Chương 3 CHỨNG CUỒNG ÁM
Sotchi, bên bờ biển Đen cũng đêm đó, tháng Tư năm 1934
Đó là một ngôi nhà kính nhỏ bé, tràn đầy ánh sáng, tựa như đèn lồng pha lê, nằm sát vách ngôi nhà chính. Phần còn lại tối om. Người ta không nhìn thấy đám lính canh có vũ trang chốt trên mái nhà và trong các lùm cây. Từ phía cuối thung lũng, gió biển thổi về.
Trong ngôi nhà kính, ba cái đèn cồn treo giữa những giò phong lan chiếu sáng một người đàn ông. Trông như một thợ làm vườn. Ông đang tỉa cây cam trong chậu.
- Đi ngủ đi con, Setanka, Setanotchka của ta.
Giọng nói thật dịu dàng. Setanka làm như không nghe thấy. Cô bé tám tuổi. Ngồi bệt dưới đất, trong chiếc áo ngủ, cô bé đang lái những hạt giống dài như lái những con thuyền độc mộc trong thùng nước tưới cây.
Phía ngoài, đèn lắc lư. Một khuôn mặt lo âu xuất hiện sau lớp kính cửa ra vào. Người đó gõ cửa.
Ria mép người thợ làm vườn hơi nhướn lên. Ông vẫn tiếp tục công việc của mình mà không trả lời.
Người khách bước vào và tiến gần tới những cây cam.
- Có tin từ Paris, anh ta nói.
Người làm vườn thậm chí chẳng quay đầu lại phía anh ta. Những nếp nhăn trên mắt cho thấy ông đang cười.
- Những tin không vui, vị khách nói rõ.
Lần này, mắt người làm vườn nhìn thẳng vào mắt anh ta, một ánh mắt xanh biếc như băng trên hồ Baïkal.
- Chim…, người đưa tin vừa nói vừa lùi lại, Chim đã bay mất rồi. Thật không thể hiểu nổi.
Người làm vườn mút ngón tay rướm máu. Ông vừa bị chiếc kéo đồng làm đứt tay.
Dưới chân ông, cô bé thôi không chơi nữa. Cô bé lắng nghe.
Nhiều năm nay cô bé vẫn hay nghe nói về Chim.
Giữa những người đến nói chuyện với cha cô bé, giữa những cuộc đối thoại bí hiểm kiểu này, chỉ mỗi Chim thu hút sự chú ý của cô bé.
Cô bé tự vẽ ra những câu chuyện về Chim. Buổi tối, cô bé mơ thấy Chim bay vào phòng mình, rồi cô bé giấu nó trong lòng bàn tay hay trong ga trải giường.
- Boris bắn trượt, người đàn ông giải thích. Nhưng Boris nói sẽ tìm thấy hắn. Nếu không, cảnh sát Pháp sẽ làm việc ấy…
Người đàn ông đứng đó, im lặng. Ông cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Và cuối cùng, khi người làm vườn nhìn đi chỗ khác, anh chàng đưa tin mới trở ra, tái mét, cẩn thận đóng cánh cửa kính dày cộp rồi bước đi.
Chiếc đèn biến mất trong đêm.
Một giọng nhỏ nhẹ hỏi:
- Chú ấy nói về con chim nào đấy ạ?
Người thợ làm vườn bất động.
- Ngủ đi con, Setanka.
Lần này, cô bé đứng dậy, hôn lên chòm râu dày của cha như mỗi tối. Rồi thì thầm điều gì đó vào tai ông.
Trong chiếc váy ngủ màu trắng, cô bé vừa đi vừa xòe cánh tay như xòe đôi cánh.
Người làm vườn cắm phập cái kéo lên bàn. Ông đang nghĩ đến những thứ khác.
Ông đã quên những gì cô con gái vừa nói.
“Đừng bắn chim.”
Cô bé đã nói vậy.
Nếu cô bé mà biết được…
Lúc đó, ở Paris
Vango đang bước đi trên những mái nhà ở Paris. Cậu thuộc lòng con đường trên không dẫn từ tu viện dòng Cácmen đến vườn Luxembourg. Cậu có thể đi hết con đường ấy mà hầu như không chạm đất. Cậu biết cảnh sát đang chốt trước trường và chỉ đợi mỗi cậu.
Vango băng qua dãy nhà toàn quán rượu, trườn trên bảng đá và nhảy qua các ông khói. Cậu thuộc từng sợi cáp treo để vượt phố xá. Cậu thậm chí chẳng làm phiền đến lũ chim bồ câu tình nhân tháng Tư đang gù gù tán tỉnh nhau trong máng. Cậu bay trên đầu người dân sống ở gác mái, qua đám sinh viên, những chị giúp việc, những người nghệ sĩ. Cậu không đánh thức bọn mèo và thậm chí chẳng chạm vào vải vóc phơi trên sân thượng. Chốc chốc, bên một ô cửa sổ mở toang, có người phụ nữ khoác mền ra hít thở không khí của đêm mùa xuân.
Nhảy từ mái nhà này sang mái nhà khác, cậu chỉ di chuyển trên cao, không hề gây tiếng động.
Vài ngày trước, Vango vẫn còn đi con đường đó nhưng theo hướng ngược lại để trốn khỏi trường giữa đêm khuya đến khu vườn phủ đầy tuyết.
Từ cái máng gần nhất, cậu nhảy xuống một cây dẻ già vươn qua lưới sắt dựng đứng của công viên, rồi cứ thế trườn dọc thân cây.
Tuyết rơi suốt những ngày đầu tháng Tư. Vango cứ bước đi đến tận khi bình minh lên, mải miết trong tuyết, giữa những thảm cỏ và lối đi vắng vẻ. Cậu ngắm nhìn lớp băng đóng trên các mặt hồ, rồi, vẫn bằng đường mái, cậu quay về phía tu viện dòng Cácmen để dự buổi lễ sáng.
Vì cậu về muộn nên cha Jean mắng mỏ đôi chút.
- Con ngủ nhiều quá đấy, cậu bé.
Ông vừa nói vừa nhìn đôi giày của Vango, đầy tuyết và bùn. Không thể giấu cha Jean điều gì.
Nhưng lần này, khi đang đi trên những mái nhà Paris, Vango đoán những gì đang đợi cậu ở tu viện, sẽ không phải là những lời trách móc nhẹ nhàng của cha Jean, cũng không phải cơn thịnh nộ của lão Bastide, ông chủ, người cai quản ngôi trường giống như một trại lính…
Những gì đang đợi cậu, đó là cảnh sát, còng số tám, có thể cả nhà tù nữa.
Tại sao cậu lại trốn chạy, sáng nay, ở Nhà thờ Đức Bà? Tại sao cậu trốn chạy nếu cậu chẳng làm gì để bị khiển trách? Trốn chạy có nghĩa là cậu đang tự thú. Nhưng Vango không thể thoát khỏi cái sức mạnh siêu nhiên ấy, sức mạnh đã đẩy cậu đến chỗ ngờ vực tất cả, đến chỗ tự cho mình là cái bia của đủ loại kẻ thù.
Vango tin mình đang bị đe dọa. Từ lúc cậu mười bốn tuổi, người ta đã nói cậu mắc căn bệnh này, căn bệnh mà một bác sĩ tâm lý đã ghi bằng chữ in hoa trên hồ sơ bệnh án: CHỨNG CUỒNG ÁM. Tại ba cái từ này mà suýt nữa cậu bị tống ra khỏi trường. Cha Jean đã bảo vệ cậu hết sức. Ông nhận làm người bảo lãnh cho sức khỏe tinh thần của Vango.
- Cha đang mạo hiểm đấy, phụ tá giám mục Bastide nói với cha Jean. Cha sẽ tiếc về việc đó.
Cha Jean mạo hiểm từng ngày, nhưng ông không bao giờ hối tiếc.
Tuy nhiên, lần này, ông lại thấy lo lắng.
Trong sâu thẳm lòng mình, ông cảm thấy phải có trách nhiệm với những gì xảy đến với Vango. Ông đã phản bội bí mật xưng tội và tiết lộ cho Bastide biết nỗi sợ hãi của Vango.
Bởi lẽ cậu tu sĩ trẻ tuổi đó đã kể tất cả với ông. Cậu tin mình đang bị vây bắt: những chiếc xe hơi bám theo cậu trên phố, những vụ lục lọi trong phòng khi cậu không có ở đó, một bộ giàn giáo đổ ập xuống ngay sau lưng cậu như thể ngẫu nhiên, và cuộc chiến ban đêm tại phòng kín tu viện chống lại một bóng đen tấn công cậu bằng dao.
Ai đó muốn giết cậu.
Chứng rối loạn cuồng ám, cơn hoang tưởng bị truy hại. Cha Jean biết rõ điều đó. Ông từng là bác sĩ quân y trong Đại chiến. Ông đánh giá được hậu quả của căn bệnh này, căn bệnh có thể dẫn đến tâm thần. Ban đầu, người ta chỉ ngỡ mình bị rình rập hoặc bị quấy rối, sau đó, người ta nghi ngờ những người thân thiết nhất và biến thành mối nguy hiểm đối với họ.
Vango dừng lại, mắt ngấn lệ. Cậu đang giữ thăng bằng trên một xà thép nhỏ nối hai tòa nhà gần như áp sát vào nhau. Cậu vừa nghe thấy chuông đồng hồ điểm ba giờ sáng ở nhà thờ tu viện. Cả cuộc đời cậu gắn với tiếng chuông. Những tiếng chuông khác, xa xôi hơn, đang nối tiếp khắp Paris và trong ký ức cậu.
Khi bản hòa âm chuông đồng hồ chấm dứt, Vango đã quyết. Cậu sẽ đến phòng cha Jean, rồi sau đó đầu hàng.
Cha sẽ đưa cậu đến cảnh sát và sẽ là luật sư của cậu. Ông sẽ giải thích cuộc trốn chạy của cậu. Rốt cuộc, cả hai sẽ cùng biết được người ta đang kết cậu tội gì. Đó là những gì cậu quyết định. Cậu có thể bào chữa cho mình vì cậu chẳng làm gì xấu cả.
Vài phút sau, cậu đã thoáng nhìn thấy những mái nhà của tu viện dòng Cácmen. Hãy còn một con phố cuối cùng phải đi qua. Một chiếc Citroën Rosalie đen đỗ dọc vỉa hè. Tia sáng đỏ của xì gà đang nhảy nhót bên trong. Trong đó chắc khó thở lắm. Chắc chắn có cả sở cảnh sát, ngồi thành hai hoặc ba lớp, trong chiếc ô tô ám đầy khói đó.
Và thậm chí cả cái thùng xe cũng có vẻ muốn ho.
Cảnh tượng này khiến Vango mỉm cười. Cậu nảy ra một ý định.
Vango đang ở trên mái của tòa nhà đối diện tu viện, phía bên kia phố. Cậu cảm thấy sau lưng mình luồng hơi nóng từ một ống khói và những cuộn khói đang bốc lên phía trên cậu.
Cậu rỡ vài viên gạch lỏng lẻo ra khỏi tường và đặt chúng bịt lên ống sành của tất cả ống khói trên mái. Như thế, khói không thoát ra ngoài được. Cậu ngồi đợi gần máng nước.
Không cần phải đợi lâu.
Thoạt tiên, đồng loạt cửa sổ sáng đèn, mở toang, mọi người ra ban công thở. Những tiếng kêu thét đầu tiên vang lên, rồi một đám người hỗn loạn trong cầu thang. Vì khói không thể thoát lên trên nên đã lan tỏa trong các căn hộ.
Vango trườn vào tòa nhà qua cửa sổ mái, đến lồng cầu thang chật cứng người, rồi cẩn thận sục sạo các căn hộ ám khói. Cậu không muốn gây nguy hiểm cho ai cả. Cậu muốn chắc chắn không còn ai trong đó. Lúc đi qua, cậu lấy tay quệt bồ hóng trong ống khói và bôi lên mặt. Không thể nhận ra Vango giữa những bóng đen chen chúc trong cầu thang, má đen sì khói.
Ở tầng ba, cậu lại gần một người phụ nữ bế hai đứa con. Cậu chộp lấy đứa bé hơn đang khóc.
- Tôi sẽ giúp chị.
Cậu xuất hiện trên phố giữa đám đông người vận pyjama. Cảnh sát đã ra khỏi xe. Hóa ra họ không phải là những người bình tĩnh nhất.
Vango băng qua phố hòa vào đám người đang chờ đợi trên vỉa hè trước mặt. Cậu chỉ còn cách cửa tu viện có vài bước. Cậu quay về phía một viên cảnh sát và đặt vào tay anh ta đứa trẻ đang gào thét.
- Anh là cảnh sát à? Vango hỏi.
- Ừ…
- Vậy thì hãy nói với các bạn của anh bà tôi đang ở tầng trên cùng. Bà đang tìm con mèo của mình. Bà không muốn thoát ra mà không có nó.
Viên cảnh sát đỡ đứa bé trên tay như thể đó là một quả bom sắp phát nổ. Anh ta trao nó cho người mới đến, ra hiệu cho đồng nghiệp và chạy về phía tòa nhà. Người ta nghe thấy tiếng còi cứu hỏa đang đến gần.
- Có một bà lão ở tầng năm!
Vango chìm nghỉm trong đám đông.
Trong cái rủi thường có cái may. Vango vẫn nghĩ như vậy. Chỉ cần có niềm tin mà thôi.
Vango đến trước cửa tu viện, huých vai vào đó. Rủi thay, nó lại đang đóng. Cậu lùi lại một bước, thậm chí còn chưa kịp chạm vào nó một lần nữa. May thay, nó lại mở ra ngay. Rủi thay, nó mở là để cho Weber, người gác tu viện đi qua. May thay… Không. Weber đứng im.
Một thoáng, họ nhìn nhau.
Lẽ nào anh ta không nhận ra Vango? Vango đếm từng giây, chờ đợi điều kỳ diệu tiếp theo. Gương mặt Weber sáng bừng. Ông ta há hốc miệng và cố kiềm chế để không kêu lên.
Vango nín thở.
- Nina Bienvenue, Weber nói.
- Sao cơ? Vango lẩm bẩm.
- Đích thị là Nina Bienvenue rồi.
- Ai cơ?
- Em là thiếu nữ ngoại ô…
- Thế nào cơ?
- Hãy nhìn khuôn mặt đáng yêu của em đi…
Được thốt ra từ một tu sĩ dòng thánh François trong bộ đồ ngủ, những lời lẽ này có cái gì đó gây ngạc nhiên. Má ông ta ửng lên một màu đỏ sáng bừng.
- Hãy ôm em trong vòng tay, chàng trai dịu dàng, chàng trai đẹp đẽ của em, hãy ôm em trong vòng tay, chàng thủy thủ của em…
Weber dang rộng cánh tay ra thật. Vango bước sang một bên.
- Xem này, người gác tu viện trịnh trọng nói. Nina Bienvenue, nữ ca sĩ của Tuần Trăng Úa này!
Vango quay lại. Trên vỉa hè đối diện, vừa xuất hiện Nina Bienvenue, nữ ca sĩ ngôi sao của rạp Tuần Trăng Úa ở Montmartre, tuyệt đẹp, chân trần, trong chiếc váy ngủ ngắn trên đầu gối, ve nhỏ khâu da lông thú màu hồng, với những chiếc nơ flanen hồng bên hông và một khuôn mặt hài hòa. Cô hai mươi lăm tuổi và làm say đắm trái tim mọi người dân Paris.
Điều kỳ diệu nho nhỏ cuối cùng, chính là cô ấy. Một cách điệu hổ ly sơn lý tưởng. Cô cũng bị xông khói như chú cá trích trong căn hộ lớn của mình ở tầng hai.
Mắt Weber đầy sao. Ông ta thuộc tất cả các bài hát của cô.
Nên biết rằng Raimundo Weber là tu sĩ dòng François ở Perpignan [1] được cho về dưỡng già tại thủ đô và đêm đêm thường chơi điệu fox-trot trên dàn đàn ống nhà thờ. Ông ta cao xấp xỉ một mét năm mươi lăm nhưng lại có cánh tay dài hai quãng tám mỗi bên.
Ông ta vươn thẳng người, cởi phăng chiếc áo choàng ngủ và quay nó xung quanh mình như võ sĩ đấu bò tót. Ông ta mặc bộ pyjama kẻ ca rô. Ông ta tiến một bước về phía cô ca sĩ, rồi bước nữa, rồi lại một bước nữa, như thể đang mời cô gái nhảy điệu tango đường phố. Cuối cùng, ông ta cúi xuống. Bởi vóc người thấp nên động tác này khiến ông ta chạm mặt hè. Rồi, lại bước ngang như đang trong cuộc đấu bò với chiếc áo choàng ngủ, ông ta phủ lên bờ vai trần của người đẹp.
- Hãy cho phép tôi nhé, Quý cô. Với tất cả sự ngưỡng mộ của tôi.
Nina Bienvenue cười.
Vango đã ở trong sân. Cậu theo hành lang dài, vào một cái sân khác. Nghe thấy có tiếng nói đến gần, cậu liền phóng vào một góc tối, trèo như thằn lằn dọc đường ống gắn trên tường. Cậu lên đến mái nhà. Thở phào.
Lúc nào cũng vậy, cậu cảm thấy thoải mái hơn khi được gần bầu trời. Cậu ham độ cao. Tai họa ngày hôm trước, tai họa suýt nữa phá hỏng cuộc đời cậu, vẫn chưa đến lúc cậu phải nằm ra đất lần đầu tiên trong đời ư?
Cậu sống cả tuổi thơ trên những vách đá, thẳng đứng so với mặt biển, giữa lũ chim trời. Cậu đã thuần hóa độ cao.
Vango tiến vài bước trên cái mái đua hẹp. Phòng của cha Jean ở ngay đó, trong một khuôn viên nhỏ, ở cuối sân lát gạch.
Cha Jean, niềm hy vọng duy nhất của cậu.
Có hai người đàn ông gác cửa, họ đứng trên bậc thềm.
Những người này không cản trở kế hoạch của Vango, không phải cái kế hoạch cứ thế ngu ngốc đi vào bằng đường cửa. Tuy nhiên, sự có mặt của họ lại làm cậu lo lắng. Cậu hy vọng họ không gây khó dễ cho cha Jean chỉ vì cậu. Đặc biệt, cậu hy vọng họ không coi cha Jean là tòng phạm trong vụ tẩu thoát của cậu hoặc trong tội lỗi mà cậu bị tố cáo. Tội… Tội nào mới được chứ?
Khi lọt được vào nhà hàng Lợn-rừng-hút-thuốc, được tuyển vào phút chót để gọt khoai, Vango chỉ muốn biết chính xác tội danh của mình là gì. Cậu đã tìm thấy đại bản doanh của cảnh sát trưởng, đã nghe ông ấy nói nhưng chẳng hiểu gì cả. Chỉ mỗi một phát hiện duy nhất lại đến từ giọng nói khác, dịu dàng như mưa mùa hạ, nhưng làm dấy lên trong cậu những đợt sóng, nó đã làm cậu xúc động rơi nước mắt.
Ethel.
Năm năm rồi, đây là lần đầu tiên cậu nghe thấy giọng nói của Ethel.
Vậy là cô ấy đã đến.
Trong nhà hàng, cậu thậm chí chẳng thể quay lại để nhìn cô. Nhưng cậu biết cô không hề thay đổi. Vango quen Ethel năm 1929, khi cô mười hai, còn cậu mười bốn tuổi. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm thay đổi rất nhiều thứ trong cuộc đời cậu. Kể từ ngày ấy, đối với cậu, thế giới dường như đẹp hơn rất nhiều và cũng phức tạp hơn đôi chút.
Một ngọn nến chập chờn bên cửa sổ phòng cha Jean. Có lẽ ông đang trong phòng. Vango bò trên máng hứng nước, lơ lửng trên không, nhảy lên mép cửa sổ tầng trên cùng rồi lại lộn xuống tầng thấp hơn. Ngay phía dưới cậu, trên bậc thềm, lính canh châm thuốc. Vango áp mặt lên kính. Một ngọn nến duy nhất đã gần cháy hết đang chiếu sáng căn phòng. Cậu nhìn thấy cha Jean ngủ trên giường.
Có lẽ ông đã thiu thiu ngủ trong buổi nhập định ban tối. Vango cười. Như thế thật giống cậu. Cha Jean vẫn để nguyên quần áo và hãy còn giữ tràng hạt trong tay.
Cửa sổ không đóng. Vango chỉ cần đẩy nhẹ. Cậu lẻn vào.
Cậu gần như được cứu thoát rồi. Cha đang ở bên cạnh cậu mà, không gì có thể xảy đến với cậu nữa.
Vango sợ làm cha giật mình. Rất nhẹ nhàng, cậu gọi:
- Con đây, cha ơi. Vango đây ạ.
Vì cửa sổ hé mở nên không khí trong phòng lạnh buốt. Cậu không dám tiến lại gần giường. Cậu quyết định đợi cho đến khi vị linh mục tỉnh giấc.
Đang tìm ghế thì cậu nhận ra một phần căn phòng bị chắn lại bằng một sợi dây chăng ngang cách mặt đất một mét.
Vango trườn xuống dưới và đi đến bên bàn làm việc nhỏ, cậu đã từng trải qua hàng giờ bên người bạn già của mình ở đây.
- Bàn làm việc, đó chính là một con tàu, một hôm cha Jean ngồi đó nói với cậu. Và đó là cách thức làm việc. Con hãy tập trung vào cuốn sách của mình và kéo căng buồm lên.
Ngoài hành lang, một cánh cửa đóng sập vào. Vango đợi lúc lâu trước khi tiến thêm bước nữa.
Mặt bàn bừa bãi. Những chiếc bút lông chỏng chơ trong vũng mực đã bị gỗ thấm khô một nửa. Một quyển vở lớn để mở. Điều kỳ lạ nhất là người ta khoanh bằng phấn trắng mỗi đồ vật như thể để đánh dấu vị trí của chúng.
Vango rùng mình cúi người xuống quyển vở. Cậu phát hiện trên trang giấy một vệt sẫm màu và hai từ duy nhất, bằng tiếng Latinh, vội vàng được viết bằng tay cha Jean:
FUGERE VANGO
Không cần thêm một giây phút nào nữa.
Cậu đã hiểu tất cả. Vệt sẫm màu đó là máu. Người ta đã giữ nguyên hiện trường căn phòng. Người ngủ trên giường là người chết.
Lúc này Vango đã hiểu ra tội của mình.
Cha Jean đã chết.
Và hai từ trên quyển vở đã tố cáo cậu: CHẠY TRỐN VANGO.
Trong mắt mọi người, cậu là kẻ sát hại cha Jean.
Cậu bị truy bắt vì tội ác này, tội ác diễn ra đêm hôm trước, ngay trước lễ thụ phong.
Vango quỳ sụp trước giường người bạn già. Cậu cầm lấy bàn tay lạnh giá của ông áp lên trán mình.
Điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất đã đến với cậu. Một viên đạn tua tủa đầu đinh đang đục xoáy tâm can cậu. Cậu cảm thấy tim và da mình bị lộn cả ra ngoài, giống như lũ thỏ bị bọn người săn lùng lột da phơi dưới ánh nắng mặt trời vùng Sicile như hồi cậu còn bé vậy.
Một lúc sau, khi đứng dậy, cậu chắc chắn hai từ mà cha Jean viết không phải lời tố cáo.
Đó là một lời báo động, một mệnh lệnh dành cho Vango.
Chạy trốn.