đồng loạt chạy thẳng về phía trước.
Chạy hụt hơi, cậu bé liền dựa lưng vào bờ thành núp rình. Những bức tường màu son đỏ thẫm của cấm thành vang dội lại bước chân dồn dập của cậu ta. Thế là đám lính đã mất dấu vết cậu rồi và hiện đang lùng kiếm cậu tứ phía. Cậu bật cười mũi hếch lên phía mái ngói vòng cung nơi đó các con rồng cũng đang cười nhạo đám lính gác đã bị chơi một vố. Không thể nào bước ra khỏi phòng ốc hoàng cung mà chẳng bị theo bén gót. Một ngày kia, thế nào cậu bé cũng sẽ phỉnh được người giám hộ bằng cách hóa trang thành một giám quan hoặc ngay cả thành một phụ nữ để vượt ra khỏi Kim Môn, dạo chơi khắp kinh thành cho biết. Nghĩ đến đây, cậu bé liền bật cười... Tiếng la hét và tiếng bước chân bỗng sáp đến gần... Sửa sang chiếc mũ dệt bằng kim tuyến trên mái đầu xinh xắn, cậu bé lao mình băng qua các sân vườn.
Ngay sau đó, cậu bé chạy tuốt vào chính điện, xông tới giữa đám giám quan đang còn bỡ ngỡ thấy cậu, họ lập tức xúm xít vây quanh. Còn cậu bé thì vừa thở hổn hển vừa lăn đùng xuống chiếc bệ nằm.
- Xin thánh thượng chớ để mồ hôi ra đầm đìa như thế và xin đoái thương nằm dài nghỉ một lúc. - Một nàng thiếu nữ duyên dáng lên tiếng tâu.
- Trẫm chưa hề biết khanh, khanh là người mới à? - Cùng nhóm bạn gái đang tuôn đến, cô nàng thị nữ vừa quỳ gối xuống vừa thích thú nở nụ cười khiêm tốn.
- Hãy đến đây ngồi!
- Tâu thần thiếp không dám ạ! - Nói rồi cô nàng đỏ mặt tía tai, đưa cặp mắt sợ hãi nhìn đám hoạn quan đang lặng lẽ qua lại. Chỉ cần một tiếng nói hoặc một cử chỉ trái thông lệ và nghi thức là lập tức vị nữ chủ quản hậu cung rất đáng kính sợ sẽ được thông báo ngay.
- Hãy đến gần đây! Ta truyền lệnh đấy!
Tuy giọng điệu có vẻ sai khiến, nhưng ánh nhìn của vị Thánh Thượng trẻ tuổi lại chứa đầy nét dịu dàng. Đôi chân mày nhíu lại trông như đang phác ra nụ cười và nơi khóe mắt như ứ đọng những gợn sóng dâm dật như đang khêu gợi mời mọc việc ái ân.
- Không phải nàng có bổn phận thỏa mãn mọi ước muốn nhỏ nhặt nhất của Trẫm sao?
Đám bạn gái đẩy cô bé về phía trước. Cô nàng buộc phải đứng dậy làm theo lời đức vua. Ông hoàng trẻ tuổi tiến lại gần ngắm nghía nàng. Cô nàng này có đôi mắt hạt mơ, làn da trắng ngần, lọn tóc xõa dài trên đôi má trông như tranh vẽ, duyên dáng hơn hẳn các cô bé thị nữ kia. Mỗi khi gặp một khuôn mặt nõn nà mới mẻ là ông hoàng trẻ tuổi này liền cảm thấy rạo rực. Bên cạnh Đức vua, cô thị nữ cảm thấy như đang ngồi trên lò lửa ngút khói hương, cô bé gần như nín thở không dám động đậy.
- Tên khanh là gì?
- Tâu thánh thượng, thần tên là Ngọc Xuyến.
Ông hoàng trẻ tuổi đưa tay vuốt nhẹ bờ môi cô bé rồi nhìn vào đầu ngón tay mình: quả chiếc miệng đỏ mọng trinh nguyên này chẳng cần gì đến phấn son. Ông hoàng đưa tay sờ tiếp xuống cổ rồi áp tay mình lên bờ ngực cô nàng đang đập loạn xạ. Cặp mắt linh lợi của ngài liếc lần lượt đám thị nữ đang nín cười chăm chú theo dõi. Bỗng dưng Hoàng đế rút tay lại, gương mặt sa sầm giận dữ:
- Có chuyện gì vậy, quan Thái giám?
- Dạ tâu, ngài Thái phó đang chờ đợi Thánh thượng.
- Bảo ông ấy hãy chờ! Ông hoàng trẻ tuổi bực tức đáp lại.
Ngay vào lúc đó, quan Thái phó đích thân vén bức rèm bước vào ngưỡng cửa, đoạn nghiêng mình thi lễ.
Cậu bé tiếc nuối giải tán đám thị nữ, đoạn khó chịu đứng dậy nói:
- Thôi được, thưa Tôn sư, chúng ta đi!
Sau khi hai người ngồi vào đúng vị trí trong căn phòng trang trọng dùng cho việc học hành, Nguyễn Trãi mới dùng quyền giáo huấn nghiêm khắc nói với cậu học trò vương giả của mình mà không sợ làm cậu ta mất mặt:
- Hạ thần thì có thể chờ đợi, nhưng còn các phận vụ của một quân vương đối với thần dân của mình thì không thể chờ đợi được đâu.
Bỗng dưng tái mặt đi không hiểu vì bất mãn hay buồn nản, vị vua trẻ Lê Thái Tông buông tiếng thở dài. Tiếc rằng chàng ta không được có một người "Thế Thân" như vị hoàng đế Trung Hoa nọ thời cổ để cho hắn ta thay mình mà đón nhận lời giáo huấn và khiển trách! Vị Thái phó mở sách ra. Ngược dòng ký ức xa xưa, cậu thấy khuôn mặt vị nho sĩ lúc nào cũng mang nét khắc khổ của một con người chỉ biết ngụp lặn trong Quốc sự nặng nề và nhàm chán. Không biết thỉnh thoảng ông ta có tạm quên đi bổn phận nhân dân, đức hạnh để đùa giỡn với cô tì thiếp Thị Lộ của ông không?
- Thưa tôn sư, ngài chẳng bao giờ vui chơi sao?
Nét mặt Nguyễn Trãi dịu xuống:
- Sự giải trí sẽ không thú vị hơn đối với một lương tâm đã chu toàn phận sự sao?
- Thế thì, thưa tôn sư, hãy dạy dỗ Trẫm lẹ lên đi! Nhưng khoan, hãy cho Trẫm biết cô bạn xinh đẹp của Trẫm có mạnh khỏe không? - Đoạn với giọng nói nghiêm trang tạo cho khuôn mặt vị ấu chúa vẻ trang trọng của người lớn, cậu bé bảo:
- Trẫm sẽ gửi ngay một sứ điệp vời nàng đến gặp Trẫm.
- Vậy ra Đức hoàng đế vẫn đoái hoài đến tình bạn thuở trước à?
Vị Thánh thượng trẻ tuổi giương cặp mắt đầy mơ mộng trong một lúc, đoạn hạ giọng nhấn mạnh:
- Hãy mau dạy Trẫm cách cai trị! Hãy cắt nghĩa cho Trẫm nghệ thuật binh đao, phương thức tưởng thưởng nhân tài và cách thức bắt buộc mọi người thực thi ý muốn của Trẫm.
- Quy tắc đầu tiên mà các bậc trị vì trên các vương quốc phải tuân thủ là phải biết tự quản chính mình. Đạt được điều này, tức khắc các đấng ấy sẽ được mọi người tôn kính.
- Ai dám bảo Trẫm không được mọi người tôn kính? Cứ cho gọi các Hoàng thân, các đại thần đến, Trẫm muốn nhìn họ phủ phục trước mặt Trẫm!
- Tâu thánh thượng, mọi con dân đều phải phủ phục trước vị Chủ tể của mình theo đúng đòi hỏi của nghi lễ. Và việc nước được thông hanh, mùa màng được phồn mậu, nền hòa bình thịnh vượng là tùy thuộc vào việc tôn trọng giữ đúng chữ lễ. Nhưng bậc quân vương phải chú trọng đến tinh thần bên trong chứ không phải hình thức bên ngoài của lễ.
- Thế nghĩa là sao?
- Nghĩa là phải hiểu chữ lễ trong ý nghĩa chính đáng của nó, bằng không nó chỉ còn là một nghi thức trống rỗng vô nghĩa. Dập đầu, khom lưng chẳng qua là chỉ nhằm nhìn nhận uy quyền bề ngoài mà thôi.
Vị quân vương nhỏ tuổi đang trầm ngâm trịnh trọng, đón nhận lời giảng dạy của quan Thái phó thì bỗng sừng sộ quát lên:
- Bộ tôn sư cho rằng Trẫm "chỉ có vẻ" chứ không phải là một hoàng đế đúng nghĩa à?
- Xin thánh thương hãy bình tĩnh nghe thần nói. Thần chỉ có ý muốn giải thích cho thánh thượng hiểu rằng làm vua quả thực là khó khăn. Một đấng quân vương tin rằng mình cai trị giỏi mà chỉ dựa trên bằng cớ là không ai dám phản đối lại mình thì chưa hẳn là đã hành động đúng với tư cách quân vương đâu.
Sau một hồi yên lặng, cuối cùng vị thánh thượng cũng tỏ ra đồng ý.
Quả thực đúng như lời mô tả của người cha đáng kính, nhà vua trẻ tuổi này tính tình hay thay đổi, nhẹ dạ, ham khoái lạc và quyền bính nhưng đồng thời lại nhanh trí, thông minh, hiểu biết sớm trong nhiều lĩnh vực, khéo tìm lợi ích riêng cho mình trong tất cả mọi sự, dễ dàng khước từ những ràng buộc mà Thiên mệnh đòi hỏi để chỉ giữ lại cho mình những gì ưng ý.
Về vấn đề này, Nguyễn Trãi từng tâm sự với Thị Lộ:
- Dù cho tre còn non, nhưng sẽ không dễ uốn nắn đâu!
Lúc bấy giờ Thị Lộ đang cắm một cành đào độc nhất trong chiếc lọ hoa Gia Lâm.
- Thế phu quân dự tính thoái thác à?
- Ta có tính nói thế đâu!
Nhìn Thị Lộ đang khéo léo dùng các ngón tay uốn cành đào để làm cho nó trông thật sống động, tự nhiên một bài thơ chợt đến bên bờ môi Nguyễn Trãi:
Người phô bày nhan sắc duyên dáng: mọi trái tim đều xao xuyến
Một vì hoa đến, một phần do khí xuân bừng dậy
- Ta có tính nói thế đâu! - Nguyễn Trãi lặp lại đang lúc tâm trí ghi lại những vần thơ.
Thị Lộ quay nhìn Trãi, đôi mắt dài đen sẫm như con thuyền trong vũng nước lấp lánh. Tay trong tay hai người ngồi xuống tấm phản đối diện cành đào đẫm sương đang lắt lay trước ngọn đông phong. Họ yên lặng tận hưởng giây phút hòa hợp bên nhau. Cuối cùng, Nguyễn Trãi lên tiếng:
- Rõ ràng Thiên ý muốn ta rèn luyện quyền uy mà chẳng bao giờ hành xử quyền uy đó. Cùng với người con, ta sẽ tiếp tục cái sứ mệnh đã khởi sự nơi người cha: Ta sẽ dạy dỗ cho vị hoàng đế trẻ này cái nghệ thuật cai trị.
Thị Lộ phóng về Trãi tia nhìn khác lạ, trừng trừng rực lửa, tia nhìn mà trong cơn giận điên, nàng đã từng khiến Nụ Nhài phải nghi ngờ không biết còn có thuộc về nhân tính nữa không. Vậy là đức phu quân yêu quý của nàng không hề nghĩ đến chuyện lui về ở ẩn. Chắc hẳn khôn ngoan biết chấp nhận là đặc điểm của người có tuổi. Thị Lộ thở phào nhẹ nhõm: rồi đây họ sẽ ở lại Thăng Long, nàng sẽ lại được vời vào triều. Cơn rùng mình nồng cháy đang lưu chuyển trong các bông hoa đào... Thị Lộ như sống lại buổi sáng vừa mới xảy ra cách đây không lâu, nàng được mời vào diện kiến hoàng đế... Ngay khi nàng vừa được các giám quan dẫn vào và khi bức rèm được hạ xuống lại, vị Hoàng đế trẻ tuổi ngồi trong chiếc võng màu hồng treo trên chiếc giường đã gọi nàng đến bên ngài... Nàng đã nhìn thấy một chàng thanh niên đẹp trai, khuôn mặt ngọc, cặp mắt chứa đầy vẻ đắm đuối lả lơi.
- Cô bạn xinh đẹp của Trẫm ơi, Trẫm chờ đợi nàng...
Vị Hoàng đế cầm tay kéo nàng lại gần hơn rồi giữ lại một hồi lâu đoạn siết chặt nàng một cách suồng sã... Tấm áo gấm màu vàng toát ra mùi hương quyện lẫn mùi thơm các loại gỗ quý xung quanh khiến người nàng mềm nhũn như tơ lụa. Bầu không khí nhuốm nồng những khoái cảm lạ lùng xen lẫn một nỗi sợ hãi bối rối... Nàng vẫn như đang còn cảm thấy ngất ngây...
- Kìa, muội đang mộng mơ gì thế!
Thị Lộ nửa thực, nửa dối trả lời:
- Thiếp đang nghĩ tới Thánh thượng. Thiếp đã biết ngài lúc ngài còn là cậu bé và thiếp thì cũng chỉ là một... Phu quân ơi, để giáo dục ngài, phu quân cần phải kiên nhẫn và nhất là phải mềm dẻo...
- Đó lại là điều mà ta chẳng có! - Vị nho sĩ vừa cười vừa nói.
Thị Lộ đưa mắt âu yếm nhìn Trãi:
- Nếu học trò xứng đáng với thầy thì tức là phu quân sẽ cai trị qua trung gian thánh thượng vậy.
E ngại vì đã quá táo bạo, Thị Lộ vội quay người chăm chú vào cành đào:
- Cắm kiểu này thì chắc hẳn người ta sẽ cho rằng cành đào này thật sống động phải không ạ?
—★—Định mệnh đã đặt Nguyễn Trãi ở vị trí đằng sau quyền bính và bây giờ ông vẫn giữ mình yên vị trong tư thế ấy. Không làm gì được cho hiện tại, ông bèn chuẩn bị cho tương lai.
Nhưng dạy dỗ Lê Thái Tông không phải là chuyện dễ. Trong cung điện của mình, ông vua trẻ tuổi này được hưởng quyền bính tối thượng chỉ thỉnh thoảng mới bị ngăn cản bởi quyền bính của các Thái hậu hay của quan nhiếp chính. Quyền bính ấy đã khiến cho một số tính xấu phát triển nơi ngài. Các tính xấu mà ở bất cứ người nào khác thì đã được sửa dạy. Được cưng chiều từ hồi nhỏ, lại thường xuyên nhìn thấy mọi người đều phải khum lưng kính cẩn mình, tính tình của ông hoàng 12 tuổi này đã trở nên bướng bỉnh và ngông cuồng, bản chất thì bất định như nước. Có lúc tâm trí ngài ở đâu đâu, gương mặt uể oải, ngài chỉ nghĩ đến việc chơi giỡn và không thèm giấu giếm sự chán chường của mình, có lúc ngài chịu nghe, nhưng nói năng ngang ngược và đặt ra những câu hỏi ngạo mạn xấc xược. Làm sao cho cái đầu óc còn non nớt kia hiểu được rằng quyền lực thực sự của bậc vương giả không phải được ngự trị ở bên trong cấm thành, trên bọn thái giám và các quan lại của mình, mà phải phù hợp với những nguyên tắc được mọi người chấp nhận để thuận lòng Trời và đáp ứng được với những nguyện vọng của thần dân?
- Tâu bệ hạ, đã là bậc quân vương thì phải có đức hạnh, nếu không thì không còn là gì cả.
- Thưa Tôn sư, vậy thì lẽ ra thầy phải trị vì mới phải. Các vị tiên vương của ta có đức hạnh không?
- Các vị vua Thuấn, Vũ, Thang, Văn xưa kia là những bậc thánh, ngày đêm chỉ lo sợ không làm tròn bổn phận mình và không dám sao nhãng điều gì cả
- Nói làm chi tới mấy vị vua Trung Hoa thời cổ ấy, hãy nói cho ta nghe về những vị tiên vương của ta!
- Bệ hạ có lý khi phân biệt Đại Việt với Trung Hoa. Trung Hoa là cả một thiên hạ, còn Đại Việt chỉ là một nước, Hoàng đế phương Bắc trị vì để mọi nước được hòa hợp, còn Thiên tử phương Nam thống trị trên các làng xã. Những vị tiên vương nổi tiếng của bệ hạ đã cố gắng làm việc đó bằng cách chuyên cần trong công việc, tiết kiệm trong mọi chi tiêu, nỗ lực kính Trời và chăm lo cho dân...
- Quan nhiếp chính và các bậc đại thần nói năng ngọt như mật, gồm toàn những nguyên tắc tốt đẹp, nhưng ta thấy rất ít người áp dụng những nguyên tắc ấy. Tại sao làm Thiên tử lại phải tuân giữ nghiêm nhặt hơn tất cả thần dân của mình?
- Vì Thiên tử là Hoàng đế. Người ta càng cúi đầu trước uy quyền của những lệnh ngài ban, thì ngài càng phải lo sợ. Quyền lực của ngài càng lớn, thì ngài càng phải sử dụng nó một cách chừng mực. Cái danh hiệu Thiên tử là tượng trưng cho lòng hiếu thuận của ngài, sự tuân phục của ngài đối với vị Hoàng đế tối thượng, chứ nó không phải là tượng trưng cho sự thống trị ngạo mạn của ngài.
Trong khi quan Nhiếp chính Lê Sát, quan Tể tướng Lê Vấn làm mưa làm gió trong triều đình, thì quan Thái phó phải đếm từng năm từng tháng trôi qua. Ông phải dạy dỗ thật nhanh chóng để Hoàng thượng biết cách cai trị khôn ngoan và trước tiên làm cho ngài thích thú với việc thi hành quyền bính, và việc kiến thiết lại xứ sở. Làm sao làm được việc đó nếu không mở mắt Hoàng đế nhìn ra cái vương quốc Đại Việt đẹp đẽ của ngài, vì đôi mắt ngài đang bị giam hãm trong cái cấm thành này?
- Tâu bệ hạ, người ta không thể hiểu gì về những công việc trong thiên hạ nếu người ta không biết gieo lúa vào tháng nào, nếu người ta chưa bao giờ nhổ một ngọn cỏ.
- Thưa Tôn sư, thầy hãy kể cho Trẫm nghe về cuộc đời của những nông dân ta, con trai con gái họ gặp gỡ nhau thế nào để hát hò và hát đối với nhau?
Nguyễn Trãi thích thú công việc này nên năm Ất Mão (1435), chưa đầy mười ngày, ông đã soạn xong cho vị vua trẻ tuổi ấy một cáo luận về địa lý trong nước thời đầu nhà Lê, căn cứ vào những tư liệu được đem từ Côn Sơn về kinh đô.
Sau khi đọc xong tác phẩm ấy, gương mặt Hoàng đế đầy vẻ đạo mạo khác thường, ngài bình giải một cách thành kính, điều này được ngòi bút của quan biên niên sử ghi lại như sau:
- Vị tiên vương lừng lẫy của Trẫm đã gây dựng toàn bộ đất nước này để lưu truyền lại cho con cháu, lòng nhân hậu của ngài thật bao la. Và Tôn sư đã giúp ngài trong việc thay trời cai trị đất nước này, công lao của Tôn sư có thể sánh ví với Trời cao. - Rồi bằng một giọng nói khiến Nguyễn Trãi không thể không nhớ tới giọng của vị Hoàng đế đã khuất núi: - Xin hãy hứa đừng bao giờ bỏ Trẫm và hãy hướng dẫn Trẫm đi đúng con đường mà các vua Vũ và Thuấn đã theo. Công lao của khanh lúc đó thật là phi thường.
- Nếu bệ hạ nghĩ đúng như vậy - Nguyễn Trãi trả lời - thì thật là hạnh phúc cho quê hương đất nước này.
- Thưa Tôn sư, chỉ một mình thầy là người dạy cho Trẫm biết rằng điều đầu tiên của việc trị dân là làm sao cho xứng đáng với niềm tin tưởng của nhân dân, mà nếu không có sự tin tưởng đó thì xã tắc không thể đứng vững được, Trẫm đã tạo được sự tin tưởng đó chưa?
- Bệ hạ còn trẻ tuổi quá, dân chúng đang đau khổ chờ bệ hạ trưởng thành lên.
- Như vậy nghĩa là có một số người ở đây đang lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm của Trẫm à?
- Nay mai bệ hạ sẽ trị vì không còn sự bảo hộ của người khác và sẽ được những người tài đức cộng tác.
- Ở địa vị tối cao này, làm sao Trẫm có thể nhận ra được những người đó?
- Tâu bệ hạ, người có tài rất nhiều, và có nhiều cách để tiến cử họ. Cũng như Tiên vương của bệ hạ, bệ hạ cần phải kêu gọi họ tự giới thiệu chính họ, đừng sợ bị đưa ra bán đấu giá viên ngọc của mình, nhờ vậy bệ hạ tránh được buồn phiền vì nghĩ rằng đất nước mình thiếu người.
- Khanh muốn nói rằng Hoàng Khảo Trẫm đã kêu gọi những người tài năng nhưng họ đã không đáp ứng lời kêu gọi của người chăng? Rằng triều đình của Trẫm thiếu người tài chăng? Nhưng điều đó không giống như quan Nhiếp chính đã giải quyết với Trẫm!
- Tâu bệ hạ, không phải vậy đâu! Nhưng có được bao nhiêu người giữ được những trách nhiệm đúng với tài năng mình? Họ phải sống mòn mỏi trong bóng tối với những địa vị thấp kém trong khi những quan lại bất tài nhờ mưu kế mà khuynh loát192 triều thần, chiếm được những quyền cao chức trọng trong nước, và quy tụ quanh họ những người vô tích sự và hư hỏng, mà tài ba duy nhất của bọn đó là khéo nói dối và nịnh hót. Như thế làm sao bệ hạ có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của họ trong những nhiệm vụ lớn lao mà bệ hạ phải gánh vác? Làm sao nhân dân sống trong an vui và thịnh vượng được? Xin bệ hạ hãy tha thứ cho hạ thần với những lời quá ngay thẳng của hạ thần.
Vị Hoàng đế trẻ tuổi suy nghĩ, vầng trán đượm nét ưu tư. Người vừa nói điều đó một cách không sợ hãi chính là người bạn tận tâm tận lực của thân phụ đáng kính của mình. Được trao cho ấn tín, ông đã tham dự vào quyền bính. Những lời khuyên nhủ của ông đã được nghe theo, những kế hoạch của ông đã được kháp thuận. Ông đã uống máu bạch mã và đã tuyên thệ, điều này dành riêng cho những bậc đại công thần của triều đại. Nhưng Lê Sát đã chẳng mặc áo trận khi tổ quốc lâm nguy sao? Chẳng phải ông ta cũng đã giữ chức Nhiếp chính, chính vì do công lao của ông ta đó sao? Hay là chỉ nhờ khéo léo của ông? Một giọng nói thì thầm vào tai Hoàng đế - giọng nói khác thường của Đại Vương Lê Thái Tổ lúc hấp hối: "Con trai yêu quý của ta, con hãy đề phòng đừng tin tưởng những người có binh lực trong tay!"
- Đó chỉ là những tranh giành của bọn tôi tớ, Trẫm sẽ xếp đặt đâu vào đó! - Vị Hoàng đế trẻ tuổi kết luận và buông mình theo cơn giận như mỗi lần ngài cảm thấy mình do dự và bối rối. - Trẫm sẽ cho họ thấy rằng ở đây chỉ có một người chủ duy nhất!
Vị Hoàng đế trong những ngày tốt đẹp của đời ông đã làm cho quan Thái phó vui lòng.
- Số phận không cho phép ta giáo dục chính những đứa con của mình, mà đầu tiên lại trao phó cho ta giáo dục một nông dân, và cuối cùng dạy dỗ một vị Vương. Đó chẳng phải là một biểu tượng sao hả tiểu muội?
- Thiếp thấy đó là một điềm lành cho cái tiếng Quốc ngữ mà phu quân vẫn tán dương, và nhờ phu quân mà Hoàng đế trẻ của chúng ta mới lưu tâm tới tiếng nói ấy.
- Thế ra nàng cũng biết chuyện ấy! Đúng là hiện nay nàng vẫn thường gặp Hoàng thượng.
- Hoàng thượng là một người trẻ tuổi cô đơn.
Thị Lộ bỗng nhiên quay mặt rời khỏi ánh mắt của Trãi, nhìn xa xăm và bỗng nhiên có vẻ xa vời.
- Phu quân đã chẳng nói với thiếp rằng từ nay ngài đã chịu chăm chú học hành và những tiến bộ của ngài so với năm ngoái thì rất rõ rệt sao?
Nàng đã hỏi câu hỏi đó một cách đầy sôi nổi nhiệt tình. Chưa bao giờ nàng lại triển nở kiều diễm đến thế. Lại một lần nữa, Nguyễn Trãi cảm thấy ruột gan héo hắt vì một nỗi khổ tâm thầm kín.
- Quả thật hoàng thượng đã bớt nghe theo những lời khuyên ghê gớm của tên Thái giám Đinh Phúc, là tên khéo chiều theo những nhược điểm của ngài. - Nguyễn Trãi nói một cách nhượng bộ. - Chắc chắn điều đó là do ảnh hướng tốt đẹp của muội đấy, muội ạ!
- Chỉ do ảnh hưởng của phu quân thôi - nàng vội vàng trả lời.
Nguyễn Trãi cảm thấy rõ ràng rằng người học trò của ông bực bội vì phải sống dưới sự dìu dắt của ông và đã cưỡng lại, nhưng điều đó không quan trọng. Nói cho đúng, vậy lại càng tốt! Những thái tử sinh trưởng trong giàu sang không biết rèn luyện ý chí của mình. Cần phải làm giảm bớt cái tính hay thay đổi của nhà vua trẻ tuổi Lê Thái Tông này: ngài phải biết tự suy nghĩ lấy, phải giữ được trung dung trong việc cất nhắc những người có tài, ban hành một chính sách, mệnh lệnh và thi hành bất cứ một việc nào.
Đó là một nhiệm vụ phi phàm vượt sức người, ngoài ra nó còn bị phá ngang quyết liệt do sự thù nghịch của phe quan. Nhiếp chính đang nhằm làm đối trọng ảnh hưởng của mình bên cạnh nhà Vua. Vị nho sĩ càng thấy uy tín mình tăng lên, thì Lê Sát và đồng đảng của hắn càng tìm cách giảm thiểu vai trò của ông, biến nó thành vai trò của một viên ngự sử ảm đạm, tệ hơn nữa là của một quan ngự sử đang bị dị nghị. Suốt mấy năm nay, họ không bỏ qua một cơ hội nào.
Năm Ất Mão (1435), họ đã lợi dụng cơ hội một vụ hình sự với mục đích chứng minh cho Thiên tử thấy rằng những nguyên tắc của Quan Thái phó không đi đôi với những hành vi của ông.
- Có bảy tên bất lương, tất cả đều trong tuổi vị thành niên, đã bị luật pháp kết án tử hình vì tội ăn cướp. Dân chúng đứng lên chống lại bọn chúng, đòi nhà vua phải xử theo công bằng. Nhưng quan Nhiếp chính đã giả nhân giả nghĩa nói thêm: chúng còn ngần ngại chưa dám để bấy nhiêu máu vấy lên danh của ngài.
Đương nhiên nhà vua quay về phía Nguyễn Trãi. Làm sao ông này dung hòa được lòng nhân đạo với sự công bằng? Nếu nghiêm khắc, ông ta sẽ phạm cái lỗi thiếu nhân đạo, nếu khoan dung thì thiếu công bằng. Viên Nhiếp chính đã thích thú vì sự bối rối của Nguyễn Trãi.
- Tâu bệ hạ, ra lệnh trảm quyết bảy người đó, hạ thần e rằng đó không phải là một hành vi trọng luân lý. Kinh Thư có câu: Hãy xác định chỗ nên dừng lại, tức là "biên tri chỉ".
- Xin tôn sư hãy ngưng những trích dẫn tối nghĩa ấy, và hãy nói rõ ràng hơn!
Dưới bệ ngọc, viên Nhiếp chính và Lê Vấn liếc mắt biểu đồng tình với nhau: vị nho sĩ đang tự giết mình bằng gươm.
- Xin Bệ hạ cho phép hạ thần trình bày ý nghĩa của câu "dừng lại ở chỗ nên dừng lại". Nguyễn Trãi kiên trì lặp lại. Cũng như cung điện này là nơi thích hợp để Bệ hạ cư ngụ, nếu Bệ hạ có đi đâu, thì Bệ hạ cũng luôn luôn trở về đó. Cũng vậy, đối với Thiên tử, sự công bình và lòng nhân đạo chính là nơi mà ý chí của các ngài phải nhắm làm chỗ dừng lại. Nếu đôi khi phải sử dụng sự nghiêm khắc của luật pháp, thì những cách hành xử ấy chỉ có thể có tính cách tạm thời. Thần xin Bệ hạ hãy lắng nghe một chút những lời hạ thần.
- Vậy là khanh chủ trương khoan hồng đối với bảy tên cướp trẻ ấy - vị Hoàng đế kết luận.
Viên Nhiếp chính cho rằng đây là giây phút thuận lợi để nói với Nguyễn Trãi:
- Vì ngài đặt lòng nhân đạo lên trên hết, nên chúng tôi sẽ giao phó những tên bất lương này cho ngài để ngài cải hóa chúng nên những con người lương thiện
- Thưa Tôn sư - nhà vua lúc này có vẻ rất khoái chí nên hỏi Nguyễn Trãi - khanh có đồng ý với lời đề nghị của Quan Nhiếp chính không?
- Xin Bệ hạ đừng hiểu lầm ý nghĩa của những lời nói của hạ thần. Đối với những gì đó có lợi cho đất nước và dân chúng, chúng ta nên cương quyết. Vì thế hãy áp dụng luật lệ nghiêm khắc đối với hai tên cướp đầu xỏ và tỏ ra khoan hồng đối với những tên khác. Như vậy thì vừa thực hiện được công bằng vừa không thiệt hại gì tới lòng nhân đạo của Bệ hạ. Còn việc giáo dục những con người lầm đường lạc lối là một người thiếu đức, làm sao hạ thần dám hy vọng cải thiện họ được khi mà luật pháp nghiêm minh trong nước không thể đưa họ vào đường ngay nẻo chính?
Khi nói như vậy, ông phóng một ánh mắt sáng quắc về phía viên Nhiếp chính, nét mặt đang lạnh băng vì tức giận.
- Hãy cứ như thế mà xử trảm hai tên, còn năm tên kia cho đi lưu đày! - Hoàng đế ra lệnh. Sau khi quan Nhiếp chính và Lê Vấn rút lui, ngài nói thêm: - Thưa Tôn sư, khi từ chối việc giáo dục những tên cướp trẻ ấy, khanh đã thoát được cái bẫy của họ, tự cho mình là một Hiền giả, một Thánh nhân!
- Tâu Bệ hạ, đó chẳng phải chính là biết chỗ nào thích hợp với địa vị của mình để dừng lại sao?
Quan Nhiếp chính và đồng đảng của hắn không chịu cho mình là bị thua. Ngồi trên ngai vàng, Hoàng đế trẻ tuổi không thể có một ý riêng nào mà cũng không thể rèn luyện để trở nên một người có bản lĩnh.
Vì thế, năm sau đó là năm Bính Thìn (1436), được tên Thái giám Đinh Phúc thông đồng hỗ trợ, họ gia tăng những dịp lễ hội và vui chơi ác liệt, lôi cuốn mạnh mẽ nhà vua trẻ vào một cuộc sống buông lỏng. Đến nỗi suốt mấy tuần trăng, nhà vua không hề nghe theo những đề nghị khuyến học của quan Thái phó. Quá nản lòng, nếu không có lời van nài của Thị Lộ thì Nguyễn Trãi đã rút lui về Côn Sơn từ lâu.
- Có quá nhiều chướng ngại đã cản trở sứ mệnh của ta! Giữa biết bao hận thù, hủ hóa, và những hành động bất lương chồng chất, nếu cứ ở đây ta sẽ bị ngạt thở mất!
- Xin Tướng công đừng thất vọng! Nhà vua trẻ của chúng ta, vốn ý thức về bổn phận của mình, đã hồi tỉnh lại. Đôi khi thiếp đã được hân hạnh nghe ngài tâm sự, thiếp biết rằng sự giám hộ của quan Nhiếp chính đè nặng lên ngài, và thiếp dám quả quyết rằng chẳng bao lâu nữa ngài sẽ rũ bỏ hất đi sự giám hộ đấy.
- Muội à! Nhà vua còn trẻ quá, mà quan Nhiếp Chính lại nắm trong tay một lũ đồng phe với mình trong hàng ngũ các vị công khanh cao cấp, và có nhiều phương cách để loại trừ những kẻ gây chướng ngại cho y. Lịch sử không thiếu gương những vị hoàng đế bị quan Nhiếp chính hạ thủ. Mặc dù Lê Sát chỉ có một đầu óc tầm thường, nhãn quan hạn hẹp, nhưng hắn ta cong queo như một lưỡi móc câu!
- Tướng công ơi, xin chàng đừng coi nhà vua như một đứa trẻ nữa! - Thị Lộ đỏ mặt kêu lên - Bằng một hành động đột phá, có thể một ngày nào